Hiển thị các bài đăng có nhãn Liêu Trai Chí Dị quyển IX. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Liêu Trai Chí Dị quyển IX. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Hai, 19 tháng 12, 2022

MỤC LUC - Quyển IX

  MỤC LUC - Quyển IX

 Liêu Trai  Chí Dị

Tác giả : Bồ Tùng Linh
Dịch giả : Cao Tự Thanh


Quyển IX       
MỤC LUC (từ truyện 149 đến 166)

149. Vân La Công Chúa


154. Tế Liễu



166. Hiếu Tử       

                                                                                        Quyển X



149. Vân La Công Chúa

 

149. Công Chúa Vân La (Vân La Công Chúa)

 

An Đại Nghiệp người Lư Long (huyện Vĩnh Bình tỉnh Hà Bắc), sinh ra đã biết nói, mẹ phải đổ máu chó cho uống mới hết. Lớn lên đẹp trai chẳng ai bằng, lại thông minh học giỏi, các nhà thế gia tranh nhau hứa gả con gái cho. Lúc đầu mẹ nằm mộng thấy thần báo “Con bà sẽ lấy công chúa", rất tin. Nhưng khi An đã mười lăm mười sáu tuổi vẫn chưa thấy linh nghiệm, bà dần dần ăn năn mình tin mộng mị quàng xiên. Một hôm, An đang ngồi một mình, chợt nghe thấy mùi huơng lạ, kế có một tỳ nữ xinh đẹp chạy vào nói "Công chúa tới". Rồi lập tức trải thảm trên đất, suốt từ ngoài cổng vào thẳng trong nhà tới cạnh giường sinh ngồi. An còn kinh ngạc hốt hoảng, đã thấy một nữ lang vịn vai tỳ nữ bước vào, y phục dung nhan sáng rực cả nhà. Người tỳ nữ lót gối thêu nệm gấm lên giường rồi đỡ nữ lang ngồi xuống. An kinh hoàng không biết làm sao, khom lưng nói "Người là thần tiên nơi nào giáng lâm?". Nữ lang mỉm cười lấy tay áo che miệng không đáp, người thị nữ nói "Đây là công chúa Vân La trong phủ Thánh hậu. Vì Thánh hậu để ý tới lang quân, muốn cho công chúa kết duyên, nên công chúa tự tới xem nhà cửa đó".


An vừa mừng vừa sợ không biết nói gì, nữ lang cũng cúi đầu, ngồi đối diện nhau im lặng. An vốn thích đánh cờ vây, bàn cờ thường để bên cạnh. Một tỳ nữ lấy khăn hồng lau bụi, đặt lên bàn nói "Thường ngày công chúa thích trò chơi này, không biết so với Phò mã thì ai hơn?”. An dời ghế tới gần bàn. Công chúa cười ưng thuận, đi được độ ba chục nuớc, tỳ nữ xóa bàn cờ nói “Thôi Phò mã thua rồi”. Rồi nhặt con cờ cất vào hộp, nói "Phò mã đúng là tay cao cờ ở phàm trần, công chúa chỉ nhường được sáu con thôi”. Liền bỏ sáu con cờ đen ra khỏi bàn, công chúa cũng ưng thuận. Lúc công chúa ngồi đánh cờ, sai tỳ nữ ngồi dưới đưa lưng cho nàng gác chân, chân trái thòng xuống đất thì một tỳ nữ khác phục xuống đỡ, lại có hai a hoàn nhỏ đứng hầu. Lúc An ngẫm nghĩ nước cờ thì nàng co tay gác lên vai ngồi đợi. Ván cờ chưa phân thắng phụ, a hoàn nhỏ cười nói “Phò mã thua một con". Người tỳ nữ bước lên nói "Công chúa đã mệt, nên nghỉ thôi”.

150. Chân Hậu

 

Một phần bức tranh Lạc Thần phú đồ- Cố Khải Chi 

150. Chân Hậu (Chân Hậu)

 

Lưu Trung Kham ở huyện Lạc Thành (tỉnh Hà Nam) lúc trẻ ngu độn nhưng say mê sách vở, thường đóng cửa học tập, không giao thiệp với người ngoài. Một hôm đang đọc sách, chợt ngửi thấy mùi hương lạ thơm nức cả phòng, kế có tiếng vòng ngọc khua rất gấp, giật mình ngoảnh nhìn thì thấy một mỹ nhân bước vào, trâm vòng sáng rỡ, nguời theo hầu đều ăn mặc lối cung nữ. Lưu hoảng sợ lạy phục xuống đất, mỹ nhân đỡ lên nói “Tại sao chàng lại trước khinh nhờn mà sau cung kính?". Lưu càng sợ hãi, nói "Người là thiên tiên ở đâu ta còn chưa được biết, vậy trước đây ta xúc phạm lúc nào?”. Mỹ nhân cười nói “Chia tay đã được bao lâu? Kẻ bỉ cách chức mải miết ngồi cao mài gạch[179] không phải là chàng sao?”. Rồi mở túi gấm lấy rượu quỳnh tuơng ra bày tiệc, giục Lưu ngồi xuống đối ẩm, cùng bàn chuyện kim cổ, thông tuệ phi thường. Lưu mờ mịt không biết đối đáp ra sao, mỹ nhân nói “Ta chỉ tới dự tiệc ở Dao Trì có một lúc mà chàng đã trảí qua mấy kiếp, hết cả thông minh rồi”. Bèn sai người hầu lấy nước nóng hoà với cao Thủy Xương dâng lên, Lưu nhận lấy uống cạn, chợt thấy tâm thần nhẹ nhõm, đầu óc sáng láng.  


Lát sau trời tối, người theo hầu tản đi hết, mỹ nhân tắt đèn cởi áo, cùng Lưu vui thú. Trời chưa sáng, đám gái hầu đã tới tụ tập, mỹ nhân trở dậy ăn vận như cũ, riêng đầu tóc vẫn tề chỉnh không phải chải lại. Lưu nằn nì hỏi họ tên, mỹ nhân đáp "Nói ra cũng không hề gì, chỉ e chàng thêm ngờ sợ mà thôi. Thiếp là Chân hậu, chàng là hậu thân của Công Cán. Ngày trước chàng vì thiếp mà bị tội, nên trong lòng thiếp thấy bất nhẫn. Cuộc gặp gỡ hôm nay cũng tạm gọi là để báo đáp mối tình si vậy". Lưu hỏi Ngụy Văn[180] hiện ở đâu, mỹ nhân đáp "Tào Phi chẳng qua chỉ là đứa con tầm thường của lão cha làm giặc, thiếp ngẫu nhiên gặp kẻ phú quý thì theo chơi đùa vài năm, chuyện qua rồi cũng chẳng lưu luyến gì. Trước đây y vì việc của A Man[181] nên bị giam cầm lâu ngày dưới U minh, hiện nay không rõ ra sao. Nhưng Trần Tư[182] thì giữ chức coi sổ sách cho Thượng đế, thỉnh thoảng thiếp cũng có gặp". Kế có cỗ kiệu rồng tới dừng trong sân, mỹ nhân bèn rút chiếc nhẫn ngọc tặng Lưu rồi từ giã lên kiệu, mây đưa mù cuốn mà đi. Lưu từ đó học hành tấn tới nhưng nhớ nhung người đẹp, thẫn thờ như ngây.

151. Hoạn Nương

 

151. Hoạn Nương (Hoạn Nương)

 

Ôn Như Xuân là con nhà thế gia ở đất Tần (tỉnh Thiểm Tây, lúc nhỏ say mê đàn cầm, dù đi xa nhà cũng không rời tay. Có lần tới đất Tấn (tỉnh Sơn Tây), đi ngang một ngôi chùa cổ, buộc ngựa ngoài cổng vào nghỉ chân. Vào trong thì thấy có một vị đạo nhân mặc áo vải ngồi xổm ở hành lang, dựng cây gậy trúc vào vách, đeo một chiếc túi đựng đàn bằng vải bông thêu. Ôn thấy đúng sở thích, nhân hỏi “Đạo sĩ cũng giỏi đàn cầm sao?”. Đạo nhân đáp "Thật rất không giỏi, chỉ mong gặp người giỏi để học thôi". Rồi mở túi lấy đàn ra trao cho Ôn, Ôn nhìn thì thấy vân gỗ rất đẹp, dạo thử một câu thấy tiếng trong vang lạ thường, thích thú đàn luôn một khúc ngắn. Đạo sĩ cười khẽ như có ý chê là chưa giỏi, Ôn bèn trổ hết tài nghệ. Đạo nhân nhếch mép nói “Cũng hay, cũng hay, nhưng chưa đủ để làm thầy của bần đạo”. Ôn cho là có ý khoa trương, bèn trao lại đàn xin được nghe thử. Đạo nhân tiếp lấy đàn đặt lên đầu gối, vừa mới bật vài tiếng đã thấy gió mát thoảng tới, giây lát thì hàng trăm loài chim tới tụ họp, đậu kín trên cây trước sân chùa. Ôn vô cùng kinh ngạc, sụp lạy xin theo học. Đạo nhân đàn lại ba lần, Ôn chăm chú lắng nghe, bắt đầu hiểu được tiết tấu. Đạo nhân bảo đàn lại thử, chỉ thêm những chỗ sai rồi nói "Bấy nhiêu là ở trần gian không ai bằng rồi đấy!".


Ôn từ đó chuyên tâm tập luyện, nổi tiếng là tuyệt kỹ. Sau Ôn trở về đất Tần, còn cách nhà vài mươi dặm thì trời tối mưa to, không có chỗ nào nghỉ đêm. Thấy cạnh đường thấy có một xóm nhỏ liền rảo bước tới, không kịp hỏi han chọn lựa, thấy một cái cổng thì bước thẳng vào, tới tận trong nhà vẫn thấy im ắng như không có người. Giây lát có một nữ lang bước ra, khoảng mười bảy mườí tám tuổi, đẹp như thiên tiên, ngẩng đầu thấy khách thì hoảng sợ chạy trở vào. Ôn lúc ấy chưa có vợ, vừa nhìn thấy nàng đã say mê. Lát sau một bà lão ra hỏi chuyện, Ôn xưng tên họ rồi xin cho ngủ trọ qua đêm. Bà lão nói “Ngủ trọ cũng được, chỉ hiềm nhà thiếu giường chõng, nếu khách không ngại thì xin trải đệm xuống đất mời nghỉ tạm”. Rồi thắp đèn mang ra, đem cỏ khô rải xuống đất, ý tứ rất ân cần. Ôn hỏi họ tên, bà đáp "Già họ Tiêu”. Ôn lại hỏi nữ lang là ai, bà đáp “Đó là Hoạn Nương, con nuôi của già". Ôn nói: Nếu không chê nghèo hèn, thì ta muốn hỏi cưới có được không?”. Bà cau mày đáp “Chuyện đó thì già không thể vâng mệnh được”. Ôn hỏi vì sao, bà chỉ đáp là khó nói rồi im lặng. Bà già vào nhà trong, Ôn nhìn tới bó cỏ trải đệm thì vừa ướt vừa mục không sao nằm được, đành ngồi suông gảy đàn qua đêm, chờ tạnh mưa rồi ra về.

152. A Tú

 

152. A Tú (A Tú)

 

Lưu Tử Cố ở huyện Hải Châu (tỉnh Giang Tô), lúc mười lăm tuổi tới đất Cái thăm cậu, gặp một cô gái trong chợ bán tạp hóa, xinh đẹp vô song, lòng rất yêu thích, bước vào vờ mua quạt. Cô gái lên tiếng gọi cha, người cha ra, Lưu cụt hứng, cố tình trả giá rẻ rồi bỏ đi. Đứng xa thấy người cha đi nơi khác, liền quay lại, cô gái định tìm gọi cha, Lưu ngăn lại, nói "Không cần, cứ nói giá, ta không trả rẻ đâu”. Cô gái theo lời, cố ý nói giá thật cao, Lưu không nỡ mặc cả, rút tiền trả rồi đi. Hôm sau lại tới, lại như hôm trước, đi được vài bước, cô gái gọi theo "Trở lại đã! Vừa rồi ta nói dối thôi, giá ấy quá đắt”. Rồi trả lại nửa tiền, Lưu càng mến là thành thật, cứ rảnh là tìm tới, vì thế ngày càng quen thuộc. Cô gái hỏi chàng ở đâu, Lưu nói thật, hỏi lại thì cô gái tự nói họ Diêu. Lúc ra về, nàng lấy giấy gói những vật Lưu mua lại cẩn thận, rồi liếm ướt để dán lại. Lưu đem về không dám động tới, sợ mất vết lưỡi của nàng.


Được nửa tháng, người đầy tớ rình biết, ngầm bàn với cậu bắt phải về. Lưu buồn bực không vui, đem các thứ khăn hương phấn sáp đã mua giấu vào một cái tráp, lúc vắng người lại đóng cửa kiểm lại một lượt, giở tới là ngẩn ngơ. Năm sau lại tới đất Cái, vừa buông hành lý xuống là tìm ngay tới chỗ cô gái, tới nơi thì thấy cửa ngõ đóng chặt. Thất vọng trở về, cứ nghĩ rằng nàng đi vắng chưa về. Sáng sớm hôm sau lại tới thì cửa vẫn đóng như cũ. Hỏi các nhà hàng xóm mới biết họ Diêu vốn là người huyện Quảng Ninh (tỉnh Quảng Đông), vì buôn bán không lời lãi bao nhiêu nên tạm về quê, cũng không biết lúc nào sẽ trở lại. Lưu buồn rầu, ở lại vài ngày rồi chán nản ra về. Bàn tới chuyện lấy vợ thì mấy lần đều không chịu nghe lời mẹ, mẹ vừa tức giận vừa kỳ quái, người đầy tớ liền lén kể chuyện năm trước cho mẹ biết, mẹ càng ráo riết ngăn cấm, không cho lui tới đất Cái nữa.

Chủ Nhật, 18 tháng 12, 2022

153. Tiểu Thúy

 

153. Tiểu Thúy (Tiểu Thúy)

 

Thái thường họ Vương người đất Việt (Chiết Giang), lúc còn là trẻ con có lần nằm ngủ ban ngày trên giường, bỗng trời tối sầm, sấm sét nổi lên ầm ầm, có con vật to hơn con mèo tới nằm nép bên cạnh, quanh quẩn không rời. Hồi lâu trời tạnh, con vật bỏ đi, nhìn lại thì không phải là mèo, mới sợ, gọi anh ở phòng bên. Anh nghe kể, mừng nói “Em ắt sẽ quý hiển to, đó là hồ tới núp trốn sấm sét đấy". Sau quả Vương tuổi trẻ đã thi đỗ Tiến sĩ, rồi từ chức Tri huyện về kinh làm Thị ngự. Sinh được một trai là Nguyên Phong rất ngây ngô, mười sáu tuổi vẫn chưa biết phân biệt con cái với con đực, quanh vùng vì vậy không ai chịu gả con gái cho, Vương rất lo lắng. Chợt có người đàn bà dắt một cô gái tới nhà xin gả cho Nguyên Phong. Nhìn tới cô gái, thấy nhoẻn miệng tươi cười, xinh đẹp như tiên. Vương mừng rỡ hỏi họ tên, người đàn bà tự nói họ Ngu, con gái tên Tiểu Thúy, vừa mười sáu tuổi. Bàn tới sính lễ, bà ta nói “Trước nay nó ở với ta rau cháo không đủ no, nay một sớm được gởi thân vào chốn nhà cao cửa rộng, có kẻ hầu người hạ, thừa miếng ngon của lạ, nó được vừa ý mà ta cũng được thỏa lòng, có phải bán rau đâu mà nói giá!". Phu nhân mừng lắm, tiếp đãi rất hậu.

154. Tế Liễu

 

154. Tế Liễu (Tế Liễu)

 

Tế Liễu là con gái một sĩ nhân ở đất Trung Đô (huyện Bình Dao tỉnh Sơn Tây), có kẻ thấy nàng ẻo lả đáng yêu nên gọi đùa là Tế Liễu (cây liễu nhỏ). Nàng lúc nhỏ thông minh, biết chữ, thích đọc sách dạy xem tướng. Bình sinh tính nết trầm mặc, không hay nói tới điều hay dở của người khác. Nhưng nếu có ai tới dạm hỏi, thì xin cho được núp nhìn mặt, chọn lựa nhiều người mà đều nói rằng chưa có ai xứng đáng. Đến năm nàng mười chín tuổi, cha mẹ tức giận nói "Giả như trên đời không có ai xứng đáng, thì ngươi chịu làm gái già không chồng à?". Nàng thưa "Thật tâm con muốn lấy trí người thắng mệnh trời, nhưng đã lâu vẫn không thành công, cũng là số phận của con vậy. Thôi từ nay trở đi xin vâng theo ý cha mẹ". Lúc ấy có Cao sinh là danh sĩ dòng dõi thế gia nghe danh Tế Liễu tới xin hỏi cưới, sau ngày cưới vợ chồng rất hòa hợp. Vợ trước của sinh chết để lại một đứa con tên là Trường Phúc, lúc ấy được năm tuổi, cô gái nuôi nấng chăm sóc rất chu đáo. Có khi nàng về thăm cha mẹ, Trường Phúc cứ gào khóc đòi đi theo, quát mắng thế nào cũng không chịu thôi. Được hơn năm nàng sinh một trai, đặt tên là Trường Hỗ. Sinh hỏi ý nghĩa tên con, nàng đáp rằng không có ý gì khác, chỉ là mong mỏi nó được theo hầu dưới gối cha lâu dài mà thôi.[186]

155. Chung Sinh

 

155. Chung Sinh (Chung Sinh)

 

Chung Khánh Dư là danh sĩ ở huyện Liêu Đông (tỉnh Liêu Dương). Xuống nam thi hương, nghe nói trong vương phủ có vị đạo sĩ biết được chuyện may rủi của người ta, định tìm tới hỏi. Thi nhị trường xong, tới suối Báo Đột (thuộc huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thì gặp, thấy là một đạo nhân hơn sáu mươi tuổi, râu dài tới bụng, tóc bạc phơ phơ. Những người tới hỏi chuyện số may vận rủi chen chúc đông nghịt xung quanh, đạo sĩ đều miễn cuỡng trả lời. Chợt nhìn thấy sinh giữa đám đông, ông ta vui mừng cầm tay nói "Ông đúng là người tâm tính đức hạnh đáng kính". Rồi kéo sinh lên gác trò chuyện, nhân hỏi "Có phải ông muốn biết tương lai không?”, sinh vâng dạ. Đạo sĩ nói "Phúc mệnh của ông rất mỏng, song khoa này thi hương cũng có thể hy vọng, có điều e rằng thi đỗ rồi lại không được thấy mặt cha mẹ nữa”. Chung vốn có hiếu, nghe thế rơi nước mắt, muốn bỏ thi trở về. Đạo sĩ nói "Nếu bỏ thi lần này thì không bao giờ đỗ nổi Cử nhân nữa”, sinh đáp "Mẹ mất không được thấy mặt, thật không đáng làm người, dẫu làm tới khanh tướng cũng có gì quý?". Đạo sĩ nói "Kiếp trước ta có túc duyên với ông, ngày nay xin hết sức giúp đỡ".

156. Mộng Lang

 

156. Mơ Thấy Chó Sói (Mộng Lang)

 

Ông họ Bạch là người tỉnh Trực Lệ. Con trai lớn là Giáp đi làm quan ở phương nam, hai năm đường xa bặt tin. Có người họ Đinh là họ hàng xa tới thăm, ông lâu không gặp nên bày tiệc khoản đãi. Đinh vốn là phù thủy, lúc chuyện trò ông hỏi việc dưới âm phủ, Đinh trả lời có nhiều điều huyễn hoặc, ông không tin lắm nhưng cũng chỉ mỉm cười. Kế chia tay, vài hôm sau ông vừa đi nằm thấy Đinh lại tới, mời cùng đi chơi. Ông đi theo, vào tới một tòa thành, lát sau Đinh chỉ một cái cổng nói "Cháu ông ở trong ấy đấy". Lúc ấy ông có đứa cháu con người chị đang làm Tri huyện ở đất Tấn (vùng Sơn Tây), ngạc nhiên hỏi "Sao nó lại ở đây?". Đinh đáp "Nếu ông không tin, cứ vào sẽ biết". Ông vào, quả thấy cháu mặc áo đội mũ Ngự sử ngồi trên công đường, quân hầu vác cờ cầm kích dàn hàng, không ai vào lọt. Đinh kéo ra, nói “Còn nha môn của công tử cách đây cũng không xa, ông có muốn tới xem không?", ông bằng lòng. Giây lát tới một tòa nhà, Đinh bảo "Ông vào đây!". Nhìn vào cổng thấy một con sói lớn chắn đường, sợ quá không dám bước tới, Đinh lại nói "Ông cứ vào đây!". Qua một lần cổng nữa thấy trên thềm dưới sân toàn là sói, con nằm con ngồi. Nhìn tới thềm thì thấy xương trắng chất cao như núi, ông càng sợ hãi, Đinh bèn lấy mình che cho ông đi vào.

157. Thiên Cung

 

157. Cung Trời (Thiên Cung)

 

Quách sinh là người kinh đô, tuổi ngoài hai mươi, dung mạo đẹp đẽ. Một buổi chiều có bà già mang cho một bình rượu, lấy làm lạ vì không biết duyên cớ. Bà già cười nói "Không cần hỏi, cứ uống vào sẽ có chuyện hay", rồi bỏ đi. Sinh mở bình ngửi thử, thấy thơm lừng bèn uống. Chọt say lịm không biết gì nữa, khi tỉnh dậy thì thấy đang nằm chung với một người, sờ thấy da thịt mềm mại, mùi hương sực nức, té ra là con gái, hỏi thì không đáp, Quách, bèn làm luôn. Kế lấy tay mò lên vách thấy toàn bằng đá, không khí ẩm thấp đầy hơi đất như trong mồ, cả sợ ngờ là bị ma dụ. Nhân hỏi cô gái “Nàng là thần gì?", nàng đáp “Ta không phải là thần mà là tiên, đây là động phủ. Ta cùng ngươi vốn có túc duyên, xin chớ ngờ vực, cứ ở lại đây. Qua một lần cửa nữa, chỗ có ánh sáng lọt vào là nơi đại tiểu tiện". Nói rồi trở dậy đóng cửa đi mất. Hồi lâu Quách thấy đói, có nữ đồng mang bánh bao, miến vịt vào, cứ cho ăn mò trong bóng tối, tối đen như mục không biết ngày hay đêm. Không bao lâu cô gái vào ngủ mới biết đã là đêm, Quách nói "Ngày không ánh mặt trời, đêm không ánh đèn lửa, ăn uống không biết mồm ở đâu nếu cứ thế này thì Hằng Nga khác gì La Sát, thiên đường khác gì địa ngục?". Cô gái cười nói "Vì ngươi là người trần tục, nhiều lời dễ lộ nên ta không muốn ra mặt gặp nhau. Vả lại mò mẫm trong bóng tối thì xấu đẹp cũng có thể biết, cần gì đèn đuốc?".

158. Oan Ngục

 

158. Bản Án Oan Khuất (Oan Ngục)

 

Chu sinh người huyện Dương Cốc (tỉnh Sơn Đông), tuổi trẻ tính hời hợt, ưa đùa cợt. Vì vợ chết nên tới gặp bà mối, nhân thấy vợ người láng giềng của bà ta xinh đẹp bèn nói đùa “Quý hàng xóm đẹp quá, nếu ta cưới được thì hay lắm”. Bà mối cũng đùa rằng "Cứ giết chồng người ta đi, thì ta sẽ tính giùm cho". Sinh cười nói "Được thôi”. Hơn tháng sau, chồng người ấy đi đòi nợ bị giết ngoài đồng. Quan huyện sai bắt chức dịch trong làng, đánh đập tóe máu nhưng rốt lại vẫn không có manh mối gì. Chỉ có bà mối kể lại chuyện sinh nói đùa, quan vì thế nghi là Chu sinh, sai bắt tới hỏi thì nhất quyết không nhận. Quan huyện lại ngờ rằng người đàn bà tư thông với sinh, sai bắt luôn, tra tấn rất tàn khốc, người đàn bà không chịu nổi bèn nhận bừa. Quan lại tra hỏi Chu, Chu nói "Đàn bà yếu ớt không chịu đau nổi nên nhận bừa, có điều đã chết oan còn mang thêm tiếng xấu bất trinh, giả như quỷ thần vô tri thì ta cũng không nỡ. Thôi để ta khai thật, đúng đấy, ta muốn giết chồng để lấy người vợ, chuyện này đều do ta làm, nàng ta không biết gì đâu”.


Hỏi có chứng cớ gì không, sinh đáp là có chiếc áo vấy máu làm bằng. Quan sai tới nhà lục soát thì không thấy, lại tra tấn, Chu chết đi sống lại mấy lần bèn nói "Đây là vì mẹ ta không nỡ đưa ra để ta phải chết thôi, để ta tự đi lấy". Quan cho giải về nhà, sinh nói với mẹ "Đưa áo con ra thì con phải chết, mà không đưa ra thì con cũng chết. Đàng nào con cũng chết, thôi mẹ đưa ngay ra đây đi". Bà mẹ khóc đi vào phòng, lát sau cầm tấm áo đưa ra. Quan khám nghiệm thấy đúng là có vết máu, kết án xử chém sinh, bàn đi xét lại nhiều lần không ai nói gì khác, được hơn một năm thì định ngày hành quyết. Hôm ấy quan huyện vừa mới điểm danh phạm nhân chợt có một người đi thẳng vào công đường, trợn mắt nhìn quan huyện mắng lớn "Ngươi mù mờ như thế làm sao coi việc dân?”. Bọn nha dịch mấy mươi người xúm vào bắt, người ấy gạt tay một cái, cả đám ngã dúi dụi. Quan huyện khiếp sợ toan chạy, người ấy nói lớn "Ta là Chu Tướng quân dưới trướng Quan Đế[193] đây! Tên quan ngu xuẩn kia mà nhúc nhích thì ta giết chết tươi đấy!". Quan huyện run sợ đứng im, người ấy nói "Kẻ giết người là Cung Tiêu, chứ họ Chu có dính líu gì tới?". Nói xong ngã lăn xuống đất ngất đi, lát sau tỉnh lại, mặt không còn chút máu, hỏi tên họ thì là Cung Tiêu.

159. Lưu Phu Nhân

 

159. Phu Nhân Nhà Họ Lưu (Lưu Phu Nhân)

 

Liêm sinh người huyện Chương Đức (tỉnh Hà Nam), lúc trẻ ham học nhưng mồ côi sớm, nhà rất nghèo. Một hôm đi khỏi nhà, tối về lạc đường vào một thôn nọ, gặp một bà già đi tới nói "Liêm công tử đi đâu thế, trời tối lắm rồi". Sinh đang lo lắng nên cũng không kịp hỏi là ai, chỉ xin ngủ nhờ. Bà già dẫn sinh đi tới một phủ đệ lớn, có hai a hoàn cầm đèn lồng đưa một người đàn bà ra, thấy khoảng hơn bốn mươi tuổi, cử chỉ phong thái ra dáng đại gia. Bà già bước lên thưa "Liêm công tử đã tới," Sinh vội rảo bước tới làm lễ, người đàn bà vui vẻ nói "Công tử tuấn tú lắm, đâu phải chỉ là một phú ông". Lập tức bày tiệc đón tiếp, ngồi bên cạnh mời mọc rất ân cần, nhưng riêng mình nâng chén không mấy khi uống, cầm đũa không mấy khi gắp.


Sinh ngại ngùng áy náy, mấy lần hỏi thăm gia thế, bà cười đáp "Cứ uống cạn ba chén lớn ta sẽ nói cho chàng biết". Sinh uống xong, bà nói "Chồng ta họ Lưu, làm khách ở Giang Tả (vùng Giang Tây) gặp tai biến chết rồi. Ta góa bụa sống một mình ở nơi vắng vẻ này, nhà cửa ngày càng sa sút. Tuy có hai đứa cháu nội nhưng nếu không phải lũ ăn tàn phá hại thì cũng là hạng bất tài vô dụng. Công tử tuy khác họ nhưng kiếp trước là ruột thịt, vả lại tính tình thuần hậu cẩn thận nên ta mới ra mặt gặp gỡ. Cũng chẳng có chuyện gì phiền, chỉ là ta có một ít vàng chôn giấu, muốn gởi công tử đem đi buôn bán, có lời thì chia, cũng không tới nỗi chết già không được ai biết". Liêm từ chối, lấy cớ tuổi còn trẻ lại chỉ là kẻ học trò khờ khạo, sợ phụ sự ủy thác lớn lao.

160. Thần Nữ

 

160. Gái Thần (Thần Nữ)

 

Mễ sinh là ngươi đất Mân (tỉnh Phúc Kiến), người kể chuyện quên mất tự hiệu quận ấp. Vào quận thành chơi, say đi ngoài phố, nghe trong một tòa nhà lớn có tiếng đàn sáo ầm ĩ, hỏi người ở quanh thì họ đáp nhà ấy mở tiệc mừng thọ, song ngoài cổng  trong sân lại rất vắng vẻ. Lắng tai nghe thấy tiếng sênh phách vang lừng, sinh đang say lấy làm ưa thích, không hỏi là nhà ai, cứ ra đầu phố mua lễ vật chúc mừng rồi đưa thiếp vào, xưng là vãn sinh. Có người thấy sinh ăn mặc tầm thường bèn hỏi có họ hàng thế nào với ông già kia, sinh đáp không có. Người ấy nói nhà ấy là người nơi khác tới đây ngụ cư, không rõ là quan gì nhưng rất kiêu kỳ, không phải là họ hàng thì gặp làm gì? Sinh nghe thấy hối hận, nhưng danh thiếp đã đưa vào rồi. Phút chốc có hai thiếu niên ra đón khách, trang phục rực rỡ, dáng điệu phong nhã, vái chào sinh rồi mời vào. Thấy một ông già ngồi quay mặt về hướng nam, hai bên bày mấy bàn tiệc, khách có sáu bảy người đều như bậc quý quan, thấy sinh vào đều đứng lên làm lễ, ông già cũng chống gậy đứng dậy.


Sinh đứng hồi lâu đợi đón khách mà ông vẫn không rời khỏi chỗ. Hai thiếu niên đỡ lời, nói "Phụ thân già yếu, vái chào khó khăn, anh em bọn ta xin thay mặt tạ ơn bậc cao hiền hạ cố”. Sinh khiêm tốn đáp tạ xong, họ mời vào một bàn phía trên, bên cạnh ông già. Giây lát ban nhạc ra múa hát ở dưới, sau tiệc bày bình phong lưu ly che đám phụ nữ trong nhà. Tiếng đàn sáo ầm ĩ, khách khứa không thể chuyện trò gì nữa. Sắp tan tiệc, hai thiếu niên đứng lên, đều rót chén lớn mời khách, chén đựng khoảng ba đấu. Sinh ngần ngại nhưng thấy khách nhận cũng nhận. Giây lát nhìn quanh thấy chủ khách đều đã cạn chén, bất đắc dĩ cũng phải cố uống. Thiếu niên lại rót, sinh thấy mệt quá đứng lên cáo lui, thiếu niên nắm áo giữ lại. Sinh say quá gục xuống đất, thấy có người lấy nước lạnh rưới vào mặt, chợt tỉnh dậy nhìn thì khách khứa đã về hết, chỉ còn một thiếu niên xốc cánh tay đưa ra, bèn chào về. Sau đó lại qua ngang cổng, thì thấy đã dời đi ở chỗ khác.

161. Tương Quần

 

161. Tương Quần (Tương Quần)

 

Án Trọng là người huyện Diên An tỉnh Thiểm Tây, ở chung với anh là Bá, anh em rất thương yêu nhau. Bá được ba mươi tuổi thì chết, kế đó vợ cũng chết. Trọng rất đau đớn, thường nghĩ nếu có hai con trai sẽ để một đứa làm con nuôi lo việc hương hỏa cho anh. Nhưng vừa sinh được một trai thì vợ Trọng chết. Trọng lo vợ kế không thương con mình nên chỉ định cưới thiếp. Thôn bên có người bán tỳ nữ, Trọng qua xem mặt nhưng không vừa ý, trong lòng chán nản lại bị bạn bè giữ lại uống rượu nên say khướt mới về. Dọc đường gặp bạn học cũ là Lương sinh, Lương nắm tay mời mọc về nhà bằng được, Trọng say quá cũng quên bẵng bạn đã chết nên đi theo. Vào cổng thấy không phải là căn nhà ngày trước, lấy làm lạ hỏi thì bạn đáp mới dời nhà về đây. Vào tới nhà, Lương định lấy rượu ra mời thì rượu trong nhà đã hết, bèn dặn Trọng ngồi đợi rồi xách vò đi mua.


Trọng ra cổng đứng ngóng, thấy một người đàn bà cưỡi ngựa đi qua, có đứa nhỏ khoảng tám chín tuổi theo sau, mặt mũi dáng vẻ giống hệt anh mình, thấy chạnh lòng bèn rảo bước theo. Hỏi đứa nhỏ họ gì, nó đáp là họ Án. Trọng càng kinh ngạc, lại hỏi cha cháu tên gì, nó cười đáp là không biết. Trò chuyện tới đó thì tới nhà, người đàn bà xuống ngựa vào trong. Trọng cầm tay đứa nhỏ hỏi "Vào xem cha cháu có nhà không", nó dạ dạ rồi vào. Giây lát có một người đàn bà bước ra nhìn, thì đúng là chị dâu Trọng. Chị dâu ngạc nhiên hỏi sao chú lại tới đây, Trọng buồn bã theo vào, thấy nhà cửa cũng cao ráo sạch sẽ. Hỏi anh đi đâu, chị dâu đáp "Đi đòi nợ chưa về", lại hỏi người đàn bà cưỡi ngựa là ai, đáp "Đó là thiếp của anh chú, họ Cam, sinh được hai trai. Đứa lớn là A Đại, đi bán hàng chưa về, đứa chú gặp là A Tiểu”. Trọng ngồi một lúc lâu, đỡ say mới biết rằng mình gặp đây toàn là ma, nhưng vì anh em vốn thương yêu nhau nên cũng không sợ hãi gì.

162. La Tổ

 

162. La Tổ (La Tổ)

 

La Tổ người huyện Túc Mặc (tỉnh Sơn Đông), lúc trẻ nghèo khổ nhưng thích bay nhảy. Năm ấy trong họ phải cắt một người đi lính thú ngoài biên, bèn cho La đi. La ở ngoài biên vài năm, sinh được một trai, lại được viên Thủ bị chỉ huy yêu mến. Kế viên Thủ bị được thăng làm Tham tướng Thiểm Tây, muốn đem La cùng đi. La bèn gởi gắm vợ con cho người bạn là Lý Mỗ rồi lên đường, suốt ba năm không có dịp về thăm. Gặp lúc Tham tướng muốn gởi thư lên biên ải phía bắc, La thưa xin cầm thư đi để nhân tiện đường ghé thăm vợ con, Tham tướng ưng thuận. La về tới nhà, thấy vợ con đều khoẻ mạnh, cũng được yên lòng, nhưng nhìn thấy dưới gầm giường có đôi giày đàn ông, trong lòng ngờ vực. Kế qua nhà Lý cám ơn, Lý bày rượu khoản đãi rất ân cần, vợ cũng nói Lý giúp đỡ đối xử tử tế, La cảm động lắm. Hôm sau nói với vợ rằng "Ta phải đi đưa thư cho chủ, chắc tối không về kịp đâu, nàng đừng chờ". Rồi ra cửa lên ngựa đi nhưng ngầm núp lại gần đó, đến khuya quay về thì nghe tiếng vợ và Lý uống rượu chuyện trò, nổi giận phá cửa vào. Hai người sợ hãi quỳ xuống van lạy. La đã tuốt đao nhưng lại tra vào vỏ, nói với Lý rằng "Ta vẫn coi ngươi là con người, nay lại như thế này, nếu giết đi chỉ làm bẩn đao của ta thôi. Vậy ta giao hẹn với ngươi, ngươi nhận lấy vợ con ta thì cũng phải ghi tên làm lính thay ta, ngựa nghẽo khí giới ta để cả lại đây cho ngươi, ta đi đây”, rồi bỏ đi.


Người làng cùng báo lên quan, quan phạt đánh trượng Lý. Lý bẩm thật mọi chuyện, nhưng việc không có gì làm bằng nên không tra xét được, sai tìm La khắp nơi vẫn không nghe tin tức gì. Quan ngờ rằng Lý tư thông với vợ nên giết chồng, càng giam cầm Lý và vợ La nghiêm ngặt, hơn một năm thì hai người đều chết trong ngục, quan sai lấy ngựa trạm đưa con La về Túc Mặc. Về sau ở dinh Thạch Hạp có dân vào núi kiếm củi gặp một đạo sĩ ngồi trong hang, không thấy ăn uống gì. Mọi người đều lấy làm lạ, đem thức ăn dâng, có người nhận biết nói đó là La. Cơm gạo chất đầy trong hang mà rốt lại La vẫn không ăn, lại tỏ vẻ ghét sự ồn ào, vì thế mọi người cũng dần dần ít tới đó. Vài năm sau ngoài cửa hang cỏ mọc như rừng, có kẻ tới nhòm trộm vào thấy La vẫn ngồi yên chỗ cũ không hề di chuyển. Lại khá lâu sau, người ta thấy La ra khỏi hang đi dạo trên núi, cho là đã bỏ đi, nhung tới nhìn vào hang thì thấy trên áo La vẫn đầy bụi như cũ, càng lấy làm lạ. Vài ngày sau lại tới xem thì thấy da thịt rã xuống, té ra đã tọa hóa từ lâu rồi. Dân vùng ấy lập miếu thờ, cứ cách ba tháng lại thắp hương đất vàng khấn khứa ngoài cổng. Sau con La tới đó, người ta đều gọi là "La Tổ nhỏ”' giao hết tiền đèn hương cho. Đến nay con cháu vẫn mỗi năm tới đó một lần thu tiền đèn hương. Lưu Tông Ngọc ở huyện Nghi Thủy (tỉnh Sơn Đông) kể cho ta nghe chuyện này rất rõ ràng, ta cười nói “Những người mộ đạo Phật trên đời hiện nay không mong làm thánh hiền mà chỉ mong thành Phật tổ, xin nói với tất cả bọn họ rằng nếu muốn thành Phật ngay lập tức thì cứ buông đao xuống đất thôi".

 

163. Quất Thụ

 

163. Cây Quýt (Quất Thụ)

 

Ông Lưu người Thiểm Tây làm Huyện lệnh Hưng Hóa (tỉnh Giang Tô). Có người đạo sĩ tới hiến một chậu cây cảnh, nhìn ra thì là một cây quýt nhỏ, thân cây vừa bằng ngón tay, ông từ chối không nhận. Nhung ông có cô con gái nhỏ mới sáu bảy tuổi, hôm ấy gặp ngày sinh nhật, đạo sĩ nói "Vật này không đáng biếu đại nhân thưởng ngoạn, chỉ là để chúc tiểu thư được phúc thọ thôi", ông bèn nhận. Cô gái vừa nhìn thấy cây quýt thì mừng quýnh, đem đặt trong phòng ngủ, sớm tối chăm sóc, chỉ sợ nó bị thương tổn. Năm ông Lưu thôi giữ chức Huyện lệnh, cây quýt đã lớn, bắt đầu kết trái. Khi ông thu xếp hành trang lên đường, thấy nó nặng nề cồng kềnh, bèn bỏ lại. Cô gái ôm cây quýt kêu khóc, người nhà nói dối rằng “Chỉ đi một thời gian sẽ trở lại mà", cô gái tưởng thật mới nín khóc. Nhưng lại sợ có người khoẻ mạnh vác đi mất, bèn sai người nhà dời ra trồng dưới thềm rồi mới chịu lên đường. Cô gái về nhà, sau được gả cho họ Trang.


Năm Bính tuất Trang thi đỗ Tiến sĩ, được cử làm Huyện lệnh Hưng Hóa. Phu nhân rất mừng, song thầm nghĩ đã hơn mười năm, cây quýt chắc không còn. Tới nơi thì cây quýt đã lớn hơn mười ôm, trái kết từng chùm từng chùm, kể tới hàng ngàn. Hỏi thăm những người sai dịch cũ, họ đều nói sau khi ông Lưu đi, cây quýt rất tươi tốt nhưng không kết trái, đây là lần đầu tiên có trái, phu nhân lấy làm lạ lùng. Trang giữ chức ba năm, cây quýt ra trái rất sai, đến năm thứ tư thì xơ xác không có một cái hoa nhỏ. Phu nhân nói "Chàng không làm quan ở đây lâu nữa đâu”, đến mùa thu quả nhiên Trang được giải nhiệm.


Dị Sử thị nói: Cây quýt có túc duyên với cô gái chăng? Sao mà tao ngộ khéo như vậy? Kết trái tựa cảm ơn xưa, không hoa như đau ly biệt. Cây cỏ còn như vậy, huống là con người sao?

 


164. Người Đẹp Bằng Gỗ (Mộc Điêu Mỹ Nhân)

 

Nhà buôn Bạch Hữu Công kể lúc ở sông Lạc (huyện Lịch Thành tỉnh Sơn Đông) thấy một người mang cái giỏ tre, dắt hai con chó lớn, lấy trong giỏ ra một người đẹp bằng gỗ cao hơn một thước, tay chân có thể cử động được, xinh đẹp như người sống. Kế lấy chiếc nệm gấm nhỏ phủ lên lưng chó, đặt người đẹp bằng gỗ ngồi lên, rồi quát chó chạy mau. Người đẹp bằng gỗ tự cử động, dong ngựa diễn kịch, đứng lên bàn đạp rồi nằm rạp xuống, ưỡn lưng ngã người tựa lên đuôi ngựa, vái lạy đứng ngồi vô cùng linh hoạt. Lại diễn vở Chiêu Quân xuất tái[195], lấy ra thêm một người gỗ khác, đội mũ gắn lông trĩ, mặc áo bằng da dê cưỡi chó theo sau, Chiêu Quân cứ nấn ná quay nhìn thì người mặc áo da dê vung roi thúc đi mau, giống hệt như người sống vậy.

 ---
[195] Chiêu Quân xuất tái: Chiêu Quân ra ải. Chiêu Quân là cung nữ đời Hán Nguyên đế, bị triều đình gả cho chúa Thiền Vu để hòa thân, lúc ra cửa ải vào đất Thiền Vu nàng có gảy khúc đàn tỏ lòng nhớ nước



165. Kim Vĩnh Niên (Kim Vĩnh Niên)

 Kim Vĩnh Niên người huyện Lợi Tân (tỉnh Sơn Đông) tám mươi hai tuổi không có con, vợ thì bảy mươi tám tuổi, tự nghĩ đã hết hy vọng. Chợt nằm mộng thấy thần nói "Lẽ ra ngươi phải tuyệt tự nhưng nghĩ tới ngươi buôn bán lương thiện nên cho một đứa con trai". Kim tỉnh dậy kể với vợ, vợ nói “Thật là mơ mộng hão huyền, hai người đều đã sắp vào quan tài cả rồi, con ở đâu ra?". Không bao lâu người vợ thấy bụng máy động, mười tháng sau sinh được một con trai.




166. Hiếu Tử

 

166. Con Hiếu (Hiếu Tử)

Trước núi Đông Hương ở phủ Thanh Châu (tỉnh Sơn Đông) có Chu Thuận Đình thờ mẹ rất có hiếu. Mẹ bị cái nhọt lớn ở đùi, đau không chịu nổi, đêm ngày rên rỉ. Chu bưng cơm sắc thuốc hầu hạ quên ăn quên ngủ mà mấy tháng mẹ vẫn không khỏi. Chu lo lắng không biết làm sao, nằm mơ thấy cha về nói “Mẹ con bị bệnh may nhờ được con có hiếu, nhưng bệnh này không có mỡ người thoa vào thì không khỏi được, con vất vả tội nghiệp quá". Tỉnh dậy lấy làm lạ, liển trở dậy lấy dao cắt thịt ở sườn, thịt đứt ra nhưng không đau lắm, vội lấy vải bó quanh bụng, cũng không thấy chảy máu. Rồi rán thịt lấy mỡ thoa cho mẹ, lập tức hết đau ngay. Mẹ mừng rỡ hỏi thuốc gì mà hay thế, Chu tìm lời nói dối. Bệnh mẹ dần dần bớt, Chu vẫn giấu kín vết thương chỗ cắt thịt, vợ con cũng không biết. Đến khi lành hẳn, có cái sẹo to bằng bàn tay, vợ hỏi mới rõ sự tình.


Dị Sử thị nói: Cắt thịt mình là việc làm thương tổn sự sống, người quân tử không coi là hay, nhưng người dân ngu dại nào biết rằng làm thương tổn thân mình không phải là hiếu đâu? Đó cũng là làm theo tấm lòng không lo cho mình mà thôi, có người như thế mới hay hạng con hiếu thật sự là do trời sinh. Những người coi việc phong tục giáo hóa lắm việc quan trọng, bận rộn không thể biểu dương cho họ, thì phải cậy tới cõi u minh làm rõ điều tốt kín đáo của kẻ kiếm củi hái rau vậy.

 

167. Sư Tử (Sư Tử)

Nước Tiêm La cống sư tử, tới đâu cũng có người đón xem đông nghẹt. Nhìn hình dáng thì khác hẳn lời đồn hay tranh vẽ, lông đen ánh vàng dài khoảng vài tấc. Có người ném cho con gà nó giơ vuốt chụp lấy rồi thổi, thổi một hơi thì lông gà rụng sạch, về lý kể cũng lạ.

 

168. Cái Thẻ Tử Chàng (Tử Chàng Lệnh)

 

Tiến sĩ Thường Đại Trung là người Thái Nguyên (tỉnh thành Sơn Tây). Tới kinh đô chờ bổ nhiệm, đêm nằm mơ thấy Văn Xương đế quân tới gặp, rút thẻ bói thì được cái thẻ Tử Chàng[196], lấy làm lạ. Sau Thường có đại tang trở về, hết tang trở lên kinh chờ bổ nhiệm, lại nằm mơ giống lần trước, tự nghĩ hay là mình đước bổ làm Tri huyện Tử Chàng chăng? Sau quả nhiên đúng thế.

 ----
[196] Văn Xương... Tử Chàng: Văn Xương đế quân theo truyền thuyết là họ Trương, sống vào thời Đường, giỏi văn học, chết làm thần coi việc khoa cử công danh. Tử Chàng là tên huyện thuộc tỉnh Tứ Xuyên, là nơi ở của Văn Xương đế quân nên người ta còn gọi vị thần này là Tử Chàng đế quân. Cái thẻ Tử Chàng dịch chữ "Tử Chàng lệnh", chữ “lệnh" đây còn có nghĩa là quan Tri huyện.