NGỤY THƯ QUYỂN 28 - Vương Vô Khâu Gia Cát Đặng
Chung truyện
Vương Lăng, Vô Khâu Kiệm, Gia Cát Đản, Đường
Tư, Đặng Ngải, Chung Hội
CHUNG HỘI LIỆT TRUYỆN
Chung Hội tự Sỹ Quý,
người ở quận Dĩnh Xuyên huyện Trường Xã, là con út của quan Thái phó Chung Do. Vốn
thông minh lanh lợi từ thủa nhỏ.
Hội vi kỳ mẫu truyện
viết: "Phu nhân Trương thị, tự Xương Bồ, là con một họ lớn ở Thái Nguyên,
Thái phó Định Lăng là Thành Hầu lấy làm vợ. Phu nhân mất cả cha mẹ từ nhỏ, đến ở
với gia đình Thành Hầu, tu thân đứng đắn, điều trái lễ không theo, người trên kẻ
dưới đều khen ngợi. Có người quý thiếp là Tôn thị, chuyên quyền lấn áp vợ cả,
có ý muốn hại người hiền, mấy lần mỉa mai gièm pha không được. Tôn thị biện bác
xảo trá, ngôn từ giảo hoạt biến không thành có, khiến mọi người chẳng ai
thương. Đến khi có mang, tật ghen ghét đố kỵ còn hơn nữa, mới để thuốc vào đồ
ăn, phu nhân bị trúng độc, ăn xong thổ hết ra, say lừ đừ đến mấy ngày. Có người
nói rằng: 'Sao chẳng nói việc ấy với tướng công?' Đáp rằng: 'Vợ lẽ tác quái,
phá gia nguy quốc, xưa nay vẫn lấy đó làm tấm gương răn dạy. Ví như tướng công
tin ta, trong các ngươi ai biết rõ việc này? Kẻ kia trong bụng đã liệu được ta,
rằng ta ắt hẳn sẽ nói ra, chắc chắn sẽ làm việc ấy trước ta; việc do kẻ kia nói
ra, yên lặng mà xem chẳng khoái ý ư!' Bèn phao tin rằng bị ốm không biết gì cả.
Tôn thị quả nhiên nói với Thành Hầu rằng: 'Thiếp mong sẽ có con trai, vì thế mới
uống thuốc để sinh con trai, có kẻ để thuốc vào đồ ăn bảo rằng ấy là thuốc độc!'
Thành Hầu nói: 'Uống thuốc sinh con trai là việc tốt, kẻ để thuốc vào đồ ăn là
làm việc ám muội, chẳng có tính người vậy!' Bèn tra hỏi người hầu, Tôn thị bởi
lộ chuyện đắc tội bị đuổi ra ngoài. Thành Hầu hỏi phu nhân sao chẳng nói gì,
phu nhân mới nói rõ việc ấy, Thành Hầu cả kinh, lại càng quý mến hơn. Năm Hoàng
sơ thứ sáu, sinh được Hội, ân tình càng sâu nặng. Bởi Thành Hầu đã đuổi Tôn thị,
mới lấy phu nhân thay vào ngôi chính thất của Giả thị.
Trung hộ quân Tưởng Tế
từng luận xét rằng: "Cứ xem con mắt, đủ để biết người". Năm Hội 5 tuổi,
Do sai Hội đến hầu Tế, Tế thấy Hội rất kinh ngạc, nói: "Thật là người phi
thường vậy." Đến lúc Hội 30 tuổi, kiêm tài kỹ nghệ, mà học vấn uyên bác lịch
duyệt thông tỏ điều lý, lại chuyên cần học tập suốt đêm ngày, bởi thế được
thiên hạ khen ngợi. Năm Chính thuỷ trung, được lấy làm Bí thư lang, rồi đổi làm
Thượng thư Trung thư thị lang.
Sách Thế Ngữ chép: Tư
mã Cảnh vương sai Trung thư lệnh Ngu Tùng làm tờ biểu, lúc trình lên lại không
vừa ý, mới sai Tùng sửa lại. Để sửa theo ý Cảnh vương lúc bấy giờ, Tùng nghĩ hết
lẽ cũng không sao làm nổi, trong bụng lo lắng, lộ ra nét mặt. Hội thấy Tùng có
vẻ ưu tư, liền hỏi, Tùng cứ tình thật nói ra. Hội coi xem việc ấy, rồi sửa có 5
chữ. Tùng vui lòng ưng theo, đem trình Cảnh Vương, Vương nói: "Chẳng phải
là ngươi làm nổi, ai đã làm việc đó?" Tùng thưa: "Là Chung Hội. Thần
cũng đã muốn sớm bẩm việc này, bởi Hội hỏi thần rồi thẳng thắn giúp cho, thần
chẳng dám tham lam nhận lấy cái tài ấy". Vương nói: "Ra thế, người
này cần phải dùng vào việc lớn, có thể sai khiến được về sau đây." Hội hỏi
Tùng xem Vương có thuận theo không, Tùng nói: "Ngài học rộng uyên thâm, hiểu
cùng mọi lẽ, chẳng chỗ nào không thấu đáo." Hội bèn bỏ hết tân khách, nghĩ
ngợi 10 ngày, mỗi sớm vào hầu, đến trống canh hai mới trở ra. Sau này, Vương có
lần vỗ tay than rằng: "Ấy mới thật là người có tài vương tá vậy!"
Tùng tự Thúc Mậu, người ở Trần Lưu, là cháu ngoại của Cửu Giang thái thú Biên Nhượng. Tùng thuở nhỏ cũng có tài danh, Tư mã Tuyên vương đi chinh chiến ở Liêu Đông, Tuyên vương sai Tùng làm tờ hịch, lúc phá được giặc, cất nhắc lên làm Lộ Bố. Tùng theo về, Tuyên vương cho vời đến làm chức Duyện, năm ấy Tùng 24 tuổi, sau lại thăng lên làm Trung thư lang, rồi làm đến chức Thái thú. Con Tùng là Tuấn, tự Hiển Hoằng, đời Tấn làm đến chức Đình Uý.
Thần Tùng Chi thấy
Chung Hội danh là con nhà công hầu, lời ngợi khen rỡ ràng từ rất sớm, trẻ tuổi
đã được vào triều, trải ngôi vị quý hiển, Cảnh vương đứng đầu trăm quan, sao chẳng
biết rõ, lại vì Ngu Tùng dâng biểu rồi sau mới nhờ đó mà biết đến hay sao? Ví
thử việc lúc trước chẳng biết ai giúp, chỉ thấy năm chữ kia mà lại đoán rằng có
thể dùng người ấy vào việc lớn, dẫu đến bậc thánh nhân cũng còn do dự, huống
chi là Cảnh vương vậy?
Cao quý Hương công
lên tức vị, Hội được ban tước Quan nội hầu.
Quán Khâu Kiệm dấy loạn,
Đại tướng quân Tư mã Cảnh vương đông chinh, Hội theo trong quân, trông coi việc
cơ mật, Vệ tướng quân Tư mã Văn vương cầm đại quân đi sau. Cảnh vương chết ở Hứa
Xương, Văn Vương cầm đầu sáu lộ quân, Hội định mưu kế nơi màn trướng. Bấy giờ ở
trên sai Thượng thư Phó Hỗ đem sắc lệnh tới Đông Nam huyện Tân Định, yêu cầu Vệ
tướng quân đóng binh tại Hứa Xương để chi viện trong ngoài, lệnh cho Hỗ xuất
lĩnh chư quân quay về. Hội cùng với Hỗ bàn mưu, sai Hỗ dâng biểu lên chúa thượng,
rồi với Vệ tướng quân cùng khởi hành, lui về đến phía Nam sông Lạc đóng binh ở
đó. Bởi thế triều đình phải bái Văn Vương làm Đại tướng quân, cầm quyền phụ
chính, Hội được thăng lên làm Hoàng môn Thị lang, tấn phong Đông vũ Đình hầu,
được ăn lộc 300 hộ.
Năm Cam Lộ thứ hai,
triều đình cho gọi Gia Cát Đản từ Thọ Xuân về triều làm Tư không, bấy giờ Hội
đang chịu tang tại gia, liền gửi thư bạch với Văn Vương rằng Đản ắt hẳn không
chịu phụng mệnh. Văn Vương bởi việc đã cho thi hành, không chịu đổi lại.
Kỳ mẫu truyện chép rằng:
"Phu nhân tính tình nhân ái mà nghiêm cẩn, chỉ lấy điều sáng suốt dạy con,
Hội dẫu còn bé, vẫn khuyên bảo rất ân cần. Năm Hội bốn tuổi đã dạy những điều
hiếu thuận trong kinh sách, bảy tuổi cho đọc sách Luận Ngữ, lúc tám tuổi dạy đọc
Kinh Thi, khi mười tuổi dạy xem Kinh Thương thư, mười một tuổi học Kinh Dịch,
mười hai tuổi đọc các sách Xuân thu Tả truyện-Quốc Ngữ, mười ba tuổi đọc Kinh Lễ-Lễ
Ký, mười bốn tuổi đọc sách của Thành Hầu soạn ra, mười lăm tuổi cho vào nhà
Thái học để được học hỏi những lời văn lạ cùng những điều giáo huấn ở khắp bốn
phương. Lại bảo với Hội rằng: 'Học nhiều một lúc ắt mỏi mệt, mỏi mệt sẽ sinh lười
biếng; ta sợ mày sẽ lười biếng, nên giáo huấn mày dần dần, nay mày có thể tự học
được rồi vậy.'
Hội rất thích đọc thư
tịch, đã đọc hết Kinh thư, đặc biệt thích các sách Kinh Dịch, Lão tử, mỗi khi đọc
kỹ đoạn Dịch mà đức Khổng Tử đã luận rằng: (nghe) tiếng chim kêu trong bóng
râm, bậc quân tử khó nhọc mà nhún nhường, lễ vật dâng dùng cỏ trắng, chẳng nên
ra khỏi cửa vườn, thường khiến Hội phải đọc đi đọc lại, nghĩ rằng: Dịch có hơn
300 hào, Trọng Ni giảng giải như thế, ấy là lấy sự nhún nhường để răn mình phải
cẩn thận, đó là điều then chốt ban đầu, đã làm phải đến được chỗ cốt yếu, vinh
thân chính từ đó mà ra, theo được đường lối ấy là đã vượt người ta, đủ để làm bậc
quân tử vậy'.
Năm Chính Thuỷ thứ
tám, Hội làm Thượng thư lang, phu nhân cầm tay Hội dạy rằng: 'Mày mới 20 tuổi
đã được xếp hàng vào chầu, con người ta không biết thế nào cho đủ, phải cố suy
xét kỹ để răn mình!" Khi ấy Đại tướng quân Tào Sảng nắm quyền triều chính,
suốt ngày đắm chìm trong men rượu, anh trai Hội là Dục làm Thị Trung vừa đi ăn
yến về, nói việc ấy ra. Phu nhân bảo: 'Tiếng nhạc vui mà nghe mãi, như thế khó
được lâu bền. Ở ngôi cao mà không kiêu, biết kiềm chế cẩn thận, sau này mới không
phải lo việc nguy nan. Nay xa xỉ quá độ lấn áp kẻ trên như thế, chẳng phải là
con đường giữ ngôi phú quý lâu dài'.
Năm Gia Bình nguyên
niên, xa giá đến Cao Bình lăng, Hội làm Trung thư lang, cũng đi theo. Tướng quốc
truyền cho Văn hầu khởi binh, mọi người lo sợ, mà phu nhân vẫn tự nhiên như
không. Trung thư lệnh Lưu Phóng, Thị lang Vệ Quán, Hạ Hầu Hoà đang ở đó đều lấy
làm lạ hỏi rằng: 'Phu nhân cùng với con ở giữa chỗ nguy nan, sao lại không lo lắng
gì cả?' Đáp rằng: 'Đại tướng quân xa xỉ vô độ, ta thường ngờ rằng sẽ chẳng được
an lành. Thái phó vì nghĩa chẳng để quốc gia gặp nguy nan, ắt hẳn vì Đại tướng
quân mà khởi binh vậy. Ta ở cạnh vua sao phải lo lắng? Vả nghe tướng quân ra
ngoài không mang theo nhiều quân, như thế chắc chắn không đánh nhau lâu được.'
Quả đúng như lời ấy, chúng đều khen là sáng suốt.
Hội coi việc cơ mật
hơn chục năm, tham dự vào việc chính sự. Phu nhân nói rằng: 'Khi trước con nhỏ
của Phạm thị là Triệu Giản Tử bày kế đánh các nước để phù nhà Chu, việc ấy được
lòng dân, có thể nói là khéo vậy. Nhưng bởi bà mẹ nhân việc ấy làm nhiều điều dối
trá, nên hỏng cơ nghiệp vì việc mọn, vì thế chẳng thể tồn tại được lâu dài. Đã
hiểu biết đến lẽ sâu xa, thì đâu cần người bên cạnh phải nói ra, ta thường vui
vì biết lẽ làm người. Mày giữ lòng chính trực, thì ta khỏi phải lo lắng vậy. Những
muốn mày tu chí dần dần để giúp ích cho đời, chẳng nhục với các bậc tiền nhân.
Người ta thường nói rằng mọi sự đều theo lẽ tự nhiên, chỉ cốt gắng sức làm việc
không mỏi mệt, bị người khác đè nén cũng cho là việc nhỏ. Dẫu tiếp kẻ hèn mọn,
cũng phải nói lời thủ tín. Biết giữ lấy lẽ phải, cần minh bạch rõ ràng'. Hỏi rằng:
'Thế không phải là tầm thường ư?' Đáp: 'Quân tử liệu việc, đều là gom nhặt cái
nhỏ thành đại sự, xem việc thiện nhỏ vô ích mà chẳng làm, ấy mới là tiểu nhân vậy.
Muốn tất cả mọi người phải tôn trọng và ngưỡng mộ mình, ta cho rằng chẳng phải
là hay'.
Hội từ lúc nhỏ, y phục
bất quá chỉ một màu, luôn làm việc nhà, tự biết cần kiệm. Biết việc phải quấy, ở
chốn giầu sang mà nhún nhường. Hội trước sau được ban vàng lụa kể mấy trăm vạn,
đều bỏ vào kho chung của gia đình để chi dụng, một chút cũng không lấy. Năm phu
nhân 59 tuổi, nhằm năm Cam Lộ thứ hai tháng hai bị bạo bệnh chết. Khi an táng,
thiên tử tự tay thảo chiếu, sai Đại tướng quân Cao Đô Hầu phúng tặng rất hậu, mọi
việc tang lễ bất kể lớn nhỏ, đều chu cấp cho cả. Lại yêu cầu phu nhân của các bậc
Công hầu, vợ các vương hầu, thê thiếp, đều phải gọi phu nhân là bậc mệnh phụ.
Chiếu theo việc Thành Phong-Định Tự thời Xuân Thu, nên trọng điển lễ, không được
gọi thẳng tên ra, mọi người đều phải gọi là Thành Hầu mệnh phụ. Việc chôn cất
đã xong, lại theo phép xưa, đưa tặng đồ tế lễ."
Đến khi Đản làm phản,
xa giá đóng ở Hạng Thành, Văn Vương đến Thọ Xuân, Hội lại đi theo.
Lúc trước, Đại tướng
nước Ngô là Toàn Tông, được Tôn Quyền gả con gái cho nên nắm ngôi trọng thần,
Con Tông là Dịch, cùng với bọn Toàn Đoan, Toàn Phiên, Toàn Tập đều tiến binh lại
để cứu Đản. Con của anh trai Dịch là Toàn Huy, Toàn Nghi đều ở lại Kiến Nghiệp,
người trong nhà tranh giành kiện tụng nhau, dắt díu mẹ già cùng bộ khúc mấy chục
nhà vượt Trường Giang, đến theo hàng Văn Vương. Hội lập kế sách, bí mật giúp
Nghi, Huy soạn một bức thư, sai Huy, Nghi cho người thân tín mang vào thành cho
bọn Dịch, nói rằng chúa Ngô rất tức giận vì bọn Dịch không lấy nổi Thọ Xuân,
đang muốn tru lục toàn gia tướng sĩ, chi bằng nên bỏ trốn. Bọn Dịch rất kinh
hãi, bèn mở cửa thành phía Đông ra hàng, đều được phong thưởng rất hậu, bởi thế
lòng người trong thành đều li tán cả. Thọ Xuân phá được, phần nhiều ở mưu của Hội,
do vậy mà sự yêu mến của Chiêu với Hội ngày càng lớn, người bấy giờ đều gọi Hội
là Trương Tử Phòng.
Quân lui về, thăng Hội
làm Thái phó, Hội cố từ không nhận. Lại lấy Hội làm Trung lang ở phủ Đại tướng
quân cai quản công việc, Hội dốc lòng gánh vác mọi sự. Bởi có công đánh dẹp Gia
Cát Đản, Hội được tiến tước Trần hầu, lại nhún nhường không chịu nhận. Chiếu viết
rằng: "Hội giữ việc binh cơ, cùng tham dự vào kế sách, liệu địch chế thắng,
có mưu lược mà nên công, được ân sủng lại nhún nhường, thành khẩn chối từ, chí
bất khả đoạt. Người có công lại chẳng bận lòng, cổ nhân cũng phải lấy làm kính
trọng, thật đáng khen ngợi." Rồi thăng Hội lên làm Tư mã Thái uý. Dẫu Hội ở
bên ngoài, thường vẫn giúp việc chính sự. Bọn Kê Khang bị giết, cũng đều là mưu
của Hội cả.
Văn vương nhân vì Thục
Đại tướng tướng quân Khương Duy luôn quấy nhiễu biên thuỳ, liệu rằng nước nhỏ
dân nghèo, quân lực kiệt quệ, muốn cử đại binh đồ Thục. Chỉ có Hội cho rằng Thục
có thể lấy được, đã sớm trù liệu địa hình, khảo luận thế sự.
Năm Cảnh Nguyên tam
niên, mùa Đông, lấy Hội làm Trấn tây tướng quân, ban cho Giả tiết, đô đốc các
việc quân sự ở Quan Trung. Văn vương ban sắc lệnh cho các châu Thanh, Từ, Duyện,
Dự, Kinh, Dương đều phải chuẩn bị thuyền bè, lại hạ lệnh cho Đường Tư đóng các
chiến thuyền cực lớn, bề ngoài làm bộ sẽ đánh nước Ngô.
Năm Cảnh Nguyên thứ
tư, mùa Thu, hạ chiếu sai Đặng Ngải, Gia Cát Tự đều thống lĩnh chư quân ba vạn
người, Ngải đến Cam Tùng, Đạp Trung cầm chân Duy, Tự tiến đến Vũ Nhai chặn đầu
cầu cắt đứt đường về của Duy.
Hội thống lĩnh hơn chục
vạn quân, chia đường theo lối Tà Cốc, Lạc Cốc xâm nhập. Trước tiên sai Nha môn
tướng Hứa Nghi đi trước mở đường, Hội dẫn quân theo phía sau, tới Kiều Xuyên,
ngựa của Hội bị sa xuống hố, liền chém chết Nghi. Hứa Nghi là con trai Hứa Trử,
có công với vương thất, tuy vậy vẫn không được tha. Ba quân nghe thấy thế, chẳng
ai không kinh sợ. Thục lệnh cho ba quân giữ chắc thành trì, không được ra ứng
chiến, lại lui về hai thành Hán, Lạc cố thủ.
Nguỵ Hưng thái thú
Lưu Khâm tiến đến Ngọ Cốc, chư quân mấy đạo cùng tiến, đến Hán Trung. Giám quân
nước Thục là Vương Hàm giữ Lạc Thành, Hộ quân Tưởng Bân giữ Hán Thành, binh mã
đều có 5.000 người. Hội sai Hộ quân Tuân Khải, Tiền tướng quân Lý Phụ mỗi người
lĩnh một vạn quân, Khải vây hãm Hán Thành, Phụ vây Lạc Thành. Hội tiến theo lối
tắt, tiến tới phía Tây cửa Dương An, sai người đến tế mộ Gia Cát Lượng. Lại sai
Hộ quân Hồ Liệt tiến lên, công phá cửa quan, lấy được kho lương.
Khương Duy từ Đạp Trung quay về, đến Âm Bình, tập hợp quân sỹ, chạy tới cửa quan. Tới nơi, nghe tin cửa quan đã bị phá, liền lui binh về Bạch Thuỷ, cùng với Thục tướng Trương Dực, Liêu Hoá hợp binh giữ chặt cửa Kiếm Các chống cự Hội. Hội gửi hịch cho tướng sỹ và dân chúng nước Thục rằng: "Từ khi nhà Hán suy vi, quốc gia tan lở, muôn dân lầm than, kỷ cương dứt mối. Thái tổ Vũ Hoàng đế thần võ thánh minh, ra tay dẹp loạn , cứu vớt sinh linh, gây dựng lại Hoa Hạ. Cao Tổ Văn Hoàng đế ứng mệnh trời thuận lòng người, nhận mệnh lên ngôi đế. Liệt tổ Minh Hoàng đế sáng suốt lấy quốc gia làm trọng, kế thừa hồng nghiệp. Nhưng giang sơn biên ngoại, bỏ đường chính theo lối tục, chiếm đất thu dân không theo về vương hoá, vì thế ba tiên vương vẫn mang lòng di hận. Nay chủ thượng thánh đức cao vời, nối đức lớn của tiền nhân, dốc hết lòng trung giúp chúa, có công với vương thất, bầy ra khuôn phép mà nghĩ đến việc ban ơn huệ với cư dân chốn biên thuỳ để giúp đỡ muôn bang, cảm hoá trăm họ người man khiến họ phải cung kính riều cống.
Tiếc cho Ba Thục, chẳng
vì muôn dân, xót thương cho trăm họ nơi ấy, phải nhọc nhằn lao dịch không ngừng.
Ta chịu mệnh cầm sáu quân, kính mệnh trời đánh dẹp, quân mã Chinh Tây, Ung
Châu, Trấn Tây năm đạo cùng tiến. Việc hành quân từ xưa, vốn lấy nhân làm gốc,
lấy nghĩa để trị; Bậc vương giả cầm quân, dẫn quân đi không cần phải đánh; Đời
nhà Ngu, Thuấn Vũ chỉ múa kiều thích (1) mà thu phục được người Miêu, Chu Vũ
vương ban phát của cải, mở kho lương, dựng biểu văn để nêu tỏ việc nghĩa. Nay
ta vâng mệnh trên đi đánh dẹp phương Tây, thống suất việc binh nhung, bố cáo hịch
văn này để nêu cao đạo nghĩa, lấy việc cứu giúp trăm họ mà truyền mệnh, chẳng
muốn dùng võ lực để đánh đến cùng, mong chỉ một ngày nên chính đạo, bầy tỏ mấy
lời báo rõ sự an nguy, mong các ngươi nghe rõ điều ta nói.
Tiên chủ ở Ích châu
là bậc anh kiệt trên đời, sớm hưng binh nơi thảo dã, bị vấp ngã khốn cùng ở Từ-Ký,
phải chịu mệnh làm tay chân của Lã Bố-Viên Thiệu, được Thái tổ giang tay cứu vớt,
giúp cho ở ngôi tôn quý. Song giữa đường chia lìa, bởi không cùng chí hướng,
sau này Gia Cát Khổng Minh luôn mưu toan lấy đất Tần Xuyên, Khương Bá Ước thường
tiến ra Lũng Hữu, khuấy động vùng biên cảnh nước ta, ngấm ngầm nhiễu loạn các tộc
Đê-Khương, nhưng quốc gia đang có nhiều việc, chưa rảnh rỗi hội họp chư quân đi
chinh phạt. Nay vùng biên cảnh đã thanh bình, bên trong không có việc, bây giờ
chính là lúc phải dụng sức, muôn binh trông về một hướng, mà Ba Thục chỉ có một
châu, lại phải chia binh chống giữ, nghĩ rằng khó ngăn nổi muôn quân thiên hạ.
Kể từ trận Đoạn Cốc-Hầu
Hà bại binh thua lớn, nguyên khí bị tổn thương, không còn có thể dàn trận công
nhiên đối địch. Lại từ bấy đến nay, trong nước chưa năm nào được yên ổn, khiến
cho kẻ chinh chiến ở nơi xa mỏi mệt, khó có thể yên uỷ được lòng dân. Những điều
ấy hầu hết các bậc hiền tài đều biết rõ vậy. Những việc Thục tướng bị cầm giữ ở
đất Tần, Công Tôn Thuật (2) mất đầu về tay Hán, chín châu nối liền, giang sơn một
họ. Các việc ấy những bậc hiền tài đều đã nghe vậy. Người sáng suốt biết được
cái nguy lúc nó chưa thành hình, bậc trí giả tính được cái hoạ khi nó chưa xảy
ra, ấy là việc Vi Tử bỏ nhà Thương, làm tân khách ở nhà Chu, Trần Bình phản Hạng
Vũ, lập công cho nhà Hán. Há như thế chẳng thái bình vô sự hay sao, nhận bổng lộc
chẳng chính đáng hay sao?
Nay quốc triều ân đức
lớn lao như trời bể, ta vì đức lớn mà giúp chúa mở lòng khoan thứ, người sớm
quy thuận sẽ được ra ơn, kẻ ngoan cố phải giết bỏ, người tốt thì được sống, kẻ
ác ắt phải chết. Khi trước Ngô tướng là Tôn Nhất dẫn binh đến nương nhờ, nhận
ngôi vị Thượng ti, phẩm trật khác thường. Văn Khâm-Đường Tư làm hại lớn cho nước,
phản chúa làm kẻ cừu địch, lúc quay về vẫn được giữ việc binh nhung. Tư bị bức
bách khốn cùng phải theo về, hai con Khâm quy hàng, đều được làm tướng quân,
phong hầu cả; Tư còn được dự nghe việc quốc sự. Bọn Nhất đã khốn cùng phải theo
mệnh, còn được ban ân sủng, huống chi những bậc hiền tài Ba Thục biết được cơ hội
mà theo về! Tin rằng mọi người có thể lấy đó làm tấm gương soi rõ việc mất còn,
bậc cao đạo nghĩ xa xôi, hãy nên theo lối xưa Vi Tử, thác thân theo con đường của
Trần Bình, tất được hưởng phúc như cổ nhân, ấy là điều đáng mừng cho con cháu,
bách tính sỹ dân, nghiệp cũ được yên, kẻ làm ruộng chẳng lo mất ruộng, kẻ làm
quan chẳng sợ mất ngôi, dứt bỏ mối nguy như trứng chồng, được mãi mãi yên lành
hưởng phúc, há chẳng tốt đẹp hay sao! Còn như những kẻ sớm khuya rình rập, u mê
lầm lạc chẳng chịu hối cải, khi đại binh tiến đến, ngọc đá nát tan, dẫu có hối
hận, cũng không kịp nữa. Lợi hại bày tỏ đã rõ ràng, các ngươi hãy tự tìm lấy
phúc cho mình, mấy lời tuyên ra, khắp nơi đều đã biết."
Đặng Ngải đuổi theo
Khương Duy đến Âm Bình, kén chọn tinh binh, muốn theo lối Đức Dương Đình xâm nhập
Giang Du, tiến về phía đông Đam Đạo đến thẳng Miên Trúc, sẽ nhanh chóng đến
Thành Đô, đề nghị Gia Cát Tự cùng đi. Tự vốn dĩ đã nhận việc đón chặn Khương
Duy, cho rằng đi về phía Tây không phải là chiếu mệnh ban đầu, bèn tiến quân
lên phía trước nhằm hướng Bạch Thuỷ, hợp quân cùng với Hội. Hội sai Tướng quân
Điền Chương từ Kiếm Các đi về phía Tây, nhằm thẳng hướng Giang Du. Đi chưa được
trăm dặm, Chương phá được phục binh Thục ở Tam Giáo, Ngải liền thúc Chương tiến
lên. Chương dẫn quân ruổi dài về phía trước. Quân của Hội và Tự đóng ở Kiếm
Các, Hội muốn riêng nắm quyền quân chính, mật tâu lên trên rằng Tự hèn nhát
không chịu tiến quân, bắt nhốt Tự vào xe tù đưa về (3). Quân lính đều thuộc quyền
Hội, Hội tấn công Kiếm Các, không đánh được, phải lui binh, quân Thục cậy hiểm
yếu chống giữ.
Ngải đến được Miên
Trúc, đại chiến ở đấy, chém được Gia Cát Chiêm. Bọn Duy hay tin Chiêm thua trận,
liền khởi hết ba quân nhằm hướng Đông tiến về Ba quận. Hội bèn tiến quân đến
Phù Thành, sai Hồ Liệt, Điền Tục, Bàng Hội cùng đuổi theo Duy. Ngải tiến quân về
Thành Đô, Lưu Thiện đến tận chỗ Ngải xin hàng, phái sứ giả đến hạ sắc lệnh cho
bọn Duy phải hàng Hội. Duy đến Thê huyện thuộc Quảng Hán, lệnh cho binh sỹ đều
phải buông khí giới, theo thứ tự đi đến trạm quân của Hồ Liệt, lại theo con đường
phía Đông đến hàng Hội.
Hội tâu lên bề trên rằng:
"Bọn địch Khương Duy, Liêu Hoá, Trương Dực, Đổng Quyết tránh cái chết trốn
chạy, muốn đến Thành Đô. Thần lập tức sai Tư mã Hạ Hầu Hàm, Hộ quân Hồ Liệt vượt
qua Kiếm Các, tiến ra Tân Đô, Đại Độ cắt đứt đường ở phía trước, lại cử Tham
quân Viên Thanh Sam, tướng quân Cẩu An đuổi theo ở phía sau, Tham quân Hoàng Phủ
Khải, Tướng quân Vương Mãi từ phía nam Phù Thành tiến ra phía tả, thần đóng ở
Phù Thành tạo thế đông tây tương hỗ lẫn nhau. Bọn Duy còn nắm giữ quân kỵ bộ đến
bốn năm vạn người, giáp dầy binh sắc, chiếm giữ những nơi hiểm yếu ở đất Xuyên,
trong vòng mấy trăm dặm đầu đuôi nối tiếp nhau, chúng nương tựa vào đấy, hướng
cả về Tây. Thần đã sắc mệnh cho bọn Hàm, Khải sai chia binh đóng giữ các nơi,
chăng lưới ở Quảng Hán, chặn đường chạy trốn ở phía Nam, cắt đường phía Tây đi
Thành Đô, tuyệt lối xổng về phương Bắc, bốn mặt tụ lại, đầu đuôi cùng tiến, mọi
đường chạy đều đã bị cắt đứt, địch muốn trốn cũng không có đất. Thần lại chính
tay viết thư đến dụ, mở con đường sống, bọn địch bị bức bách khốn khổ, mệnh
cùng số tận, phải cởi giáp quẳng đao, cúi mặt ra hàng, ấn thụ (4) kể hàng mấy vạn,
của cải đồ dùng chất cao như núi.
Khi xưa Thuấn Vũ chỉ
múa kiều thích (5), mà người Miêu chịu phục tùng; Đi chinh phạt mà không phải
đánh, thì thịnh nghiệp đế vương. Lấy được trọn vẹn nước địch là tối thượng, phá
tan nước địch là thứ yếu; lấy được vẹn toàn quân đội của giặc là tối thượng,
đánh tan quân địch là thứ yếu, dụng binh phải có phép tắc rõ ràng.
Bệ hạ (6) là bậc
thánh đức, theo kịp những bậc vua hiền thuở trước, người phụ chính (7) sáng suốt
trung trinh, sáng ngang với Chu Công Đán thủa xưa, mở đạo hiếu sinh, nên đánh dẹp
kẻ có tội mà chẳng sát phạt, khác hẳn lẽ thường, với kẻ không chịu phục tùng
thì dạy dỗ kịp thời, binh khí không cần vấy máu, khiến người ở xa vạn dặm đều
phải ngợi ca, chín châu liền một cõi. Thần phụng thánh ý tuyên chiếu mệnh, nêu cao
ân điển, tạm bỏ việc phu phen, khiến nhà nhà được yên vui, điều hoà thuế khoá,
khiến việc sưu dịch được nới lỏng, thuận đức lễ để thu lấy rộng rãi lời khen,
cũng là đường lối đổi thay thói tục, mà trăm họ hớn hở, người người mừng vui,
sau lại thêm phấn chấn, về nghĩa chẳng phải là trái lẽ."
Hội lại cấm sỹ chúng
không được cướp bóc ở trong cõi, muốn thừa hư dẫn dụ mọi người, lại làm nơi đón
tiếp tướng sỹ xứ Thục, cùng với Duy tình nghĩa thắm thiết vô cùng.
Sách Thế Ngữ chép: Hạ
Hầu Bá chạy vào Thục, Thục chúa hỏi: "Tư mã công có ý thế nào?" Phách
thưa: "Vì đương thu xếp việc trong nhà, chưa lo gì đến việc ngoài." Hỏi:
"Tuấn sỹ ở kinh sư có ai?" Đáp rằng: "Có Chung Sỹ Quý, người ấy
quản việc triều chính, là người mà Ngô-Thục phải lo lắng vậy."
Hán Tấn Xuân Thu
chép: Khi trước, Hạ Hầu Bá hàng Thục, Khương Duy hỏi Bá rằng: "Tư Mã Ý nắm
việc nước ở bên ấy, liệu có ý chinh phạt nơi nào chăng?" Phách đáp:
"Kẻ kia đương mưu gây dựng việc gia môn, chưa kịp lo việc bên ngoài. Có
Chung Suỹ Quý là bậc trí giả, tuổi dẫu còn trẻ, sau này sẽ làm Ngô-Thục phải lo
lắng, nhưng nếu chẳng có người phi thường cũng chẳng thể dùng được vậy."
Sau đấy 15 năm Hội quả nhiên diệt Thục.
Xét lời Tập Tạc Xỉ
nói về việc ấy, cũng chẳng khác những gì đã ghi chép lại, việc chọn dùng lời ở
Thế Ngữ để phụ thêm vào ý vậy.
Tháng 12, chiếu viết
rằng: "Hội đến đất giặc bẻ gẫy địch quân, tiến lên không sợ địch mạnh,
giam hãm thành trì, giăng lưới bủa vây. Khiến hào kiệt xứ Thục phải cúi mặt đầu
hàng, mưu kế không thiếu sót điều gì, cất binh không cần bỏ nhiều công sức. Làm
việc đầy mưu toan, đi không cần phải đánh, một lần đánh toàn thắng, cõi ấy phải
quy hàng. Bày kế định phương Tây, khiến đất biên ngoại được thanh bình. Nay lấy
Hội là Tư đồ, tiến phong Huyện hầu, tăng thực ấp vạn hộ. Phong cho hai con làm
Đình hầu, đều được hưởng thực ấp một ngàn hộ."
Hội trong lòng có chí
khác, nhân chuyện Đặng Ngải thừa chế chuyên quyền, mới mật bạch lên trên rằng
Ngải có ý làm phản, sách Thế Ngữ chép rằng: Hội tìm người khéo viết, ở Kiếm Các
đòi Ngải chương biểu trình bày mọi việc, rồi thay đổi những lời ấy, thành những
lời kiêu căng trái lẽ, hơn nữa lại tự khoe khoang công trạng. Lại huỷ những thư
từ của Văn Vương hồi đáp, tự làm nên mối ngờ của Văn Vương về việc ấy. Vương liền
hạ chiếu thư sai bắt Ngải nhốt vào tù xa. Tư mã Văn Vương sợ Ngải có thể không
theo mệnh, sắc mệnh cho Hội tiến binh vào Thành Đô, Giám quân Vệ Quán đi ở phía
trước Hội, lấy thủ bút của Văn Vương tuyên lệnh bảo rõ với quân của Ngải, quân
của Ngải đều buông bỏ khí giới, Quán liền bắt Ngải nhốt vào xe tù.
Hội vốn chỉ kiêng dè
có Ngải, Ngải đã bị cầm tù nên Hội rất thoả chí, một mình thống lĩnh đại quân,
uy danh vang động phương Tây. Bởi Hội công danh cái thế, tự nghĩ chẳng thểở dưới
người khác, hơn nữa tướng khoẻ binh mạnh đều ở trong tay, bèn mưu phản. Muốn
sai Khương Duy cùng các tướng Thục tiến binh ra Tà Cốc, Hội tự cầm đại quân
theo ở phía sau. Khi đến Tràng An, sẽ hạ lệnh cho kỵ binh tiến theo đường bộ, bộ
binh theo đường thuỷ xuôi dòng sông Vị tiến đến, chừng 5 ngày sẽ đến Mạnh Tân,
cùng với quân kỵ hợp binh ở Lạc Dương, một sớm có thể yên định thiên hạ.
Hội nhận được thư của Văn Vương nói rằng: "Ta sợ rằng Đặng Ngải nghi ngờ không theo mệnh, nay sai Trung Hộ quân Giả Sung cầm vạn quân kỵ bộ theo lối tắt đến Tà Cốc, đóng binh ở Lạc Thành, ta thân cầm 10 vạn quân đóng ở Tràng An, sẽ tương kiến một ngày gần đây". Hội được thư, lấy làm kinh sợ gọi tả hữu đến nói nhỏ rằng: "Chỉ bắt Đặng Ngải, tướng quốc biết chỉ mình ta làm là đủ; nay cầm đại quân lại, tất đã biết ta có ý khác, nên phải nhanh chóng khởi binh. Việc nếu thành, ta có thể được cả thiên hạ,; nếu việc chẳng nên, lui về giữ Thục Hán, cũng đủ làm Lưu Bị rồi. Ta từ ngày ở Hoài Nam tới đây, vạch kế sách không sai sót, bốn bể đều đã biết cả. Ta muốn chủ trì việc yên định như thế, được chăng!"
Hội lấy ngày hôm sau
là rằm tháng giêng năm Cảnh Nguyên thứ năm, mời tất cả các quan tướng từ Hộ
quân, Quận thú, Nha môn kỵ đốc trở lên cùng với các quan lại cũ nước Thục, làm
lễ phát tang Thái hậu ở triều đường nước Thục. Nói thác ra rằng Thái hậu có di
chiếu, sai Hội khởi binh phế bỏ Văn Vương, bảo với hết thảy mọi người ngồi đó,
rồi sai mọi người bàn định, xong xuôi cùng biên tên và ký vào đó, lại đổi hết
những tướng thân tín của mình cho thống lĩnh chư quân. Sau khi thỉnh ý bá quan,
Hội bắt các tướng đều phải ở lại trong cung, cửa thành cung môn đều khoá hết cả,
cho binh lính canh giữ nghiêm ngặt. Bộ hạ dưới trướng của Hội là Khâu Kiến vốn
là gia thuộc cũ của Hồ Liệt, được Liệt tiến cử với Văn vương, Hội xin cho đi
theo bên mình, rất lấy làm quý mến. Kiến thương Liệt bị buộc tội, bẩm với Hội,
nên cho một thân binh được ra vào trong cung để mang đồ ăn thức thức uống cho
các tướng, các nha môn theo phép đều do một người ấy mà thôi.
Liệt ngầm bảo với người
thân binh nói giúp cho con mình ở ngoài được biết rằng: "Khâu Kiến mật nói
với ta rằng các tướng bị giữở trong cung sẽ bị giết hết, Hội đã sai đào một cái
hố lớn, để sẵn những vồ cùng gậy lớn ở đó. Lại gọi mấy nghìn binh ở ngoài vào
trong cung, tra vấn mọi người, bắt làm phản, người nào không theo sẽ dùng vồ đập
chết quăng xuống hố." Ở các nha môn thân binh cũng đều nói lại như thế,
trong một đêm mọi người truyền nhau tin ấy, khắp nơi sinh biến hết cả. Có người
bảo Hội rằng: "Nên giết hết những người từ Nha môn kỵ đốc trở lên." Hội
do dự chưa quyết.
Đến trưa ngày mười
tám, quân binh của Liệt gõ trống ầm ỹ ngoài cửa cung, quân binh các nơi chẳng hẹn
mà đều khua trống náo loạn ở bên ngoài, không cần thúc giục đều tới hết cả,
tranh nhau xông lên trước hướng đến cổng thành. Bấy giờ Khương Duy đang phân
phát những gậy lớn cho quân sỹ, có người thưa rằng ở bên ngoài có tiếng la rầm
rĩ, lại có cả lửa cháy, chốc lát, lại nói rằng có nhiều binh sỹ đang chạy đến cửa
thành. Hội cả kinh, bảo Duy rằng: "Binh sỹ kéo lại hẳn có ý muốn làm việc
ác, làm sao bây giờ?" Duy nói: "Chỉ còn cách đánh mà thôi." Hội
liền sai lấy binh khí định giết hết các Nha môn Quận thú, mọi người ở trong
cung lấy những chốt lớn để chống giữ các cửa, quân binh ra sức phá cửa, không
phá được. Vụt chốc, quân ở ngoài cửa cung bắc thang trèo lên thành, có kẻ châm
lửa đốt cháy mấy nhà trong cung, bọn sâu kiến (8) bên trong náo loạn hết cả
lên, tên bắn ra xối xả như mưa rào, các Nha môn Quân thú đều phải dỡ mái leo
lên nóc nhà trốn ra ngoài, được binh tốt cứu thoát. Khương Duy dẫn Hội cùng tả
hữu xông pha đánh giết, tự tay giết được năm sáu người, quân sỹ đánh nhau lộn bậy
chém được Duy, rồi tranh nhau chạy đến giết Hội. Bấy giờ Hội mới có bốn mươi tuổi,
tướng sỹ đánh nhau loạn xạ chết mất mấy trăm người.
Lúc trước, Ngải làm
Thái uý, Hội làm Tư đồ, đều được cầm cờ tiết, đô đốc chư quân như nhau, đều
chưa được thụ phong mà đã chết. Anh trai Hội là Dục, chết vào mùa Đông năm Cảnh
Nguyên thứ tư, Hội thuỷ chung vẫn chưa biết mà hỏi đến. Con trai của anh Hội là
Ung, cũng chết theo cùng với Hội, Hội lại nhận nuôi dưỡng mấy con nữa của anh
mình là Nghị và Tuấn, bởi Hội làm phản, nên bọn ấy bị bắt hạ ngục, đương nằm chờ
bị mang ra giết.
Tư mã Văn Vương dâng
biểu lên Thiên tử, Thiên tử hạ chiếu rằng: "Tổ phụ bọn Tuấn là Do có công
to, nối nhau ba đời, ngôi vị cực cao đến chức Thai ti (9), giúp chúa lập nhiều
công lao, hưởng lộc miếu đình. Cha là Dục, đã trải các chức vụ trong ngoài, làm
việc có tài năng dành được nhiều thành tích.
Xưa kia nước Sở trị tội
Tử Văn, mà chẳng giết chết Đấu thị để có người nối dõi. Nhà Tấn chép lại việc
Thành Tuyên có lòng trung, nên còn dùng Triệu thị về sau. Bọn Hội, Ung có tội,
mà đem diệt hết dòng dõi Diêu, Dục, ta rất lấy làm xót thương! Huynh đệ Tuấn
riêng một người được tha thứ, được giữ quan tước như cũ. Chỉ có Nghị và Ung phải
chịu tội chết.
Có người nói: Dục từng
mật bẩm với Tư mã Văn Vương, nói rằng Hội cậy tài khó gánh được trách nhiệm lớn
lao, chẳng nên chuyên dụng, vì thế mới rộng lòng tha thứ cho Tuấn. Hán Tấn Xuân
Thu chép rằng: Văn vương khen lời ấy sáng suốt mà tỏ rõ lòng trung, cười bảo Dục
rằng: "Theo như lời khanh nói, hẳn chẳng thể dùng đến cả người trong họ nữa
hay sao!"
Khi trước, Văn vương
muốn sai Hội đánh Thục, Tây tào chúc Thiệu Đễ vào yết kiến vương, nói rằng:
"Nay sai Chung Hội đốc xuất hơn chục vạn quân đánh Thục, Ngu thần cho rằng
không nên để Hội một mình gánh vác việc lớn, chẳng bằng sai thêm mấy người cùng
đi." Văn vương cười nói: "Ta há lại chẳng biết hay sao? Nước Thục làm
thiên hạ khốn khổ, khiến người dân chẳng được yên nghỉ, nay ta dẹp được là việc
đã nắm chắc trong lòng bàn tay, mà chúng nhân đều nói là Thục không thể dẹp được.
Người mà trong lòng nhút nhát ngờ sợắt trí dũng suy kiệt, trí dũng suy kiệt mà
miễn cưỡng sai khiến, đi cũng sẽ bị địch cầm giữ mà thôi. Chỉ có Chung Hội cùng
đồng ý kiến, nay sai Hội phạt Thục, tất sẽ diệt xong Thục. Sau khi Thục bị diệt,
tựu như điều khanh nghĩ đến, sao ta cần phải lo lắng nhỉ? Phàm đã thua quân thì
tướng chẳng thể nói dũng, quốc gia bai vong thì đại phu chẳng thể nghĩ khôn, ruột
gan đã tan nát (10) cố gắng sao được đây. Thục đã bị phá, dân còn sót lại tất
kinh sợ, chẳng đủ để mưu toan việc; tướng sỹ Trung Quốc cũng đều nghĩ đến chuyện
quay về, chẳng bằng lòng giúp Hội. Ví bằng làm việc xấu, là tự rước lấy hoạ diệt
tộc vậy. Khanh chẳng nên lo nghĩ như thế, ngươi cũng chớ có để ai nghe được việc
này nhé."
Đến khi Hội bạch rằng
Đặng Ngải không tuân theo phép nước, Văn Vương mới dẫn binh về phía Tây, Đễ lại
nói: "Chung Hội làm thống soái, năm sáu lần vu tội cho Đặng Ngải, chỉ nên
ra sắc mệnh cho Hội bắt Ngải, minh công chẳng cần phải thân chinh làm gì."
Văn Vương nói: "Khanh quên lời khanh đã nói lúc trước rồi sao, mà bảo rằng
ta chẳng nên đi nhỉ? Dù có như vậy, việc ấy cũng chẳng nên tuyên bố rộng rãi.
Ta những muốn lấy tín nghĩa đãi người, những người chẳng phụ ta, ta há nên sinh
lòng kia khác trước họ! Một ngày gần đây, Giả hộ quân (11) đã hỏi ta rằng:
'Minh công chẳng nghi ngờ Chung Hội sao?' Ta đáp rằng: 'Nếu ta sai ngươi đi, ta
cũng nghi ngờ ngươi hay sao?' Giả Sung cũng không thay đổi được lời ta đã nói.
Khi ta tới Tràng An, tự khắc ngươi sẽ biết cả." Khi quân đến Tràng An, Hội
quả nhiên đã chết, đều đúng như kế sách đã vạch lúc trước.
Chú thích:
(1) Kiều - là cái mộc che tên, Thích - là cái búa. Tích
xưa kể rằng, rợ Miêu không phục vua Nghiêu, tướng đi đánh dẹp, không đánh được.
Vua Nghiêu cho múa kiều thích thị oai ở cung đình, bảy ngày sau rợ Miêu đến
hàng phục.
(2) Công Tôn Thuật là người cuối thời Tây Hán, sau loạn
Vương Mãng, Thuật chiếm cứ đất Thục xưng đế, thủ phủ đóng ở Thành Đô. Quang Vũ
Đế khôi phục nhà Hán, chiêu dụ, Thuật cự tuyệt rồi bị Quang Vũ Đế bắt giết. Trước
sau Thuật xưng đế được 12 năm.
(3) Có lẽ Hội lấy lý do Tự không chịu đi cùng Ngải nên bắt
tội đưa về Nguỵ để mình được chuyên quyền.
(4) Ấn thụ là con dấu và dây thao đỏ, chỉ đám tướng linh
quân binh đến hàng, phải nộp ấn tín, dây đai.
(5) Kiều thích: Xem chú thích ở trên.
(6) Trỏ Tào Mao.
(7) Trỏ Tư Mã Chiêu, cũng ngầm khoe công mình. 8) Quân sỹ
của Hội.
(9) Thai tức là sao Tam Thai, theo sách Thiên văn nói thì
ngôi sao ấy như ngôi Tam Công vậy. Ý ở đây nói dòng dõi nhà Hội ba đời là Tam
công
(10) Nguyên văn là 'tâm đảm dĩ phá', dịch thoát.
(11) Giả Sung, bấy giờ làm Hộ quân.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét