Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngụy thư 3. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Ngụy thư 3. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2022

TANG BÁ TRUYỆN

 

Tam Quốc Chí - Ngụy Thư 3

 


Thái tổ cho yết bảng tìm bằng được Bá, lúc gặp mặt rất hài lòng,
sai Bá đi chiêu hàng bọn Ngô Đôn-Doãn Lễ-Tôn Quan ...

TANG BÁ TRUYỆN


Tang Bá tự Tuyên Cao, người quận Thái Sơn huyện Hoa. Cha là Giới, làm phó cai ngục ở huyện, quan Thái thú sở tại muốn giết người theo ý riêng, Giới giữ phép không theo. Thái thú cả giận, lệnh cho người bắt Giới đến phủ nha, lúc ấy có hơn trăm người đưa tiễn. Bá năm ấy mười tám tuổi, dẫn mấy chục người khách men lối tắt trong núi Bỉ Tây muốn cướp cha lại, những người đi theo Giới chẳng ai không cảm động, nhân đó Bá cùng cha trốn nạn ra Đông Hải, bởi thế Bá nổi danh là hùng tráng và dũng liệt.


Quân Hoàng Cân nổi dậy, Bá theo Đào Khiêm đánh phá giặc, được bái làm Kỵ đô uý. Rồi thu nhặt binh sĩ ở Từ Châu, cùng với bọn Tôn Quan-Ngô Đôn-Doãn Lễ tập hợp quân lính, Bá làm thống lĩnh, đóng binh ở Khai Dương. Thái tổ đi đánh Lã Bố, bọn Bá dẫn binh đến tương trợ Bố. Đến lúc Bố bị bắt, Bá bỏ trốn. Thái tổ cho yết bảng tìm bằng được Bá, lúc gặp mặt rất hài lòng, sai Bá đi chiêu hàng bọn Ngô Đôn-Doãn Lễ-Tôn Quan và anh của Quan là Khang, chúng đều đến chỗ Thái tổ. Thái tổ lấy Bá là Lang Nha tướng, Đôn làm Thái thú Lợi Thành, Lễ làm Thái thú Đông Hoàn, Quan làm Thái thú Bắc Hải, Khang làm Thái thú Thành Dương, cắt hai châu Thanh-Từ, uỷ thác các việc ở đó cho Bá.

TRUYỆN NHÂM THÀNH UY VƯƠNG TÀO CHƯƠNG

 

NGỤY THƯ QUYỂN 19 - Nhâm Thành Trần Tiêu Vương truyện

Tào Chương, Tào Thực, Tào Hùng

 


Trận Hán Thủy, Tào Chương xung trận và chém chết tướng Thục là Ngô Lan.
Minh họa Tam Quốc Diễn Nghĩa.

Trên thực tế Tào Chương không dự trận Hán Thủy, còn Ngô Lan vì bị Tào Hồng đánh bại ngay trước khi Tào Tháo khởi đại quân đến Hán Trung; Ngô Lan bỏ chạy vào Âm Bình và bị người tộc Đê giết chết.

TRUYỆN NHÂM THÀNH UY VƯƠNG TÀO CHƯƠNG


Nhâm Thành Uy Vương là Chương, tự Tử Văn. Thủa trẻ giỏi cưỡi ngựa bắn tên, sức khỏe hơn người, tự tay bắt thú dữ, không ngại hiểm trở. Nhiều lần theo đi đánh dẹp, ý chí khảng khái. Thái Tổ từng ngoảnh bảo rằng: "Mi không lo đọc sách theo đạo hóa, mà lại cưỡi ngựa trận đánh kiếm, đấy chỉ là cái việc của một tên lính, sao đủ để tôn quý"! Bắt Chương đọc Thi, Thư, Chương bảo tả hữu rằng: "Trượng phu phải như Vệ, Hoắc(1), đem mười vạn quân kị rong ruổi trên sa mạc, đuổi rợ Nhung, Địch, lập công dựng tiếng vậy, sao chỉ làm kẻ đọc sách thôi"? Thái Tổ từng hỏi điều mà các con thích làm, sai đều nói rõ chí của mình, Chương nói: "Thích làm tướng". Thái Tổ nói: "Làm tướng thế nào"? Đáp rằng: "Mặc giáp cầm giáo, gặp nạn không lùi, đi đầu quân sĩ, thưởng tất theo, phạt tất tin". Thái Tổ cười rộ. Năm Kiến An thứ hai mươi mốt, phong Yên Lăng Hầu.


Năm thứ hai mươi ba, người Ô Hoàn ở Đại Quận làm phản, lấy Chương làm Bắc trung lang tướng, làm Kiêu kị Tướng quân. Sắp đi, Thái Tổ răn Chương nói: "Ở nhà là cha con, nhận việc là vua tôi, làm việc vâng theo phép tắc, ngươi phải răn giới lấy"! Chương lên đánh miền bắc, vào đất Trác Quận, rợ Hồ phản đem mấy nghìn quân kị vừa đến. Bấy giờ quân mã chưa tụ xong, chỉ mới có nhìn quân bộ, mấy trăm quân kị, bèn dùng kế của Điền Dự, cố giữ chỗ yếu hại, giặc lại tan chạy. Chương đuổi theo, tự thân xông đánh, bắn quân kị của rợ Hồ, hễ căng dây cung là kẻ đó ngã xuống, trước sau chồng lên nhau. Đánh hơn nửa ngày, trên áo giáp của Chương cắm mấy mũi tên, ý chí thêm hăng, nhân thắng mà đuổi về phía bắc, đến ở huyện Tang Can,

TRUYỆN TRẦN TƯ VƯƠNG TÀO THỰC

 


Tranh vẽ minh họa Tào Thực đời nhà Minh.

TRUYỆN TRẦN TƯ VƯƠNG TÀO THỰC - TÀO HÙNG


Trần Tư Vương là Thực, tự Tử Kiến. Năm hơn mười tuổi thuộc làu kinh Thi, Luận ngữ và biết làm phú có mấy chục vạn chữ, giỏi viết văn. Thái Tổ từng xem lời văn của Thực, bảo Thực rằng: "Mi mượn người khác viết giúp chăng"? Thực quỳ gối nói: "Nói ra nên luận, bút hạ thành văn, cúi mặt xét xem, sao lại người giúp"? Bấy giờ đài Đồng Tước ở đất Nghiệp vừa dựng xong, Thái Tổ đem hết các con lên đài, đều sai làm phú. Thực cầm bút viết xong, đáng xem, Thái Tổ rất khen lạ.


Ngụy kỉ của Âm Đạm chép bài phú của Thực rằng:

"Theo cha hiền mà vui chơi chừ, 

Lên đài lầu thỏa lòng vui.

Xem cảnh rộng mở phủ lớn chừ, 

Là đài mà đức thánh tạo.

Dựng lập cửa cao chót vót chừ, 

Hai cửa cổng chọc trời xanh. 

Đứng giữa trời nhìn cảnh đẹp chừ, 

Gác cao nối liền cõi tây.

Xem nước sông Chương chảy dài chừ, 

Rót qua vườn quả ngọt ngào.

Đón gió xuân thổi mát rượi chừ,

Nghe chim hót tiếng bi thương. 

Mây trời vần vũ quanh ta chừ, 

Lòng ta muốn đã đạt được.

Nêu nhân hóa khắp vũ trụ chừ, 

Kinh sư hết thảy cung kính.

Nghĩ Hoàn,Văn(1) dựng thời thịnh chừ, 

Há bằng bậc thánh minh này!

Tốt thay! 

Đẹp thay! 

Ân trạch truyền xa.

Mong giúp nhà vua ta chừ, 

Dẹp yên bốn cõi.

Cùng quy luật của trời đất chừ, 

Sáng như mặt trời mặt trăng. 

Mãi tôn quý mà chẳng hết chừ,

Tuổi thọ sánh với đông vương(2)"...


Thái Tổ rất khen lạ.


Vũ Văn thế Vương Công truyện

 

NGỤY THƯ QUYỂN 20 - Vũ Văn thế Vương Công truyện



Quắc quốc phu nhân du xuân đồ
 Tranh họa sư cung đình Trương Huyên triều nhà Đường


PHẦN I.


Tào Ngang, Tào Thước, Tào Xung, Tào Cứ, Tào Vũ, Tào Lâm, Tào Cổn, Tào Huyền, Tào Tuấn, Tào Củ, Tào Cán, Tào Thượng, Tào Bưu, Tào Cần, Tào Thừa, Tào Chỉnh, Tào Kinh, Tào Quân, Tào Cấc, Tào Huy, Tào Mậu, Tào Hiệp, Tào Nhuy, Tào Giám, Tào Lâm, Tào Lễ, Tào Ung, Tào Cống, Tào Nghiễm.


Vũ Hoàng Đế có hai mươi lăm con trai: Biện Hoàng hậu sinh Văn Hoàng Đế, Nhâm Thành Uy Vương là Chương, Trần Tư Vương là Thực, Tiêu Hoài Vương là Hùng; 

Lưu phu nhân sinh Phong Mẫn Vương là Ngang, Tương Thương Vương là Thước; 

Hoài phu nhân sinh Đặng Ai Vương là Xung, Bành Thành Vương là Cứ, Yên Vương là Vũ; 

Đỗ phu nhân sinh Bái Mục Vương là Lâm, Trung Sơn Cung Vương là Cổn; 

Tần phu nhân sinh Tế Dương Hoài Vương là Huyền, Trần Lưu Cung Vương là Tuấn; 

Doãn phu nhân sinh Phạm Dương Mẫn Vương là Củ; 


Vương chiêu nghi sinh Triệu Vương là Cán; Tôn cơ sinh Lâm Ấp Thương công tử là Thượng, Sở Vương là Bưu, Cương Thương công tử là Cần; Lí cơ sinh Cốc Thành Thương công tử là Thặng, Mi Đái Công tử là Chỉnh, Linh Thương công tử là Kinh; Chu cơ sinh Phàn An Công là Quân; Lưu cơ sinh Quảng Tông Thương công tử là Cức; Tống cơ sinh Đông Bình Linh Vương là Huy; Triệu cơ sinh Lạc Lăng Vương là Mậu.


Phong Mẫn Vương là Ngang, tự Tử Tu. Tuổi 'nhược quán'(1) cử hiếu liêm, theo Thái Tổ đánh miền nam, bị Trương Tú hại. Không có con. Năm Hoàng Sơ thứ hai, truy phong thụy là Phong Trác Công. Năm thứ ba, lấy con của Phàn An Công là Quân tên là Uyển làm dòng dõi của Ngang, phong Trung Đô Công; năm đó chuyển phong con cả tên là Công. Năm thứ năm, truy tặng Ngang hiệu là Phong Trác Vương. Năm Thái Hòa thứ ba, đổi thụy Ngang là Mẫn Vương. Năm Gia Bình thứ sáu, lấy Uyển nối tước Ngang làm Phong Vương. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, cùng hai nghìn bảy trăm hộ lúc trước. Uyển hoăng, thụy là Cung Vương. Con là Liêm nối tự.


Tương Thương Vương là Thước, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ ba, truy phong thụy. Năm Thanh Long thứ nhất, con là Mẫn Vương tên là Tiềm nối tự; năm đó hoăng. Năm thứ hai, con là Hoài Vương tên là Yển nối tự, thực ấp hai nghìn năm trăm hộ. Năm thứ tư, hoăng, không có con. Nước trừ. Năm Chính Nguyên thứ hai, lấy con của Lạc Lăng Vương là Mậu là Dương Đô Hương Công tên là Tủng nối dõi của Thước.

Vũ Văn thế Vương Công truyện (tiếp theo)


Họa phẩm Hội bộ liễn đồ (阎立本绘步輦圖) của tác giả Diêm Lập Bản triều Đường.

 

 Vũ Văn thế Vương Công truyện (tiếp theo)


Văn Hoàng Đế có chín con trai: Chân thị Hoàng hậu sinh Minh Đế; Lí quý nhân sinh Tán Ai Vương là Hiệp; Phan thục viện sinh Bắc Hải Trác Vương là Nhuy; Chu thục viện sinh Đông Vũ Dương Hoài Vương là Giám; Cừu chiêu nghi sinh Đông Hải Định Vương là Lâm; Từ cơ sinh Nguyên Thành Ai Vương là Lễ; Tô cơ sinh Hàm Đan Hoài Vương là Ung; Trương cơ sinh Thanh Hà Trác Vương là Cống; Tống cơ sinh Quảng Bình Ai Vương là Nghiễm.


Tán Ai Vương là Hiệp, chết sớm. Năm Thái Hòa thứ năm, truy phong thụy là Kinh Thương Công. Năm Thanh Long thứ hai, lại truy đổi thụy hiệu. Năm thứ ba, con là Thương Vương tên là Tầm nối tự. Năm Cảnh Sơ thứ ba, tăng năm trăm hộ, gộp cả ba nghìn hộ lúc trước. Năm Chính Thủy thứ chín, hoăng, không có con. Nước trừ.


Bắc Hải Trác Vương là Nhuy, năm Hoàng Sơ thứ bảy Minh Đế lên ngôi, lập làm Bình Dương Huyện Vương. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong ở quận Bắc Hải. Năm Thanh Long thứ nhất, hoăng. Năm thứ hai, lấy con của Lang Da Vương tên là Tán làm dòng dõi của Nhuy, phong Xương Hương Công. Năm Cảnh Sơ thứ hai, lập làm Nhiêu An Vương. Năm Chính Thủy thứ bảy, chuyển phong ở huyện Văn An. Giữa năm Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả ba nghìn năm trăm hộ lúc trước.


Đông Vũ Dương Hoài Vương là Giám, năm Hoàng Sơ thứ sau được phong; năm đó hoăng. Năm Thanh Long thứ ba, ban thụy. Không có con. Nước trừ.


Đông Hải Định Vương là Lâm, năm Hoàng Sơ thứ ba phong làm Hà Đông Vương. Năm thứ sáu, đổi phong ở huyện Quán Đào. Minh Đế lên ngôi, theo ý truyền lại của Tiên đế, sủng ái Lâm hơn các chư hầu khác, nhưng Lâm tính thô bạo, ở trong phòng the, các tì thiếp phần nhiều bị tàn hại. Năm Thái Hòa thứ sáu, đổi phong ở quận Đông Hải. Năm Gia Bình thứ nhất, hoăng. Con là Khải nối tự. Giữa năm Cảnh Sơ-Chính Nguyên-Cảnh Nguyên, tăng thêm ấp, gộp cả sáu nghìn hai trăm hộ lúc trước. Cao Quý Hương Công tên là Mao là con của Lâm vậy, vào nối dòng cả.

TRẦN THÁI TRUYỆN

 


NGỤY THƯ QUYỂN 22 - Hoàn nhị Trần Từ Vệ Lư truyện

Hoàn Giai, Trần Quần, Trần Thái, Từ Tuyên, Vệ Trăn, Lư Dục.

 

TRẦN THÁI TRUYỆN


Thái tự là Huyền Bá. Năm Thanh Long trung, được làm Tán kỵ Thị lang. Năm Chính Thuỷ trung lại được đổi sang làm Kích tướng quân, Tinh châu thứ sử, gia thêm Chấn uy tướng quân, được cầm cờ tiết, lĩnh chức hộ Hung Nô Trung lang tướng, Thái lấy sự nhu thuận đối xử với người Di ở đấy, rất có ân uy. Có bậc quý nhân ở đất Kinh Ấp gửi biếu Thái rất nhiều tiền bạc của cải, bởi thế lúc mua nô tì, Thái treo hết những của cải ấy ở trên vách, không hề đụng đến, khi được vời về làm Thượng thư, Thái lại đem hết những của cải đó mang trả lại người ấy.


Năm Gia Bình sơ, Thái được cử thay Quách Hoài làm Ung châu thứ sử, gia thêm Phấn uy tướng quân. Thục đại tướng quân Khương Duy xuất binh men lối Khúc sơn đắp hai toà thành, sai Nha môn tướng là Câu An, Lý Hâm cố thủ ở đó, lại hẹn rợ Khương Hồ ước thệ cùng vào cướp bóc các quận quanh đó.

TRẦN KIỂU TRUYỆN

 


Trích đoạn Núi rừng mùa thu –  Cừu Anh

TRẦN KIỂU TRUYỆN


Trần Kiểu tự Quý Bật, người quận Quảng Lăng huyện Đông Dương. Lúc đi tránh loạn ở Giang Đông đến Đông Thành, từ chối theo mệnh của Tôn Sách và Viên Thuật, quay về bản quận. Thái thú Trần Đăng mời làm Công tào, sai Kiểu đến huyện Hứa, bảo rằng: "Người ở huyện Hứa luận bàn, bình phẩm về ta không được tốt lắm; túc hạ hãy vì ta đến đó xem xét, rồi quay về chỉ giáo cho ta biết." Kiểu đi rồi quay về nói: "Tôi nghe ngôn luận xa gần, hầu hết nói rằng minh phủ kiêu căng tự đại." Đăng nói: "Nói đến gia môn hòa mục, đức hạnh vẹn toàn, ta kính trọng anh em Trần Nguyên Phương; nói tới sự băng thanh ngọc khiết, khuôn phép lễ nghĩa, ta kính trọng Hoa Tử Ngư; nói về sự hiểu biết chính trực, ghét cái ác như thù, ta kính trọng Triệu Nguyên Đạt; nói về nghe rộng nhớ dai, tài hoa lỗi lạc, ta kính trọng Khổng Văn Cử; nói tới anh hùng kiệt xuất, có mưu lược bá vương, ta kính trọng Lưu Huyền Đức(1). Ta tôn kính người khác như thế, sao ta lại là người kiêu ngạo được! Ngoài ra những việc nhỏ nhặt tầm thường ta đối xử với các vị, vậy có biên chép hết cả lại mà đánh giá được hay chăng?" Đăng nhã nhặn ý tứ đến như thế, mà đối với Kiểu lại rất đỗi kính trọng.


Vì quận trị bị Tôn Quyền phái Khuông Kỳ vây hãm, Đăng ra lệnh cho Kiểu cầu cứu với Thái tổ. Kiểu thuyết Thái tổ rằng: "Bỉ quận tuy nhỏ, nhưng về hình thế đối với quốc gia là trọng yếu, nếu ngài ra ân cứu viện, lấy nơi đó làm phên dậu, thì mưu đồ của người Ngô sẽ dứt, vùng Từ Châu được yên ổn lâu dài, thanh danh uy vũ chấn động nơi xa, sự nhân ái được lưu truyền, những kẻ chưa phục tùng quốc gia, theo gió kéo đến mà nương tựa, rồi tôn sùng đức hạnh nuôi dưỡng uy thế, đó là sự nghiệp của bậc bá vương vậy." Thái tổ cho Kiểu là bậc kỳ tài, muốn lưu lại. Kiểu từ chối nói: "Bản quốc có mối nguy treo ngược, tôi chạy vội đến cáo cấp, dù cho không học đòi được Thân Tư, há dám quên cái nghĩa của Hoằng Diễn được chăng(2)?"

TRẦN QUẦN TRUYỆN

 

Trích đoạn “Tạ từ ở Tầm Dương" - Cừu Anh

TRẦN QUẦN TRUYỆN


Trần Quần tự Trường Văn, người quận Dĩnh Xuyên huyện Hứa Xương. Tổ phụ là Thật, cha là Kỷ, chú là Kham, đều là những người nổi tiếng.


Thật tự Trọng Cung, Kỷ tự Nguyên Phương, Kham tự Quý Phương.


Nguỵ thư chép: Đương thời, Thật là vị quan có đức, Kỷ-Kham đều có danh vọng lớn ở đời. Thật làm trưởng huyện Thái Khâu, gặp tai hoạ bè đảng, đi ẩn cư ở Kinh Sơn, xa gần coi là bậc tông sư(1).


Linh đế băng hà, Hà tiến làm phụ chính, tiến dụng kẻ sĩ trong thiên hạ, cho vời Thật, muốn lấy làm Tham quân, vì Thật già cả bệnh tật, quyết không khuất tiết theo lệnh, Kham làm Tư không duyện, chết sớm. Kỷ làm quan trải các chức Bình Nguyên tướng, Thị trung, Đại hồng lư, soạn được mấy chục thiên sách, người đời gọi Kỷ là Trần tử(2). Thật mất rồi, Tư không Tuân Sảng, Thái phó lệnh Hàn Dung đều để tang ba năm, bắt con cháu phải theo lễ. Ở bốn phương có mấy nghìn cỗ xe đến viếng, bọn Quách Thái ở Thái Nguyên chẳng ai không đến dự.

TÔN LỄ TRUYỆN

 

NGỤY THƯ QUYỂN 24 - Hàn Thôi Cao Tôn Vương truyện

Hàn Kỵ, Thôi Lâm, Cao Nhu, Tôn Lễ, Vương Quán

 


Vũ nữ đang múa thướt tha trong khi Hàn Hy Tái đang đánh trống -
Trích đoạn Hàn Hy Tái dạ yến đồ - tranh Cố Hoành Trung

TÔN LỄ TRUYỆN


Tôn Lễ tự Đức Đạt, người Trác quận huyện Dung Thành. Thái tổ bình định U châu, cho triệu Lễ làm Tư không quân mưu duyện. Lúc mới xảy tang loạn, Lễ cùng với mẹ lạc nhau, người đồng quận là Mã Đài tìm được mẹ của Lễ, Lễ đem cả gia tài chu cấp cho Đài. Về sau Đài phạm tội bị xử tử hình, Lễ ngầm chỉ dẫn cho Đài vượt ngục rồi ra đầu thú, xong việc, Đài nói: "Thần theo đạo nghĩa không thể bỏ trốn." Rồi đến ngay chỗ quan Thứ gian Chủ bộ là Ôn Khôi nhận tội. Khôi khen ngợi, bạch rõ với Thái tổ, Thái tổ hạ lệnh giảm tội cho cả hai người xuống một bậc.


Sau Lễ được đổi sang chức Quận thừa ở Hà Gian, rồi thăng làm Đô uý Huỳnh Dương. Bọn đạo tặc ở Sơn Trung có mấy trăm tên, giữ vững nơi đất hiểm, làm hại dân chúng; triều đình bèn cho Lễ làm Lỗ tướng(1). Lễ đến nhậm chức, mở kho lương, phát chẩn cho dân, tuyển mộ quân binh, chiêu nạp kẻ ra hàng, khiến bọn đạo tặc bị chia rẽ, vùng ấy lập tức yên bình. Lễ lần lượt làm Thái thú các quận Sơn Dương, Bình Nguyên, Bình Xương, Lang Nha. Rồi theo Đại tư mã Tào Hưu đi đánh Ngô ở Giáp Thạch, Lễ đưa lời can gián cho rằng không nên vào sâu trong đất địch, Hưu không nghe nên bại trận. Lễ được thăng làm Thái thú Dương Bình, sau về triều làm Thượng thư.

DƯƠNG PHỤ TRUYỆN

 

 

NGỤY THƯ QUYỂN 25 - Tân Bì Dương Phụ Cao Đường Long truyện

Tân Bì, Dương Phụ, Cao Đường Long

 


Trích đoạn “Quang Vũ Đế vượt sông"- tranh Cừu Anh đời nhà Minh

DƯƠNG PHỤ TRUYỆN


Dương Phụ tự Nghĩa Sơn. Người huyện Kí quận Thiên Thủy. Ngụy lược viết: "Phụ thuở nhỏ với người cùng quận là Y Phụng tự Thứ Hội, Triệu Ngang tự Vĩ Chương đều nổi tiếng, Vĩ Chương, Thứ Hội và Phụ đều làm Lương Châu Tòng sự". Làm Lương Châu Tòng sự được Châu mục là Vi Đoan sai đến đất Hứa, bái làm An Định Trưởng sử. Phụ về, các tướng vùng Quan Hữu hỏi Viên, Tào xem ai thắng thua, Phụ nói: "Viên Công khoan hòa mà không quyết đoán, có mưu mà không nhanh nhẹn; không quyết đoán thì không có uy, không nhanh nhẹn thì làm lỡ việc sau này, nay dẫu mạnh nhưng rút cuộc không làm nên được việc lớn. Tào Công có hùng tài mưu xa, nhanh nhẹn không do dự, hình pháp chắc chắn mà quân mạnh, dùng được người ở ngoài, người mà được dùng thì dốc hết sức, là người làm nên việc lớn được". Trưởng sử là chức mà Phụ không thích, bèn bỏ quan. Rồi Đoan gọi làm Thái bộc, con Phụ là Khang thay làm Thứ sử, bái Phụ làm Biệt giá. Xét làm Hiếu liêm, gọi đến phủ Thừa tướng, châu cử làm Tham quân sự.


Mã Siêu thua trận ở bờ nam sông Vị, chạy đến giữ các đất của người Khương. Thái Tổ đuổi đến huyện An Định, lại có Tô Bá phản ở Hà Gian, sắp dẫn quân về miền đông. Phụ bấy giờ nhận đi sứ, bảo với Thái Tổ nói: "Siêu có cái dũng của Hàn Tín, Anh Bố, rất được lòng người Khương, người Hồ, miền tây đều kính sợ hắn. Nếu đại quân về, không nhanh phòng bị thì các quận miền Lũng Thượng nhà nước không lấy được nữa". Thái Tổ cho là phải, nhưng quân về vội vã, phòng bị không chắc chắn. Siêu đem cừ súy của người Khương đến đánh các quận huyện miền Lũng Thượng, các quận huyện miền Lũng Thượng đều hướng theo Siêu, chỉ có thành huyện Kí là vâng lệnh của châu quận là giữ vững. Siêu thu hết quân của miền Lũng Hữu, mà Trương Lỗ lại sai Đại tướng Dương Ngang đến giúp Siêu, đem hơn vạn quân đến đánh thành. Phụ lĩnh hơn nghìn quân là kẻ sĩ đại phu và em em họ hàng, sai em họ là Nhạc ở trên thành làm trại yển nguyệt, (1) đón đánh với Siêu, từ tháng giêng đến tháng tám chống giữ mà quân cứu không đến. Châu sai Biệt giá Diễm Ôn men theo sông ngầm ra xin cứu, bị Siêu giết, do đó Thứ sử, Thái thú biến sắc mặt, bắt đầu có ý hàng Siêu. Phụ khóc lóc can nói: "Bọn Phụ đem anh em họ hàng vì nghĩa mà đến giúp nhau, có chết cũng không hai lòng; cái tiết tháo của Điền Đan cũng không chắc hơn thế. Bỏ cái công sắp thành, vùi cái tiếng là không có nghĩa, Pạu dẫu chết cũng xin giữ". Lại kêu khóc. Thứ sử, Thái thú rút cuộc sai người xin hòa, mở cửa thành đón Siêu. Siêu vào, bắt Nhạc ở huyện Kí, sai Dương Ngang giết Thứ sử, Thái thú.

TÂN BÌ TRUYỆN

 

Trích họa phẩm Hán cung xuân hiểu đồ (漢宮春曉圖) của tác giả Cừu Anh.

TÂN BÌ TRUYỆN


Tân Bì (1) tự Tá Trị, người huyện Dương Trạch (2) quận Dĩnh Xuyên. Tổ tiên của Bì vào giữa năm Kiến Vũ từ quận Lũng Tây dời đến miền đông. Bì theo anh là Bình đi theo Viên Thiệu. Thái Tổ làm Tư không, gọi Bì, Bì không đến nghe lệnh được. Đến lúc Viên Thượng đánh anh là Đàm ở quận Bình Nguyên, Đàm sai Bì đến chỗ Thái Tổ xin hòa.


Anh hùng kí viết: "Đàm, Thượng đánh ở cửa ngoài, quân Đàm thua chạy về miền bắc. Quách Đồ khuyên Đàm nói: 'Nay Tướng quân nước nhỏ binh ít, lương hết thế yếu, Hiển Phủ (3) đến đánh, lâu ngày khó mà chống nổi. Kẻ ngu này cho rằng nên gọi Tào Công đến đánh Hiển Phủ. Tào Công đến, tất đánh đất Nghiệp trước, Hiển Phủ phải về cứu. Tướng quân dẫn quân về phía tây, từ đất Nghiệp lên phía bắc đều có thể đánh lấy được. Nếu quân của Hiển Phủ phá, quân của hắn chạy trốn, thì có thể thu lấy để chống Tào Công. Tào Công từ xa lại ở trọ, lương thảo không liền, tất tự bỏ chạy. Nếu đến lúc đó, từ nước Triệu lên phía bắc đều bị ta chiếm lấy, cũng đủ để chống với Tào Công vậy. Nếu không thì không xong'. Đàm lúc đầu không nghe, sau lại nghe theo. Hỏi Đồ nói: 'Sai ai đi'? Đồ đáp nói: 'Tân Tá Trị đi được'. Đàm bèn sai Bì đến chỗ Thái Tổ".


Thái Tổ sắp đánh Kinh Châu, đến ở quận Tây Bình. Bì gặp Thái Tổ báo ý của Đàm. Thái Tổ cả mừng. Mấy ngày sau, lại muốn bình Kinh Châu trước, khiến cho Đàm, Thượng tự đánh nhau. Ngày sau bày rượu, Bì nhìn mặt Thái Tổ, biết có đổi, nói với Quách Gia. Gia nói với Thái Tổ, Thái Tổ bảo Bì nói: "Đàm đáng tin không? Thượng chắc thắng được không"? Bì đáp nói: "Minh công không cần hỏi tín hay giả vậy, chỉ nên bàn về thế lực của họ thôi. Họ Viên vốn là anh em đánh nhau, không phải người khác xen được vào giữa họ mà là thiên hạ có thể định được ở tại mình vậy. Nay một sớm xin cứu với minh công, xem thế là biết được. Hiển Phủ thấy Hiển Tư (4)khốn mà không đánh lấy được, sức hắn đã kiệt rồi. Quân sĩ bị thua ở ngoài, mưu sĩ bị giết ở trong, anh em hiềm nghi, nước chia thành hai; nhiều năm đánh nhau, lại giáp trụ sinh chấy rận, có thêm châu chấu, đói kém vừa đến, nước không có kho lúa, đi không mang lương, họa đến từ trên trời, khốn đến từ dưới người, dân dẫu là kẻ ngu dốt cũng đều biết đất đai vỡ lở, đấy là lúc trời diệt Thượng vậy. Binh pháp có nói: 'Có thành đá ao lầy trăm vạn quân mặc giáp mà không có lương thì không giữ được'. Nay đến đánh đất Nghiệp, nếu Thượng không về cứu, tức không tự giữ được. Về cứu, tức Đàm chặn ở sau. Đem cái uy của minh công để chống kẻ địch khốn cùng, phá quan giặc mỏi mệt, không cần gió giật mạnh để cuốn lá mùa thu vậy. Trời đem Viên Thượng cho minh công, minh công không lấy mà đánh Kinh Châu. Kinh Châu đầy đủ, nước không có loạn. Trọng Hôi có nói: 'Nhân loạn mà đánh nước sắp mất'. Nay đang lúc hai Viên (5) không lo việc xa mà bên trong tự đánh nhau, có thể nói là loạn vậy; người ở không có ăn, người đi không có lương, có thể nói là sắp mất vậy. Buổi sớm không mưu lúc tối, mạng dân chẳng sống yên, mà chẳng vỗ về, muốn đợi đến năm khác; nếu năm khác được mùa, lại tự biết sắp mất mà tu sửa đức hạnh, làm mất cái cốt yếu của việc dùng binh. Nay nhân lúc Đàm xin cứu mà vỗ về hắn, lợi nào lớn hơn? Vả lại giặc của bốn phương, chẳng ai lớn hơn giặc vùng Hà Bắc; nếu vùng Hà Bắc bình thì sáu quân thịnh mà thiên hạ rúng động vậy". Thái Tổ nói: "Hay". Bèn hứa hòa với Đàm, đến ở huyện Lê Dương. Năm sau đánh đất Nghiệp, chiếm lấy được, bái Bì làm Nghị lang.

TRUYỆN MÃN SỦNG

 


TRUYỆN MÃN SỦNG


Mãn Sủng tự Bá Ninh, người huyện Xương Ấp quận Sơn Dương. Mười tám tuổi làm Đốc bưu trong quận. Bấy giờ người trong quận là bọn Lí Sóc đều đem bộ khúc đi làm hại đến dân thường, Thái thú sai Sủng xét trị chúng. Bọn Sóc nhận tội, không cướp bóc nữa. Giữ chức Cao Bình Lệnh, người trong huyện là Trương Bao làm Đốc Bưu của quận, tại chức tham lam, làm nhiễu loạn việc quan, Sủng nhân lúc hắn đang ở nhà nghỉ, đem quan quân ra bắt hắn, tránh mắng lỗi mà hắn phạm phải, liền hôm đó xét hỏi, rồi bỏ quan về quê.


Thái Tổ đến Duyện Châu, gọi làm Tòng sự. Đến lúc làm Đại tướng quân, chuyển làm Tây tào thuộc, làm Hứa Lệnh. Bấy giờ Tào Hồng là họ hàng thân cận, có tân khách ở ngoài nhiều lần phạm pháp, Sủng bèn bắt trị tội chúng. Hồng gửi thư xin Sủng, Sủng không nghe. Hồng báo cho Thái Tổ, Thái Tổ gọi người coi việc ở huyện Hứa đến. Sủng biết Thái Tổ muốn tha, liền nhanh giết bọn ấy. Thái Tổ mừng nói: "Việc này không đáng như thế chăng"? Thái úy Dương Bưu trước đây bị bắt giam vào tù trong huyện, bọn Thượng thư lệnh Tuân Úc, Thiếu phủ Khổng Dung đều khuyên Sủng nói: "Chỉ nên dùng lời, chớ dùng hình bức". Sủng đều không đáp một người nào, xét hỏi đúng theo hình pháp. Mấy ngày sau, xin gặp Thái Tổ, nói với Thái Tổ rằng: "Dương Bưu bị xét hỏi mà không có lời cãi khác. Kẻ đáng giết thì phải nêu rõ tội của kẻ đó trước, nhưng người này nổi tiếng trong nước, nếu không làm rõ tội trạng tất làm mất lòng trông mong của dân chúng, làm cho minh công nuối tiếc". Thái Tổ liền hôm đó thả Bưu ra. Lúc đầu, bọn Úc, Dung nghe nói Sủng dùng hình bức Bưu, đều giận, đến lúc Bưu được tha lại khen Sủng.

TRUYỆN ĐIỀN DỰ

 


TRUYỆN ĐIỀN DỰ


Điền Dự tự Quốc Nhượng, người huyện Ung Nô quận Ngư Dương. Lúc Lưu Bị đến nương nhờ Công Tôn Toản thì Dự còn nhỏ tuổi, tự gửi thân nơi Bị, Bị rất coi trọng. Lúc Bị làm Dự Châu Thứ sử, Dự vì mẹ già mà xin về, Bị khóc lóc cùng chia tay, nói: "Chỉ hận không được cùng ông làm nên nghiệp lớn".


Công Tôn Toản sai Dự làm Đông Châu Lệnh, tướng của Toản là Vương Môn phản Toản, giúp Viên Thiệu đem hơn vạn quân đến đánh. Quân sợ, muốn hàng, Dự lên mặt thành bảo Môn nói: "Ông được họ Công Tôn coi trọng mà lại bỏ đi, trong lòng chắc là bất đắc dĩ thôi; vậy mà nay lại làm giặc, biết ông là kẻ làm loạn rồi. Người có trí nông cạn như cái bình nhỏ mà vẫn biết giữ lòng trung không đổi, ta đã nhận lệnh, sao ngươi đánh gấp vậy"? Môn thẹn mà rút quân. Toản dẫu biết Dự có mưu lược nhưng lại không dùng vậy. Toản thua, rồi Tiên Vu Phụ được người trong quận bầu chọn, coi việc quan Thái thú, vốn khen tài Dự, dùng làm Trưởng sử. Bấy giờ hào kiệt cùng nổi dậy, Phụ chẳng biết theo về ai, Dự bảo Phụ nói: "Người cuối cùng định được thiên hạ tất là họ Tào vậy, nên nhanh theo về thì sau này không rước họa". Phụ theo kế của Dự, bèn được phong thưởng. Thái Tổ gọi Dự đến làm Thừa tướng Quân mưu duyện, làm Dĩnh Âm, Lang Lăng Lệnh, chuyển làm Dặc Dương Thái thú, các chỗ đến nhậm chức đều được sửa trị.


Yên Lăng Hầu Chương(1) đánh Đại Quận, lấy Dự làm Tướng. Đem quân đến phía bắc huyện Dịch, giặc ém quân kị chặn đánh, quân sĩ rối loạn, chẳng biết làm sao, Dự dựa vào thế đất, đem quân về lập thế trận vòng tròn, đặt cung nỏ dày đặc ở trong trận, làm nghi binh để che giấu chỗ kém của mình. Quân Hồ không tiến được, tan chạy. Đuổi đánh, đại phá chúng, cuối cùng đi đến bình Đại Quận, đều là kế của Dự vậy.

TRUYỆN KHIÊN CHIÊU

 


TRUYỆN KHIÊN CHIÊU


Khiên Chiêu tự Tử Kinh, người huyện Quan Tân quận An Bình. Năm hơn mười tuổi , đến nhà người cùng huyện là Nhạc Ẩn theo học. Sau đó Ẩn làm Trưởng sử của Xa kị Tướng quân Hà Miêu, Chiêu đi theo làm lính. Đến thời kinh đô loạn, Miêu, Ẩn bị hại, Chiêu và học trò của Ẩn là bọn Sử Lộ xông xáo vào nơi đao nhọn, cùng tấn liệm thây Ẩn, chở về quê chôn táng, trên đường đi bị cướp bóc, bọn Lộ đều tan chạy cả, bọn cướp muốn phá quách lấy đinh, Chiêu rơi nước mắt xin tha. Bọn cướp khen là có nghĩa, bèn tha bỏ đi. Do đó mà nổi tiếng.


Kí Châu Mục là Viên Thiệu mời làm Đốc quân Tòng sự, trông coi quân đột kị Ô Hoàn. Người nhà của Thiệu trái lệnh, Chiêu chém trước rồi báo sau, Thiệu cho là lạ mà không phạt tội vậy. Thiệu chết, lại thờ con Thiệu là Thượng. Năm Kiến An thứ chín, Thái Tổ vây huyện Nghiệp. Thượng sai Chiêu đến Thượng Đảng, coi việc chở lương quân. Chưa về, Thượng thua chạy đến Trung Sơn. Bấy giờ anh họ bên ngoại của Thượng là Cao Hàn làm Tinh Châu Thứ sử, Chiêu cho rằng bên trái Tinh Châu có cái hiểm của núi Hằng Sơn, bên phải có cái vững của sông lớn, có năm vạn quân mặc giáp, phía bắc liền với người Hồ mạnh, khuyên Hàn đón Thượng, dựa vào đất Tinh Châu mà xem sự biến, nhưng Hàn không nghe, lại muốn hại Chiêu. Chiêu nghe tin, đi lẻn mà bỏ trốn, đường nghẽn không theo kịp Thượng, bèn đi về phía đông đến chỗ Thái Tổ. Lúc Thái Tổ lĩnh cả Kí Châu, cho làm Tòng sự.

TRUYỆN QUÁCH HOÀI

 


TRUYỆN QUÁCH HOÀI


Quách Hoài tự Bá Tế, người huyện Dương Khúc quận Thái Nguyên.


Xét Quách thị phả viết: Ông tổ của Hoài là Toàn, làm Đại Tư nông; cha là Ôn, làm Nhạn Môn Thái thú.


Giữa năm Kiến An cử Hiếu liêm, cho làm Bình Nguyên Phủ thừa. Lúc Văn Đế làm Ngũ quan tướng, làm Môn hạ Tặc tào(1), lại chuyển làm Thừa tướng Binh tào nghị Lệnh sử, theo đi đánh Hán Trung. Thái Tổ về, giữ Chinh tây Tướng quân Hạ Hầu Uyên ở lại chống Lưu Bị, lấy Hoài làm Tư mã của Uyên. Uyên đánh với Bị, bấy giờ Hoài mắc bệnh không đi. Uyên bị hại, trong quân rối loạn, Hoài thu gom quân sĩ tản mát, bầu Đãng khấu Tướng quân Trương Cáp làm tướng quân, các trại mới yên. Ngày hôm sau, Bị muốn vượt sông Hán đến đánh. Các tướng bàn rằng quân mình ít khó địch, vả lại Bị đang thừa thắng, bèn muốn dựa vào sông bày trận để chống. Hoài nói: "Đấy là tỏ cái yếu và không đủ sức để chống địch, kế sai vậy. Không bằng rời xa sông bày trận, dụ địch đi đến, nửa quân qua sông rồi quay lại đánh, mới phá được Bị". Bày trận xong, Bị nghi ngờ, không vượt sông, Hoài bèn giữ vững, tỏ ý không muốn rút quân về. Kể tình trạng báo lên, Thái Tổ khen kế ấy, ban Giả tiết cho Cáp, lại lấy Hoài làm Tư mã. Văn Đế lên ngôi Vương, ban tước Quan nội hầu, chuyển làm Trấn tây Tướng quân, lại giữ chức Chinh Khương Hộ quân, giúp Tả Tướng quân Trương Cáp, Quán quân Tướng quân Dương Thu đánh giặc núi là bọn người Hồ làm phản ở Trịnh Cam, Lô Thủy, đều phá bình chúng. Quan Trung mới định, dân được yên ổn làm việc.

CHUNG HỘI LIỆT TRUYỆN

 

NGỤY THƯ QUYỂN 28 - Vương Vô Khâu Gia Cát Đặng Chung truyện

Vương Lăng, Vô Khâu Kiệm, Gia Cát Đản, Đường Tư, Đặng Ngải, Chung Hội

 


CHUNG HỘI LIỆT TRUYỆN

Chung Hội tự Sỹ Quý, người ở quận Dĩnh Xuyên huyện Trường Xã, là con út của quan Thái phó Chung Do. Vốn thông minh lanh lợi từ thủa nhỏ.


Hội vi kỳ mẫu truyện viết: "Phu nhân Trương thị, tự Xương Bồ, là con một họ lớn ở Thái Nguyên, Thái phó Định Lăng là Thành Hầu lấy làm vợ. Phu nhân mất cả cha mẹ từ nhỏ, đến ở với gia đình Thành Hầu, tu thân đứng đắn, điều trái lễ không theo, người trên kẻ dưới đều khen ngợi. Có người quý thiếp là Tôn thị, chuyên quyền lấn áp vợ cả, có ý muốn hại người hiền, mấy lần mỉa mai gièm pha không được. Tôn thị biện bác xảo trá, ngôn từ giảo hoạt biến không thành có, khiến mọi người chẳng ai thương. Đến khi có mang, tật ghen ghét đố kỵ còn hơn nữa, mới để thuốc vào đồ ăn, phu nhân bị trúng độc, ăn xong thổ hết ra, say lừ đừ đến mấy ngày. Có người nói rằng: 'Sao chẳng nói việc ấy với tướng công?' Đáp rằng: 'Vợ lẽ tác quái, phá gia nguy quốc, xưa nay vẫn lấy đó làm tấm gương răn dạy. Ví như tướng công tin ta, trong các ngươi ai biết rõ việc này? Kẻ kia trong bụng đã liệu được ta, rằng ta ắt hẳn sẽ nói ra, chắc chắn sẽ làm việc ấy trước ta; việc do kẻ kia nói ra, yên lặng mà xem chẳng khoái ý ư!' Bèn phao tin rằng bị ốm không biết gì cả. Tôn thị quả nhiên nói với Thành Hầu rằng: 'Thiếp mong sẽ có con trai, vì thế mới uống thuốc để sinh con trai, có kẻ để thuốc vào đồ ăn bảo rằng ấy là thuốc độc!' Thành Hầu nói: 'Uống thuốc sinh con trai là việc tốt, kẻ để thuốc vào đồ ăn là làm việc ám muội, chẳng có tính người vậy!' Bèn tra hỏi người hầu, Tôn thị bởi lộ chuyện đắc tội bị đuổi ra ngoài. Thành Hầu hỏi phu nhân sao chẳng nói gì, phu nhân mới nói rõ việc ấy, Thành Hầu cả kinh, lại càng quý mến hơn. Năm Hoàng sơ thứ sáu, sinh được Hội, ân tình càng sâu nặng. Bởi Thành Hầu đã đuổi Tôn thị, mới lấy phu nhân thay vào ngôi chính thất của Giả thị.


Trung hộ quân Tưởng Tế từng luận xét rằng: "Cứ xem con mắt, đủ để biết người". Năm Hội 5 tuổi, Do sai Hội đến hầu Tế, Tế thấy Hội rất kinh ngạc, nói: "Thật là người phi thường vậy." Đến lúc Hội 30 tuổi, kiêm tài kỹ nghệ, mà học vấn uyên bác lịch duyệt thông tỏ điều lý, lại chuyên cần học tập suốt đêm ngày, bởi thế được thiên hạ khen ngợi. Năm Chính thuỷ trung, được lấy làm Bí thư lang, rồi đổi làm Thượng thư Trung thư thị lang.

ĐẶNG NGẢI TRUYỆN

 


Đặng Ngải

ĐẶNG NGẢI TRUYỆN


Đặng Ngải tự Sĩ Tái, người huyện Cức Dương quận Nghĩa Dương. Mồ côi cha từ thở nhỏ, lúc Thái tổ đánh Kinh Châu, Ngải chạy đến Nhữ Nam, tự làm ruộng nuôi thân. Năm 12 tuổi, Ngải theo mẹ đến Dĩnh Xuyên, có đọc một tấm văn bia cổ trên cái gò lớn, có câu rằng: "Văn tự có khuôn phép, ấy là hành vi của kẻ sỹ vậy", (văn vi thế phạm, hành vi sĩ tắc) Ngải rất thích thú bèn lấy danh là Phạm, tự là Sĩ Tắc. Về sau họ hàng đều dùng tên ấy, việc đổi danh là vậy. Lúc Ngải làm Đô uý học sỹ, bởi tật nói lắp, không được cất nhắc lên làm cán tá (1), chỉ giữ chức trông coi đám nông dân cấy cầy phạt cỏ. Có ông lão làm Đề lại là người đồng quận thương Ngải gia cảnh bần hàn, chu cấp cho rất hậu, Ngải cũng chẳng chịu cảm tạ. Mỗi khi đi đâu nhìn thấy núi cao đầm rộng, Ngải thường lấy tay đo vẽ chia thành bờ luỹ lập quân doanh, người bấy giờ thấy thế đều cười chế nhạo. Sau này Ngải được làm chức Điển nông cương kỷ, rồi làm Thượng kế lại, bởi thế mới được tham kiến Thái uý Tư mã Tuyên Vương. Tuyên Vương lấy làm lạ, cho vời đến làm duyện (2), sau lại đổi cho làm Thượng thư lang.


Sách Thế ngữ chép: Lúc còn trẻ Đặng Ngải làm người giúp việc cho quan Điển Nông coi sóc việc chăn dân cùng với Thạch Bao khi ấy mới chừng 12, 13 tuổi. Bấy giờ quan Yết giả ở Dương Địch là Quách Huyền Tín, có con là Quách Đản Nguyên được Vũ Đế dùng làm Giám quân. Vào giữa những năm Kiến An, bởi con nhỏ là Cát khởi binh làm loạn ở Hứa Đô, Huyền Tín phải chịu hình tại gia, vì thế Điển nông Tư mã mới cần tìm một người đánh xe, Ngải-Bao được chọn làm việc ấy, đánh xe đi được chừng hơn 10 dặm, thấy thành thục lắm, tỏ ý hài lòng, mới cho cả hai người cùng đi theo để giúp việc. Ngải sau này làm Điển nông Công tào, phụng mệnh đến chỗ Tuyên Vương, vì thế mới được Tuyên Vương biết đến, rồi sau này mới được cất nhắc lên.