Thứ Hai, 29 tháng 5, 2023

NÓI LẠI CHUYỆN PHIM XÍCH LÔ

 

Ảnh: Tài tử Lương Triều Vỹ và diễn viên Trần Nữ Yên Khê trong phim "Xích lô".

NÓI LẠI CHUYỆN PHIM XÍCH LÔ

Thái Kế Toại (Đại tá Nguyên Giám đốc ĐACAND)

xich lo. jpgNgoảnh đi ngoảnh lại từ khi phim Xích lô bị cấm chiếu ở Việt Nam đã 16 năm. Mười sáu năm gần như là khoảng cách một thế hệ, nhiều đồng nghiệp trẻ trong làng điện ảnh thì hầu như không biết đến chuyện này. Một số đồng nghiệp già thì không biết đầy đủ. Mấy người biết đầy đủ thì im lặng. Trong mấy năm vừa rồi tôi có nêu lại việc này với Cục Điện ảnh. Những người lãnh đạo cũ trong cuộc thì đã nghỉ hưu. Người mới thì dường như cảm thấy mình không có trách nhiệm trả lời về một vụ án oan trong làng điện ảnh đã thuộc về quá khứ. Tôi cũng đã nghỉ hưu, gần như giã từ các hoạt động điện ảnh để tập trung làm mấy tác phẩm văn học cuối đời nhưng tôi cứ băn khoăn về câu hỏi Tại sao có vụ cấm chiếu phim Xích lô? Tại sao lại có chuyện đối xử kì quái, bất công với đạo diễn Trần Anh Hùng như thế? Tại sao một bộ phim của người đạo diễn người Việt với các diễn viên Việt Nam về đề tài đương đại Việt Nam, quay tại thành phố Hồ Chí Minh, được giải Sư tử vàng tại Liên hoan phim Venise danh giá – lần đầu tiên người Việt được giải Sư tử vàng, một giấc mơ và có lẽ còn lâu nữa mới lại có một sụ kiện như thế mà giới lí luận phê bình điện ảnh im lặng không bàn đến một lời, trừ một vài bài ‘’đánh’’ không có động cơ nghề nghiệp?

Tôi là một người trong cuộc. Lúc đó tôi đang là Trưởng phòng An ninh Văn hóa quốc gia, A25 Bộ Công an.

Chuyện bắt đầu như thế này:

Vào đầu thập niên 90 người Việt có một tài năng điện ảnh kiệt xuất. Người đó là đạo diễn Trần Anh Hùng.

Trần Anh Hùng tên Pháp là Guy Phimasset sinh ngày 5- 6- 1966 tại Mỹ Tho, quốc tịch Pháp. Bố mẹ TAH quê ở Nam Đàn, Nghệ An, theo đạo Thiên chúa, di cư vào Nam từ 1954, sang Lào sinh sống từ 1973, rồi sang Pháp năm 1975, hiện làm nghề may quần áo ở Pháp. TAH có một người em trai tên là Dũng sinh năm 1968 tên Pháp là Henry Phimasset, tốt nghiệp ngành kinh tế thương mại. Từ phim Xích Lô anh Dũng làm trợ lý đạo diễn cho TAH.

Tại Pháp TAH học và đậu tú tài văn chương bậc A, học Đại học Triết một năm rồi bỏ để thi vào học Trường Điện ảnh Lumière bốn năm, quay phim ngắn Thiếu phụ Nam Xương trong trường. Học xong chương trình TAH không thi tốt nghiệp, ở nhà viết một loạt kịch bản chào bán cho các hãng phim như:

Thiếu phụ Nam Xương, Hòn Vọng Phu, Saint Julien L’ Hospitalien,

Phim trinh thám dựa theo một cuốn tiểu thuyết của Nhật, năm nay đã quay tại Nhật.

Phim về cuộc chiến của giặc Cờ Đen ở Việt Nam năm 1910.

Phim về đời sống người Việt ở Pháp.

Mùi đu đủ xanh. Phim đã được sản xuất.

Cyclo ( Xích lô). Phim đã được sản xuất.

Rượu đế củ kiệu. Đề tài Việt Nam dự định quay ở Hà Nội.

Những ngày không mưa. Đã quay ở Hà Nội.

Năm 1991 lần đầu tiên TAH về Việt Nam để chọn cảnh cho phim Mùi đu đủ xanh nhưng không thực hiện được việc quay phim ở Việt Nam vì lí do tài chính mà chỉ có thu thanh tiếng động Việt Nam trong tháng 10- 1992.

Tại Liên hoan phim Cannes 1993 Mùi đu đủ xanh đoạt Giải Caméra vàng. Ngày 15-7-1993 Trần Anh Hùng cùng Christophe Rosignon Giám đốc hãng LAZENNEC FILM vào Việt Nam mang phim Mùi đu đủ xanh chiếu báo cáo cho Hội đồng duyệt phim quốc gia và xin đi khảo sát thực tế cho kịch bản phim Xích lô.

Từ tháng 2 đến tháng 5 – 1994 TAH vào sửa chữa và trình duyệt kịch bản phim Xích lô. Trong thời gian này phim Mùi đu đủ xanh được gửi đi dự giải OSCAD, lọt vào chung kết cùng bốn phim khác. TAH cùng Trần Nữ Yên Khê nữ diễn viên vợ chưa cưới của TAH, Rosignnon và Giám đốc Hãng phim Giải phóng Trần Thanh Hùng đi Hollywood dự lễ trao giải OSCAR năm 1994.

Cần nói một chút về ảnh hưởng của phim Mùi đu đủ xanh. Tôi quan sát thấy bộ phim này mang đến một giọng điệu kể chuyện lạ khác với cách kể chuyện truyền thống trong phim của chúng ta và cách tác giả khai thác những chi tiết đời sống nông thôn Nam Bộ một cách chuyên nghiệp, hiện đại. Một vài nghệ sĩ đã mượn tôi kịch bản Mùi đu đủ xanh để tham khảo. Sau đó tôi thấy quả là ngôn ngữ Trần Anh Hùng có tác động tạo ra sự chuyển biến ở một số tác phẩm, trong đó có thể nói có cả nghệ sĩ cỡ hàng đầu trong nước. Trong bối cảnh lúc ấy, sự tác động đó là quý giá.

Ngày 6-4-1994 Thứ trưởng BVHTT Nguyễn Trung Kiên ký Quyết định số 501 HTQT/ QĐ đồng ý cho phép Hãng phim Giải phóng cung cấp dịch vụ cho hãng Lazenec Film thực hiện bộ phim truyện Xích lô của đạo diễn Trần Anh Hùng tại Việt Nam.

Xin nói thêm để có kịch bản trình duyệt lãnh đạo Bộ VHTT các chuyên viên, lãnh đạo Cục Điện ảnh, Vụ HTQT Bộ VHTT và A25 trong đó có tôi đã phải đọc và giúp tác giả sửa chữa nhiều lần. Đến khi nội dung kịch bản đạt yêu cầu, có chính kiến của A25 ủng hộ, Cục Điện ảnh ra văn bản Giám định nội dung kịch bản trình lãnh đạo Bộ VHTT ký quyết định cho phép sản xuất phim. Tôi phải đọc kịch bản Xích lô nhiều lần. Với bản thảo lần cuối cùng tôi chấp nhận được về nội dung và tin rằng với ý đồ của TAH, cách trình bày câu chuyện đầy ấn tượng của anh sẽ có một bộ phim độc đáo.

Vì phim được thực hiện chủ yếu tại thành phố Hồ Chí Minh, lại do Hãng phim Giải phóng cung cấp dịch vụ nên A25 giao cho A25B tức bộ phận thường trực của A25 ở phía Nam do anh Trương Hòa Bình phụ trách, trong đó có bộ phận của đơn vị tôi anh Hoàng Phước Thuận và anh Bùi Dương Minh phụ trách công tác bảo vệ.

Phim Xích lô quay trong 77 ngày từ 4-11-1994 đến 11-2-1995. Trong thời gian đó giám sát viên A25b liên tục làm việc cùng đoàn phim. Tôi được nghe báo cáo có những cảnh trên hiện trường thấy có thể gây tác động không tốt, cán bộ A25b còn yêu cầu thay đổi chi tiết. Ví dụ trường đoạn đứa bé con mụ trùm băng cướp bôi sơn đỏ vào người chạy ra đường bị xe chẹt chết, giám sát viên không yên tâm vì mầu đỏ có thể gây phản cảm đã đề nghị TAH thay bằng sơn màu xanh lơ. TAH đã đồng ý thay đổi nhiều phân đoạn theo ý các cán bộ giám sát.

Từ 21-4 đến 6-5- 1995 thu tiếng động thật cho phim tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh vẫn có cán bộ giám sát của A25b.

Từ 29-8 đến 9-9-1995 Trần Anh Hùng cùng các Đoàn nghệ sĩ của Xích lô đi dự Liên hoan phim VENISE lần thứ 52 tại Italya. Trong đoàn có diễn viên Lê Văn Lộc vai Xích lô, Đinh Hoài Ngọc trợ lý đạo diến kiêm phiên dịch của đoàn phim, hai vợ chồng nghệ sĩ Nguyễn Văn Đây Chủ nhiệm kiêm diễn viên Thầy ru con.

Đêm 9-9-1995 phim Xích lô được đăng quang nhận Giải thưởng lớn Sư tử vàng. Tôi và nhiều đồng nghiệp, nghệ sĩ điện ảnh cũng xúc động vì cái tin này. Lần đầu tiên một đạo diễn người Việt Nam còn rất trẻ, một phim về Việt Nam hiện tại, làm tại Việt Nam với các diễn viên Việt Nam được một giải thưởng vào loại danh giá nhất của điện ảnh thế giới. Đấy là một dịp để quảng bá cho đất nước Việt Nam, cho con người Việt Nam và cho cả tương lai của điện ảnh Việt Nam nữa nếu nó quy tụ được những người con tài năng đang sống ngoài đất nước.

Nhưng thật đáng tiếc, ngay sau đó tôi được nghe đã có những phản ứng bất lợi cho Xích lô. Sớm nhất là ý kiến của ông Lý Chánh Trung từ bên Pháp về làm xao động tại thành phố Hồ Chí Minh… trong lúc dư luận ồn ã như vậy thì bản phim nhựa chưa về đến Việt Nam. Hầu hết người Việt Nam chưa biết mặt mũi bộ phim được Giải Sư tử vàng là thế nào.

Tôi nhớ một buổi chiều nóng nực cuối tháng 9-1995 tại phòng họp của Cục Điện ảnh, phòng họp thôi, ngày ấy chưa có phòng chiếu hiện đại như bây giờ, Xích lô được trình chiều bằng băng video. Thành phần xem phim gồm có Hội đồng duyệt phim quốc gia và một số cán bộ của Ban Tuyên huấn, Bộ VHTT, Hội ĐAVN. Công an có anh Khổng Minh Dụ, tôi và anh Nguyễn Trọng Đạo. Tôi thấy nội dung phim vẫn như kịch bản nhưng cách dựng phim và sử dụng âm thanh, màu sắc của Trần Anh Hùng đã tạo ra một ấn tượng dữ dội. Bây giờ thì cái kiểu âm thanh đó đã trở nên bình thường vì người ta đã quen với âm thanh Xơ rao [surround -VV] các phim bom tấn của Mỹ của châu Âu nhưng lúc đó tôi thấy mấy gương mặt thật tội nghiệp. Có người còn la hét đòi giảm âm lượng. Âm thanh của phim gây sốc cho những người thần kinh yếu. Trong không khí oi bức, nhộn nhạo với cách tổ chức chiếu phim cẩu thả, Xích lô đã tạo ra một ấn tượng để tự giết nó. Cuối cùng có một cuộc hội ý nhưng lộn xộn và ý kiến không thống nhất, đợi bàn lại với một buổi chiếu bản phim nhựa.

Sau buổi chiếu có các bài báo Suy ngẫm sau khi xem phim Xích lô – Giải thưởng Sư tử vàng của Nguyễn Tường trên báo Tuần tin tức số 40 (2-8 / 10/ 1995), Phim Cyclo: Việt Nam là phương tiện hay là đối tượng phản ánh trên báo Văn Hóa ngày 15-10-1995.

Hình như có một thế lực vô hình nào đó tạo ra sụ trấn áp Xich lô. Trong cơ chế bộ máy của chúng ta những người lãnh đạo nhiều khi rất sợ những người cực đoan tả khuynh hay nhân danh chế độ XHCN như thế. Chẳng lẽ vài người như thế lại tài giỏi, sáng suốt hơn một guồng máy làm việc của chúng tôi ư? Một guồng máy chuyên môn trực tiếp với nghề nghiệp phải nghĩ kỹ hơn họ chứ.

Bộ trưởng Bộ VHTT đã yêu cầu Hãng phim Giải phóng kiểm điểm về việc hợp tác với Hãng Lazennec làm phim Xích lô. Sau đó có quyết định cấm chiếu phim Xích lô ở Việt Nam. Còn tôi và A25 không được hỏi ý kiến về việc này. Tôi dự định khi có một buổi họp đàng hoàng hơn với bản phim nhựa sẽ phát biểu chính kiến của mình. Tất nhiên là tôi bảo vệ đạo diễn Trần Anh Hùng và người bạn của tôi Trần Thanh Hùng Giám đốc Hãng phim Giải phóng một người đầy nhiệt huyết và mạnh dạn tìm cầu nối điện ảnh nước nhà với thế giới.

Vậy mà tôi cứ chờ… Cuối cùng cho đến nay không hề có một buổi họp như thế. Tôi không rõ những cá nhân nào đã làm các văn bản tham mưu cho lãnh đạo Bộ VHTT ra một quyết định vội vã như vậy. Với một quyết định của ông Bộ trưởng Bộ VHTT người ta đã coi Trần Anh Hùng như một nghệ sĩ chống chế độ, ra tiếp một cái lệnh cấm anh về nước trong nhiều năm.

Quay lại nội dung phim Xich lô. Bộ phim đã gây ra sự phân hóa cao độ trong số người đã được xem phim. Tôi hỏi ý kiến một số nghệ sĩ, người khen thì khen hết lời, người chê thì cũng chê thậm tệ. Nhưng tựu trung người ta đều cho rằng nó trình bày thực trạng xã hội một cách táo bạo mới mẻ quá. Ấn tượng của nó mãnh liệt quá. Các bài báo lên án phim Xích lô nói gì? Người ta cho là bộ phim đầy những hình ảnh bạo lực, nhiều cảnh sex và hiện thực trong phim không đúng với thực tế Việt Nam.

Sau này các đĩa phim Xích lô được bán chui ở trong nước nhưng bản quay trộm chất lượng xấu. Anh Ba Đây có cho tôi mượn một cái băng video din, tôi lại cho bạn tôi Lê Cẩm Lượng ở Trường Đại học Sân khấu Điện ảnh sao lại cho sinh viên xem.

Tôi cứ tự hỏi tại sao Liên hoan phim Venise năm 1995 người ta trao giải Sư tử vàng cho phim Xích lô? Lẽ ra các nhà phê bình phim Việt Nam phải giải đáp câu hỏi đó. Có lẽ vì sợ hãi Bộ VHTT mà họ im lặng. Không một ai bênh vực cho bộ phim tội nghiệp đó.

Chả lẽ LHP Venise chỉ nhằm chống Việt Nam? Chả lẽ vì chống Việt Nam Ban Giám khảo lại hạ mình để trao giải cho một bộ phim mà người Việt Nam cho là thấp kém? Lý trí của một người tỉnh táo có thiện chí giải đáp câu này không khó lắm.

Ở phim Xích lô, Trần Anh Hùng trình bày một phong cách khác hẳn Mùi đu đủ xanh. Tôi cho rằng với những đạo diễn có biên độ phong cách giữa các tác phẩm xa nhau như vậy là một tài năng. Nhịp điệu của Xích lô co dãn thất thường, chất liệu và cốt truyện Á Đông được trình bày với các thủ pháp ấn tượng hậu hiện đại. Các hình tượng mang tính ẩn dụ cao, mang cả tinh thần triết học, nó cho người ta thấy cuộc sống các xã hội Á Đông kiểu như Việt Nam đang vươn tới thị trường và thế giới hiện đại như thế nào cùng cái giá mà nó phải trả, cái giá rất đắt, thậm chí kinh hoàng. Tuy vậy TAH đã đưa ra được lời giải cho câu hỏi đó. Gìn giữ gia đình là chỗ cứu rỗi cho con người. Thực trạng xã hội đen hôm nay sau 15 năm cho thấy đã vượt qúa xa những cảnh báo của anh.

Sau này hệ lụy của vụ Xích lô còn theo tôi và Trần Anh Hùng khi tôi chuyển sang làm Giám đốc Điện ảnh CAND. Giữa năm 1998 tôi hợp tác với Hãng Laennec Film. Tôi đã tạo điều kiện cho TAH về nước đi thăm Hà Nội và một số nơi để viết một kịch bản phim mới. Chúng tôi nói chuyện nhiều về những biến đổi của Hà Nội. Đầu tiên Hùng muốn ba người đàn bà Hùng yêu quý cùng đóng trong một bộ phim. Như Quỳnh, Lê Khanh, Trần Nữ Yên Khê. Sau Hùng định hình ý tưởng, cho ba người này vào dòng xoáy của một gia đình gốc Hà Nội lâu đời đang rạn vỡ vì các tác động của đời sống hiện đại. Hùng vẫn băn khoăn về việc bảo vệ các giá trị của gia đình Á Đông. Đó là kịch bản phim Những ngày không mưa.

Kịch bản Những ngày không mưa cũng phải sửa chữa nhiều lần, cuối cùng cũng được ĐACAND chấp nhận và chuẩn bị trình Cục Điện ảnh thì rắc rối lại rơi xuống.

Báo Quân đội nhân dân ngày 23-8-1998 đăng bài  Nội và Sài Gòn thời mở cửa qua cách nhìn phiến diện của đạo diễn Trần Anh Hùng. Bút pháp của tác giả khá chuyên nghiệp, có thể là một nhà phê bình chuyên nghiệp ở Cục Điện ảnh nhưng ký tên Hạnh Lê.

Tiếp theo báo Văn Nghệ số 36 ngày 5-9-1998 đăng bài Cần một chữ Tâm khi làm phim về Việt Nam. Tác giả là Phạm Viết Đào, một người đã có nhiều chỉ trích gay gắt ngành điện ảnh.

Điều có vẻ vô lý và không đàng hoàng cho lắm là sự phê phán nhằm vào một kịch bản còn ở thời kỳ bí mật, chưa trình duyệt, chưa công bố chỉ có những người có trách nhiệm mới được cầm nó, lý lẽ phê phán với những tiêu chí không phải là tiêu chí nghệ thuật, phiến diện, thô thiển, nặng về quy chụp chính trị. Để thêm nặng đòn người ta còn lật lại cả phim Xích lô, tức là Trần Anh Hùng chống Việt Nam có cả quá trình, có cả hệ thống quan điểm

Thời gian này tại Bộ VHTT đang có mâu thuẫn của một vài người với Cục Điện ảnh, với anh Nguyễn Khoa Điềm về vấn đề hợp tác làm phim với nước ngoài. Theo tôi mâu thuẫn này không phải là bản chất vấn đề hợp tác làm phim với nước ngoài mà xuất phát từ một góc độ khác nhưng hợp tác làm phim với nước ngoài là một cái cớ tốt nhất có thể lợi dụng vì nó rất dễ bị khai thác về chính trị. Anh em nghệ sĩ chúng ta nhiều khi bị những cú đòn oan trong một xã hội lỏng lẻo về pháp luật như thế.

Trần Anh Hùng đưa cho tôi bản thảo bài viết của anh để trả lời hai bài báo ở trên.

Về phim Xích lô TAH viết:

Để nói rõ sự thật về tôi, trước hết tôi xin nói đến vấn đề bạo lực trong phim Cyclo. Người ta thấy bạo lực trong phim này rất ghê tởm. Tôi cho đó là điều tốt. Bạo lực phải đưa ra một cảm giác ghê tởm. Đây không phải là một loại bạo lực giải trí. Và phim này đoạt giải Sư Tử Vàng tại Venise không phải “về thành công trong thể loại phim bạo lực” như có người Việt Nam mới viết trên báo. Trong liên hoan Phim Venise không có phân biệt thể loại.

“Chúng tôi trao giải Sư Tử Vàng cho phim Cyclo về phong cách thể hiện bạo lực”. Đây là lời nói của ông Jorge Semprun thì cái từ “bạo lực” trong miệng ông có một giá trị đặc biệt.

Jorge Semprun là một nhà văn, cũng là Bộ trưởng Bộ Văn hóa của Tây Ban Nha trước kia. Và cái điều quan trọng nhất có liên quan đến bạo lực là ông ta đã bị giam trong trại tập trung của Đức trong Thế Chiến Thứ Hai, ông đã thấy cái bạo lực và cái chết của mình rất rõ ràng. Vậy thì ông ta thừa biết bạo lực là như thế nào và thế nào là cái nhìn đạo đức về bạo lực và thế nào là kích động bạo lực.

Khi tôi làm phim Cyclo tôi không hề nghĩ đến chuyện bôi nhọ đất nước của tôi. Tôi là một nghệ sĩ Việt Nam định cư ở nước ngoài. Và Tổ quốc Việt Nam rất thiêng liêng đối với tôi. Nếu ai không hiểu về tôi mà kết luận vội vàng về tôi thì đó là một ác cảm ghê tởm tôi không thể tưởng tượng nổi… Cái mục đích của tôi khi làm phim này là để đưa vào nền Điện ảnh thế giới một tác phẩm nghệ thuật do một người Việt Nam làm.

Và tôi chọn một con đường đi cực kỳ khó khăn là vì phim Cyclo không phải là một loại phim dễ thương. Sự giằng xé giữa cái thiện và cái ác là một đề tài rất nặng nề, rất khó xử. Đã nói đến cái thiện và cái ác thì đừng nói đến sự cân bằng giữa hai khái niệm này. Cái ác thường phô trương một cách ly kỳ. Còn cái thiện thì không. Cái thiện không phải là loại sức mạnh biểu hiện ở bên ngoài. Phim Cyclo gắn bó rất chặt chẽ với cái ý này. Để tránh sự giả tạo và để gần sự thật, phim Cyclo dành cho cái thiện một chỗ đứng đặc biệt, đó là giữa hai hình ảnh, giữa hai cảnh, ở khoảng trống giữa hai hàng chữ. Phong cách mô tả cái thiện qua âm bản tạo cho tâm hồn thèm muốn cái thiện và đi tìm nó. Ai cũng biết trong xã hội nào cũng có mảng sáng và mảng tối. Đó cũng có nghĩa là thiện và ác. Tôi muốn thể hiện cái ác ghê gớm bao nhiêu thì sụ tồn tại và giá trị của cái thiện càng lớn bấy nhiêu.

… Tôi xin kể một giai thoại rất riêng tư đã đến với tôi trong liên hoan Phim Venise làm cho tôi hiểu rõ vì sao tôi phải đấu tranh quyết liệt để thuyết phục những nhà sản xuất phải để cho tôi làm phim nói tiếng Việt. Việc này là rất phức tạp vì không có một lý do gì khiến cho một người Pháp bỏ tiền ra để làm một cuốn phim không nói gì về dân tộc của họ. Không có lý do gì ngoài tình yêu tha thiết của tôi đối với Việt Nam mà thuyết phục được họ.

…Sau khi xem phim Cyclo chiếu lần đầu tiên ở Venise, tôi hỏi bố tôi xem phim thấy thế nào, có được không?

Ba phải xem lại vì đoạn đầu của phim, nước mắt nó cứ ứa ra làm ba chẳng thấy gì cả.

Sao vậy?

Thì… trên màn ảnh khổng lồ, ba thấy những khuôn mặt Việt Nam, mà trong đó chứa đầy sự trưởng thành của con. Họ nói tiếng Việt tại liên hoan phim lớn này làm ba xúc động.

Đây là lời nói của một người cha khoan dung.

Nhưng tôi rất tin ở lời nói này bởi vì tôi chợt nhớ cảm xúc tự hào của tôi khi tôi nghe âm thanh của những câu nói bằng tiếng Việt vang lên trong Liên hoan Phim Cannes với cuốn phim đầu tay của tôi.”

Do những rắc rối ở nội bộ đơn vị tôi, một nhóm người vì cá nhân chống lại việc làm phim Những ngày không mưaNhững ngày không mưa phải chuyển sang Hãng phim truyện Việt Nam do nhà thơ Nguyễn Thị Hồng Ngát mới lên Giám đốc. Và cuối cùng do tài ngoại giao khéo léo của Hồng Ngát, phim đã làm xong và được công chiếu ở Việt Nam. Những người cản bước Trần Anh Hùng đã không thực hiện được ý đồ đen tối của họ. Niềm vui của Hãng phim truyện Việt Nam cũng là niềm vui của tôi, bởi trước đây khi còn ở A25 tôi đã coi đây là chỗ thân thiết của mình, nơi tôi vào ngành điện ảnh với bộ phim đầu tay cùng đạo diễn Vương Đức, phim Cỏ Lau.

Đúng là phim Xích lô là một chuyện buồn của ngành điện ảnh Việt Nam. Một bài học điển hình về cách đối xử với tài năng nghệ thuật và các tác phẩm đỉnh cao của bộ máy quản lý nghệ thuật một nước tiểu nông. Nhưng vụ phim Xích lô không chỉ liên quan đến vài ba cá nhân trong cuộc. Nó ảnh hưởng đến những vấn đề lớn hơn đối với nền điện ảnh của chúng ta. Tác hại lâu dài của nó vẫn còn đang ám ảnh đời sống điện ảnh với những cách hành xử vô lối tùy tiện. Và cũng không ít chuyện buồn đã diễn ra như thế trong mấy chục năm qua. Nhiều số phận nghệ sĩ phải trả giá, nhiều tác phẩm bị chìm nổi. Những con người ấy, những tác phẩm ấy đang đợi chúng ta nói lại về họ… Đó cũng là điều tâm huyết của tôi muốn nói với các đồng nghiệp điện ảnh của mình.

Tháng 8- 2010

T.K.T.

XÍCH LÔ (1995) BỘ PHIM “KỲ LẠ” NHẤT

 


ĐÃ HƠN 20 NĂM VÀ XÍCH LÔ (1995) VẪN LÀ BỘ PHIM VIỆT NAM “KỲ LẠ” NHẤT 



Lưu ý: bài viết có tiết lộ trước một số nội dung quan trọng.

Phim này nếu làm hỏng là người ta không cho tôi tiền làm phim nữa đâu, anh Lộc ạ!

Đạo diễn Trần Anh Hùng đã chia sẻ thật lòng với Lê Văn Lộc – nam diễn viên chính của Xích Lô như thế trước khi bấm máy. Và xui rủi làm sao, Xích Lô “hỏng” thật, “hỏng” đến mức cái lệnh cấm trình chiếu rộng rãi tại Việt Nam qua 2 thập kỷ rồi vẫn nằm nguyên đấy, chưa được gỡ bỏ. “Hỏng” đến mức sau này, khi Hùng “chuộc tội” bằng Mùa Hè Chiều Thẳng Đứng, vẫn chỉ như muối bỏ biển, chẳng được mấy ai quan tâm.


…….

Cái câu chuyện ầm ĩ, đấu đá nội bộ ngành điện ảnh Việt Nam (lấn sang cả vấn đề chính trị) vì phim Xích Lô, vẫn còn sót lại đâu đó trong tâm trí những người liên can, đâu đó trong những bài viết trên internet.

Ngày ấy, Xích Lô đạt danh hiệu Phim Hay Nhất LHP Venice 1995 và đem lại cho Trần Anh Hùng giải Grand Prix tại Ghent International Film Festival. Với cái nền tảng như thế, nó dư khả năng để trở thành một tác phẩm gây chấn động mạnh mẽ toàn cầu trong thập niên 90s của thế kỷ trước, và quan trọng hơn: thay đổi cả bộ mặt của điện ảnh Việt Nam. Nhưng rốt cuộc, Xích Lô lại bị chôn vùi bởi những thế lực, những suy nghĩ của những cá nhân không tiện nêu tên.


Thôi bỏ qua yếu tố cấm đoán đi. Giả như ngày ấy Xích Lô vượt qua vòng kiểm duyệt, tôi cũng chẳng tin được rằng khán giả sẽ đón nhận nó. Thập niên 90s, phim “mì ăn liền” thống trị phòng vé Việt Nam (đến tận bây giờ).

Khi tôi làm phim Cyclo tôi không hề nghĩ đến chuyện bôi nhọ đất nước của tôi. Tôi là một nghệ sĩ Việt Nam định cư ở nước ngoài. Và tổ quốc Việt Nam rất thiêng liêng đối với tôi. Nếu ai không hiểu về tôi mà kết luận vội vàng về tôi thì đó là một ác cảm ghê tởm tôi không thể tưởng tượng nổi … Cái mục đích của tôi khi làm phim này là để đưa vào nền điện ảnh thế giới một tác phẩm nghệ thuật do một người Việt Nam làm.

…….

Những bản phim Xích Lô kém chất lượng bắt đầu rò rỉ trên mạng từ độ vài năm trước, và tôi may mắn (cộng thêm chút kiên trì) cuối cùng cũng được thưởng thức nó một cách trọn vẹn, không cắt xén nhập nhòe, ở mức độ hình ảnh – âm thanh khá tốt.

Vẫn nhớ đó là dịp nghỉ lễ đầu năm, tôi chỉ có một mình (như đa số thời gian khác). Xem xong, tôi mệt đến mức chỉ muốn ngủ vùi, nhưng không tài nào nhắm mắt được. Lần đầu tiên, một bộ phim Việt Nam làm tôi sốc đến thế.

Xích Lô vẽ nên bức tranh hiện thực, tàn khốc về những con người ở dưới đáy xã hội nơi Sài Gòn phồn hoa. Và tất cả các nhân vật, chẳng một ai có nổi cái tên riêng.

vô danh người

vô danh sông

hoa thì vô sắc

hương không thành lời

Nguyễn Trung Bình

Đó là cậu trai đạp xích lô mưu sinh qua ngày. Đó là cô gái trẻ ngây thơ bị biến thành thứ đồ mua vui cho những kẻ bệnh hoạn. Đó là gã đại ca giang hồ thích làm thơ. Đó là bà trùm xã hội đen mưu mô xảo quyệt, nhưng đồng thời cũng vô cùng mềm yếu.

Không chỉ có 4 diễn viên chính gồm: Trần Nữ Yên Khê – Lương Triều Vỹ – Như Quỳnh – Lê Văn Lộc đã làm tròn vai; ta dễ dàng nhận ra những gương mặt quen thuộc khi kể đến tuyến nhân vật phụ: Trịnh Thịnh, Mạc Can, Lê Công Tuấn Anh, Thanh Lam, Quang Hải … và còn rất, rất nhiều cái tên khác. Khán giả bị bất ngờ đến sửng sốt. Tại sao từ trước đến nay, chúng ta lướt qua họ không ít lần trên màn ảnh, nhưng chỉ đến Xích Lô thì những con người ấy mới trở nên ấn tượng như vậy?


…….

Để nói rõ sự thật về tôi, trước hết tôi xin nói đến vấn đề bạo lực trong phim Cyclo. Người ta thấy bạo lực trong phim này rất ghê tởm. Tôi cho đó là điều tốt. Bạo lực phải đưa ra một cảm giác ghê tởm.

Thứ bạo lực mà Xích Lô mang tới không đơn giản là những màn đấu đá, thanh toán giữa băng đảng giang hồ. Mục đích của nó là khiến người xem rùng mình bởi vì sự chân thật quá quắt: vụ tai nạn giao thông bất ngờ, giết heo trong lò mổ, cú đánh lén trả thù, màn “âu yếm” mèo vờn chuột của kẻ sát nhân trước khi xuống tay, người cha quật roi túi bụi vào con trai mình … tất cả những phân đoạn ấy đều bắt đầu và kết thúc chẳng báo trước. Chúng được đặt trong những khung cảnh đời thường và tầm thường. Nói cách khác, bạo lực trong Xích Lô được miêu tả như một yếu tố gắn liền với cuộc sống của các nhân vật. Họ dửng dưng trước nó. Thậm chí, bạo lực qua miêu tả của Trần Anh Hùng còn toát lên nét nghệ thuật kỳ quái.

Và tôi chọn một con đường đi cực kỳ khó khăn là vì phim Cyclo không phải là một loại phim dễ thương. Sự giằng xé giữa cái thiện và cái ác là một đề tài rất nặng nề, rất khó xử. Đã nói đến cái thiện và cái ác thì đừng nói đến sự cân bằng giữa hai khái niệm này. Cái ác thường phô trương một cách ly kỳ. Còn cái thiện thì không. Cái thiện không phải là loại sức mạnh biểu hiện ở bên ngoài.

Nói đến chuyện phô trương và không phô trương của phim Xích Lô, chẳng thể thể bỏ qua hai khía cạnh hình ảnh và âm thanh. Theo ý nghĩ cảm quan của tôi, Xích Lô là một bộ phim khá phô trương về mặt hình ảnh. Qua ống kính của Benoît Delhomme, nhà quay phim người Pháp nổi tiếng, những khung cảnh Sài Gòn thập niên 90s quả thật khiến người ta ngợp thở: từ sự huyên náo, hỗn loạn của lễ chùa đầu năm, đường phố đông đúc, cho đến nét thô kệch trong sinh hoạt đời thường, chốn đồng quê tĩnh lặng … Mỗi cảnh quay lại ẩn chứa nhiều tầng ý nghĩa, nhiều hình ảnh tượng trưng. Ở hướng ngược lại, phần nhạc phim do Tôn Thất Tiết phụ trách luôn giữ nhịp chậm rãi trong hầu hết thời lượng, chỉ bùng lên trong vài khoảnh khắc rồi biến mất. Nhạc phim Xích Lô tuy ấn tượng nhưng nó không bao giờ lấn lướt âm thanh thực của cuộc sống: tạp nham – bất ổn – bí bách. Tiếng ru con, tiếng trò chuyện, tiếng xe cộ trên đường phố, tiếng lửa cháy … chúng chẳng hề phô trương nhưng vẫn hiện diện, làm nền tảng vững chắc cho mạch phim tiếp nối.

Cách sử dụng yếu tố bạo lực và điều tiết hình ảnh, âm thanh như Xích Lô, có lẽ chưa bao giờ được sử dụng ở điện ảnh Việt Nam. Vậy trên thế giới, bao nhiêu bộ phim từng làm được tương tự như thế? Tôi cho rằng không nhiều, có thể lấy vài ví dụ như Taxi Driver (1976) của Martin Scorsese hay Inglourious Basterds (2009) của Quentin Tarantino; nhưng chắc chắn, phong cách làm phim của Trần Anh Hùng là độc nhất.


…….

Như tôi đã nói ở đầu bài viết: Xích Lô bị “hỏng”. Không phải “hỏng” bình thường, mà là “hỏng” đến mức không thể sửa chữa.

Một tượng đài chiến tranh giữa thành phố bỗng sụp đổ.

Vẻ quan liêu, xa cách của chính quyền được miêu tả hời hợt.

Những kẻ đam mê sex ở mức quái đản: tôn thờ bàn chân, cuồng si nước tiểu, hành hạ – cưỡng hiếp …

Sự lộng hành của các băng nhóm tội phạm.

Cơn mê ảo giác khi dùng ma túy.

Cuộc sống nghèo khổ, bế tắc dẫn người ta vào con đường tội ác.

Chẳng có gì bị giấu diếm hay tô vẽ.

Nhưng khi nhìn lại thì đây vẫn là một trải nghiệm điện ảnh hơi “tham lam” của Trần Anh Hùng (chưa kể đến việc bộ phim này dễ bị PETA sờ gáy vì những hình ảnh có vẻ “tra tấn” động vật). Thành thật mà nói, tôi nghĩ rằng có vài phân đoạn trong Xích Lô: hoặc bị cường điệu hóa, hoặc bị thi vị hóa quá mức.

Ở tuyến nhân vật của Trần Nữ Yên Khê và Lương Triều Vỹ, câu chuyện dường như được nhấn chìm trong cảm xúc lãng mạn. Cô gái trinh trắng si mê tên đại ca giang hồ. Cô chấp nhận để hắn lôi mình vào con đường nhơ nhuốc, chấp nhận bản thân cũng chỉ là một trong những người phụ nữ mà hắn đùa vui. Còn hắn thì sao? Vài khoảnh khắc người xem cảm tưởng như hắn cũng quan tâm, yêu thương cô gái ấy. Hắn có thể giết người vì cô cơ mà. Nhưng rồi ta giật mình khi nghe những vần thơ hắn ngâm nga trước khi tự sát, chúng chỉ mang đậm mùi vị của nỗi cô đơn và hối hận. Khi cầu nguyện cho linh hồn người yêu siêu thoát, có bao giờ cô tự hỏi rằng mình ở vị trí nào trong trái tim hắn ta?

Trong khi đó, Như Quỳnh cùng Lê Văn Lộc lại mang tới một góc nhìn khác về thiện & ác. Bà trùm không chỉ có những mưu mô hiểm độc. Bà còn là một người mẹ, và như đa số những người phụ nữ khác, bà cần một người tình. Bà ôn tồn dịu dàng, bà giận dữ nóng nảy. Bà lên kế hoạch để khiến cậu trai đạp xích lô phải trở thành tay sai để thực hiện những trò ném đá dấu tay. Và cũng chính bà là người giải thoát cho cậu.


Lê Văn Lộc cũng là một điểm kỳ lạ trong bộ phim này, Xích Lô là tác phẩm điện ảnh đầu tiên và cuối cùng mà anh tham gia. Tuy nhiên theo những lời Lộc chia sẻ, anh chẳng cần phải diễn chút nào. Tôi cũng có thể khẳng định là anh không đã không diễn. Anh không diễn khi cầm chai bom xăng cháy rừng rực trên tay. Anh không diễn khi lao xuống sình lầy rồi nhúng mặt vào bể nước để con cá vàng gột rửa lũ dòi bọ nhung nhúc. Anh không diễn khi nhìn khao khát những cử chỉ yêu thương của bà trùm với người con trai tật nguyền. Anh không diễn khi oằn mình đạp xe. Lộc luôn ngơ ngác trước mọi thứ vì rõ ràng anh chẳng hiểu được chuyện gì đang diễn ra xung quanh, nhưng đó chính là thứ mà Trần Anh Hùng đang tìm kiếm.

…….

Cách Trần Anh Hùng chọn để kết thúc Xích Lô cũng chẳng phải bình thường. Mọi thứ tự dưng quay về đúng quỹ đạo của nó và cứ thế tiếp diễn. Nhân vật cậu trai lái xích lô dường như cũng chẳng có gì thay đổi trong tâm hồn cũng như vẻ bên ngoài. Mở đầu phim, cậu nhớ đến cha mình, tự nhủ những lời về cái nghề “gia truyền” cực khổ. Ở kết phim, cậu lại mường tượng về ông, về hình ảnh cái đầu gối người đạp xích lô quanh năm suốt tháng, và về con mèo đi lạc.


Hôm qua con mèo nó về, cả nhà tưởng nó chết đã lâu rồi. Trong nhà ai cũng thấy nó đẹp hơn hồi trước khi đi lạc, đến nỗi ai cũng ngỡ không phải là nó.

Kết thúc ấy tựa một lời khẳng định về khái niệm của Trần Anh Hùng khi bàn đến vẻ đẹp của sự lương thiện. Không giống như cái ác trải dài suốt mạch phim và khiến người xem phải rùng mình ớn lạnh, cái thiện dường như dễ dàng bị bỏ qua, dù nó đã và đang hiển hiện rõ ràng trước mắt chúng ta.

Tôi vẫn luôn tự hỏi rằng, biết bao giờ Việt Nam mới lại có một tác phẩm điện ảnh “kỳ lạ” như thế?

Nguồn: Blacksnow308

Thanh Lam hát trong phim Xích Lô: https://www.youtube.com/watch?v=p4459UDRZvE




Thứ Bảy, 27 tháng 5, 2023

BỨC TRANH “SUSANNA AND THE ELDERRS”


Họa phẩm: 
Susanna and the Elders năm 1610, của Artemisia Gentileschi


BỨC TRANH
“SUSANNA AND THE ELDERRS”

Khó họa sĩ nào vẽ bức Susanna And The Elders (Susanna và các trưởng lão) truyền cảm như nữ họa sĩ Artemisia Gentileschi. Bà vẽ bức họa này năm 1610, lúc chỉ 17 tuổi, ở tuổi này cô đã bị người thầy dạy vẽ mình làm ô nhục. Bức tranh là những phát tiết đau đớn chất chứa trong lòng về thảm kịch của cuộc đời bà.

Bà ghi lại câu chuyện trong kinh thánh hết sức sống động và đem lại cho người coi một cảm xúc rất xác thực với câu chuyện.

Chuyện lấy bối cảnh ở thành Babylon trong thời kỳ người Do Thái bị lưu đày, kể về cô Susanna đang đi tắm trong nhà tắm ngoài vườn của mình. Hai người đàn ông trong làng rình cô tắm và âm mưu hãm hiếp cô. Họ đe dọa sẽ tố giác rằng cô đã ngoại tình với một chàng trai trẻ, trừ phi cô chịu ngủ với họ. Là người đã kết hôn, lời tố giác sẽ gây nên mối nhục nhã cho cô và gia tộc, và có thể cô phải bị án tử hình.

Susanna phản kháng, kết quả là cô bị kết tội. Trong khi sắp bị xử tử thì Daniel - một thanh niên quý tộc Do Thái - thẩm vấn hai người đàn ông. Vì lời khai quá mâu thuẫn nên Susanna được tuyên bố vô tội.

Hãy nhìn vô bức tranh, chính ta sẽ thấy có hai người đàn ông chồm vô bên trong cửa sổ của một phòng tắm để rình trộm người phụ nữ đang khỏa thân. Họ thì thầm như đang toan tính điều gì. Cả hai chiếm gần nửa phần trên của tấm tranh. Họ quàng vai nhau liên kết thành hình một trái núi đè xuống người phụ nữ khỏa thân bên dưới.

Cô gái ở tư thế gánh chịu và chống đỡ lại hành vi của hai người đàn ông.

Susanna trong tiếng Do Thái có nghĩa là Hoa Huệ, biểu tượng của sự tinh khiết. Câu chuyện và những hàm ý ngụ ngôn đã khiến Susanna trở thành đề tài phổ biến trong hội họa.

Sự ngây thơ trong trắng sẽ chiến thắng cái ác.

Sam Cam


Thứ Năm, 25 tháng 5, 2023

Hình Như Là Tình Yêu.

Hình Như Là Tình Yêu. 

Hoàng Ngọc Tuấn


Buổi chiều thật lặng lẽ. Ðường phố nhảy múa với màu áo và hình người qua lại. Khi ngọn đèn ở ngã tư đường bật sang màu xanh, đoàn xe cộ hối hả hướng nhanh về phía trước chen chúc nhau trong tiếng còi ồn ào. Con đường của thành phố bao giờ cũng quay cuồng trong tiếng động náo nhiệt.

Nhưng chiều nay, buổi chiều thật lặng lẽ.

Bên trong cánh cửa kính thủy tinh, bàn ghế sắp đặt cạnh nhau. Mỗi ghế một người ngồi. Trên bàn là một ly rượu gì đó, một ly bia, nước ngọt hay cà phê. Một điếu thuốc lên khói từ giữa hai ngón tay, điếu thuốc không còn biết hiệu gì vì mùi vị đã dửng dưng trong miệng. Từ một chỗ ngồi như thế nhìn ra ngoài đường. Trời đã chiều nhưng vẫn còn chói chang ánh nắng. Thành phố nóng bức này đã đến mùa nóng nhất, cơn mưa không hề thấy từ hơn tháng nay.

Sự khao khát bóng mát của những cây cổ thụ trong rừng, cơn mưa mát lạnh của miền núi, đám mây đẹp của không khí vùng cao nguyên luôn luôn có một vẻ sầu muộn. Tất cả đã xa tôi trong một khoảng thời gian dài. Cũng như Châu. Tôi đã xa Châu thật lâu, năm hay sáu năm gì đó không một lần gặp lại, hình bóng tưởng bám chặt trong người như loài hoa bí leo kín mái hiên, nhưng thật ra dần dần buông thả, rơi lìa. Một trái cây trứng cá đã chín mùi cũng lìa cành như thế, rơi trên đất không vang một tiếng động nhỏ.

Khuôn mặt của người thiếu nữ giờ đây mơ hồ lạ lùng như một người bộ hành nào đó đi dưới cơn mưa. Giọt nước mưa chảy đầy bao phủ trên khuôn mặt một màu trắng lóng lánh, thật huyền ảo nhưng dấu kín hết những dấu hiệu nào quen thuộc. Bây giờ nếu Châu có đứng ở góc phố kia, thật gần với chỗ tôi ngồi, cho dù trời không mưa, trời soi sáng cho mọi người nhìn thấy từng lớp bụi bặm trên vỉa hè, tôi vẫn không nhận ra Châu, tưởng chừng như một cô gái nào lạ mặt như trăm nghìn cô gái chiều nay đã đi qua trước mắt.

Bây giờ có lẽ tôi không còn phân biệt được Châu với người khác. Sự xa lạ ấy đáng kinh ngạc và làm tôi buồn bã.

*

Con đường từ thành phố Ban Mê Thuột đi lên Suối Nhà Ðèn, đến ngã rẽ có một trũng đất thấp hơn mặt đường, ngôi trường Châu học ở đó. Hai hàng nhà lợp tôn thấp, sân đất đỏ bốc mùi bụi dưới gót chân của học trò trong ngày nắng, hay lầy lội thứ bùn đỏ ngầu đặc biệt của miền núi này. Châu ngồi trong lớp học có cánh cửa quay ra đường và thế là trên con đường ấy mỗi ngày tôi đi qua lại cả chục lần để nhìn soi mói vào lớp học. Nhưng khoảng cách khá xa từ mặt đường đến chỗ ngồi của Châu ở góc lớp không bao giờ cho phép tôi nhìn thấy Châu. Tôi chỉ nhìn thấy cặp mắt bực dọc của lão thầy giáo nhìn tôi và những nụ cười đùa cợt của bọn con gái. Nếu Châu đừng chăm chú với bài giảng của thầy (Châu lúc nào cũng có vẻ chăm học cả), Châu cũng đừng thì thầm nói chuyện với lũ bạn bên cạnh, Châu nhìn ra ngoài khung cửa sổ một đôi lần thì sẽ nhìn thấy tôi rất rõ ràng. Một thằng con trai ít khi hớt tóc, đôi mắt lúc nào cũng ngơ ngác tìm kiếm ai, và mặc dầu trời chỉ hơi lạnh cũng mặc cho bằng được một chiếc áo len màu đỏ chói để cho người khác dễ nhận thấy (thật ra là cho Châu). Tôi đó.

Trước giờ vào học và sau khi tan học, tôi bắt gặp đôi mắt Châu nhìn tôi đúng hai lần. Tôi không biết làm gì hơn là nhe răng ra cười và chờ đợi một nụ cười trả lại. Tính tôi đơn giản đến nỗi có thể hạnh phúc trọn ngày khi được ai đó cười với mình. Và Châu đã cười, nụ cười tươi tắn không có vẻ gì là điệu bộ cả. Tôi yêu chết được những nụ cười tự nhiên như thế, nó dễ nhận thấy hơn là một cái nhếch mép. Mẹ tôi thường bảo con gái cười như thế là cười toe toét trông vô duyên lắm, nhưng tôi không đồng ý với mẹ tôi về điều này chút nào. Châu có duyên chết đi được chứ, đôi mắt không phải là thứ mắt bồ câu hay nai vàng thường tả trong tiểu thuyết, đôi mắt ấy nhỏ và sáng rực rỡ cùng với đôi môi. Thời tiết của Ban Mê Thuột gần như lạnh thường trực, Châu cũng chưa đến tuổi được ba má cho phép dùng son môi, nên đôi môi của Châu thường xanh xao. Nhưng điều ấy có hề gì đâu, tôi vẫn yêu màu xanh từ khi mỗi lần đi học Châu đều mặc một chiếc áo dài xanh (cái trường Trung học Công lập Ban Mê Thuột bê bối này có một quy luật thật thơ mộng là bắt buộc tất cả học trò đều phải mặc đồng phục xanh, áo trắng ở đây rất mau bẩn vì đường xá nhiều bụi bặm).

Về sau tôi yêu thương những màu xanh đó suốt đời. Có lần tôi dã ngạc nhiên vì điều ấy và sự hồi tưởng về Châu đã trả lời cho tôi. Bắt đầu từ màu áo xanh của Châu trong những buổi chiều màu xám tro, rừng cây xa xanh màu rêu và con đường đất đỏ nâu. Rồi đến tất cả những màu xanh, màu xanh của da trời, của biển, ngọc thạch, của rêu rong, của sông, của mắt đàn bà Tây phương, của lá cây, bao thuốc Bastos xanh, và cả màu xanh nhạt của khói thuốc.

Ngoài hai lần gặp nhau ở trường, tôi và Châu gần như gặp nhau và trò chuyện suốt ngày. Nhà của hai đứa cách nhau một bãi cỏ và vườn cây đu đủ cao lêu nghêu. Những cây đu đủ không biết ai đã trồng từ bao giờ, chỉ biết khi nhà tôi đến ở đó, trái đu đủ đã chín ửng vàng thật nhiều. Thằng em trai tôi thường leo lên hái, tôi cũng thường leo lên nhưng không phải để hái trái cây, chỉ cốt cho tầm mắt nhìn thấy xa hơn, nhìn thấy Châu đang lui hui đổ thóc vào chuồng gà sau nhà bếp.

Người ta, dầu đã già hay chưa già, thường có thói quen tìm lại những giây phút ban đầu của một thời, hay của một tình yêu. Tôi cũng có thói quen ấy. Ban đầu của tôi như thế nào nhỉ?

Gia đình tôi mới dọn lên Ban mê Thuột, ở trong một khu cư xá quân đội, tôi chưa quen biết ai ở chung quanh cả. Tôi ở mãi trong nhà, đứng bên cạnh cửa sổ để nhìn ra khung cảnh cao nguyên thật mới mẻ đối với tôi. Ðường đất gập ghềnh, những chiếc xe ngựa lóc cóc đi chậm rãi, ngôi chợ nhỏ lúp xúp ở cổng số một, và thỉnh thoảng một hai người đàn bà Thượng đóng khố để ngực trần đi qua. Cảnh tượng trầm tĩnh của miền núi có một vẻ đẹp làm tôi ngây ngất như không khí lạnh của trời. Tôi đứng lặng người như thế hoài nên khi Châu vào nhà đứng gần bên tôi, tôi cũng không hề biết. Ðến khi giọng nói lạ lùng ấy vang lên: Ðứng làm gì mà thừ người ra thế?

Tôi giật mình và không biết trả lời ra sao, Châu tiếp tục: Sao không có ai ở nhà cả? Tôi sang mượn cái bàn là, nhà tôi ở sát bên cạnh, chỗ kia kìa…

Tôi nhìn theo ngón tay chỉ của Châu và cũng chưa nói được gì. Châu quan sát tôi chăm chú như một bà soeur trìu mến nhìn cậu học trò nhỏ mới ghi tên học nội trú. Giọng nói con gái Bắc nghe đáng yêu biết bao, giọng ấy khi nói những câu tầm thường nhất như là “mượn cái bàn là” nghe vẫn êm đềm ghê gớm. Châu ngạc nhiên: Sao không nói gì cả thế? Nhà có bàn là cho tôi mượn một lát đi, không tôi về liền bây giờ à.

Cái chữ “về” của Châu làm tôi kinh hãi. Tôi gật đầu và lí nhí nói đại ý sẽ lấy bàn là cho Châu mượn ngay. Tôi chạy đi tìm trong khi Châu ngồi xuống tự nhiên trên ghế, trong trí óc non dại của tôi thầm mong rằng Châu sẽ ngồi đó suốt đời. Nhưng Châu bỗng đứng dậy khi thấy tôi loay hoay khắp các xó xỉnh mà vẫn không tìm thấy gì cả.Thôi để lát nữa tôi qua mượn cũng được, tôi về nhé.

Lại chữ “về” đáng sợ ấy. Tôi cố gắng tìm một câu để nói với Châu. Chị ngồi xuống đó một tí, tôi kiếm được liền mà.

Châu ngồi xuống, mắt vẩn vơ nhìn bức hình con cá voi trắng dán trên bàn tôi, và nói: Ðừng tìm nữa, tôi ngồi chơi đây một lát được không?
Ðược quá. Chị ngồi đây suốt ngày cũng được.

Châu mỉm cười có vẻ thân mật, đôi mắt Châu dịu dàng hơn nhưng giọng nói vẫn hất hàm như một người chị. Này, nhà mới dọn lên đây phải không? Trước kia ở đâu thế?

Ở Qui Nhơn.

Qui Nhơn là ở đâu?

Ở biển… ở đó có biển, biển cũng đẹp như núi ở đây. Chị chưa bao giờ thấy biển à?

Ðôi mắt Châu hình như lùi xa để nghĩ ngợi, tôi rất buồn khi thấy ai có một đôi mắt xa xăm như thế. Có chứ… có một lần thôi. Trước kia nhà tôi ở ngoài Bắc, di cư vào đây bằng tàu biển, chỉ thấy biển có lần đó mà bây giờ không nhớ gì cả. Rồi cả nhà lên Ban Mê Thuột, ba me ở đây hoài buồn ghê… nhưng này tên gì thế?

Tên ai?

Châu đưa ngón tay chỉ vào tôi. Tôi thầm nghĩ sao Châu làm phách quá trời, nhưng tôi cũng trả lời: Tôi tên Tuấn, nhưng tôi ghét cái tên đó lắm. Chị có thể gọi tôi bằng tên khác, gọi là Ngự được không?

Ðược chứ. Nhưng sao lại gọi là Ngự?

Vì hình như tôi sinh ra ở Bến Ngự.

Bến Ngự là ở đâu thế?

Tôi đứng dậy đưa tay chỉ vào một chấm nhỏ trên bức bản đồ Việt Nam dán trên vách tường. Tôi bỗng nói như học thuộc lòng một bài học địa lý: Ðây là Huế, cái thành phố này buồn nhất Việt Nam. Từ Huế lên Ban Mê Thuột xa lắm, đi máy bay mất vài giờ còn đi xe hơi lâu hơn nhiều, đến ga Ninh Hòa phải đón xe lên Ban Mê Thuột, đường này đi rộng rãi lắm và có hai ngọn đèo, nhưng đèo ở xứ này không thấm vào đâu so với đèo Hải Vân ở giữa Huế và Ðà Nẵng…

Tôi khoái chí vì lần đầu tiên nói với con gái một câu như thế. Châu vẫn tiếp tục hỏi: Ngự học lớp mấy rồi đấy?

Tôi trả lời và Châu ngạc nhiên: Thế là học bằng tôi rồi, còn nhỏ mà học giỏi nhỉ.

Tôi nổi sùng chết được. Châu làm ra vẻ người lớn thế nhưng có lẽ chỉ bằng hay hơn tôi một tuổi là cùng. Tôi không thèm nhìn Châu nữa và cầm bâng quơ mấy tập báo trên bàn. Tôi lật từng trang nhưng không nhìn thấy gì hết ngoài những hình vẽ và những chữ đầy trang giấy. Châu cũng quay mặt nhìn ra ngoài đường và một thằng quỷ quái nào đó đạp xe ngang qua cười tình với Châu làm tôi buồn chết được. Tôi định nói Châu về đi cho rồi, nhưng Châu lại gợi chuyện, bao giờ Châu cũng nói trước cả: Ngự bao nhiêu tuổi rồi đấy?

Tôi trả lời và Châu ngạc nhiên, Châu bớt cái vẻ đàn chị đối với tôi: Thế là bằng tuổi tôi rồi. Thôi đừng gọi tôi là chị nữa, gọi là Châu đi nhé. Lúc nào rỗi qua nhà tôi chơi, nhà tôi kìa kìa… có chuồng gà vui lắm và mấy đứa em trai lớn cũng gần bằng Ngự.

Châu bỗng nhíu mày, hay có lẽ cố làm ra thế. Lạ thật! sao tụi mình cái gì cũng giống nhau, học cùng lớp lại cùng một tuổi.

Có cái khác chứ. Tôi là con trai và Châu là con gái.

Dĩ nhiên rồi. Ngự ăn nói gì vô duyên thế!

Môi Châu trề ra như một múi cam tươi gợi cảm ngon lành. Con gái khi có đôi môi đẹp thì nó làm cái trò gì cũng đẹp, dầu cho có trề môi dưới ra dài thòng. Thôi Châu về đây. Chiều Châu qua lại nhé.

Tôi buồn buồn gật đầu và nhắc đi nhắc lại cả trăm lần là chiều Châu nhớ qua chơi. Tôi ở nhà đã quá buồn với mấy cuốn sách báo cũ, cái máy hát nhỏ, hai đứa em trai và một đứa em gái của tôi cứ chụm đầu với nhau ngoài vườn chơi cái trò “buôn bán”, đứa em gái xắt vỏ trái thanh trà thành từng miếng nhỏ giả làm thịt cá, hai đứa em trai xé giấy làm một xấp tiền dầy cộm trong túi, rồi ngồi mua từng miếng thịt nhỏ làm bộ nhai ngấu nghiến, ăn hết lại mua nữa. Chúng say mê làm cái trò đó cả trăm lần và dĩ nhiên tôi chẳng thấy thú vị gì để tham dự vào cả. Tiếng kẻng đằng xa vang lên báo hiệu giờ tan sở. Châu hoảng hốt: Chết, đồ ăn chưa làm xong gì cả mà ba sắp về nhà rồi. Tại Ngự đấy, thôi Châu về đây.

Những bước chân tinh nghịch nhanh nhẹn như con sóc của Châu dẫm nát cả một lớp cỏ cao đến tận đầu gối. Trước khi mất hút vào trong nhà, khuôn mặt của Châu quay lại, dựa cánh cửa và nhìn tôi. Và nụ cười. Nụ cười mê hoặc ấy.


*


Tranh Hồng Ngọc


Một tháng đã trôi qua ở xứ này. Tôi dần dần có đông bạn bè ở trường học, những vụ rủ nhau đi tắm suối Buji, suối Ðê, suối Nhà Ðèn hay đạp xe đi khắp hết những con đường khúc khuỷu trong thành phố, thỉnh thoảng vào sâu trong những đồn điền cà phê ở ngoại ô.

Châu cũng đã trở nên thân mật với tôi hơn. Buổi trưa sau giờ cơm ngồi dưới bóng mát sau nhà, bên cạnh vườn bắp đầy trái. Buổi tối cùng với lũ con trai con gái trong những trò chơi trẻ nít, nhưng bao giờ hai đứa cũng tìm cách gặp nhau một mình. Châu ham đi chơi nhiều, hay quanh quẩn đến nhà những đứa bạn gái để trò chuyện. Nhưng Châu cũng dành ít thì giờ qua nhà tôi nói chuyện vẩn vơ. Con gái người Bắc thật lắm chuyện, hình như có trong đầu óc Châu cả một triệu câu chuyện, từ chuyện học hành, bạn bè, áo quần, gia đình. Châu kể không sót kể cả những chuyện như trên trường mới có một ông giáo sư chuyên tán tỉnh nữ sinh hay là rạp Lido đang chiếu phim Vérité do Bardot đóng. Còn tôi thì chẳng có chuyện gì để nói cả. Tôi chỉ thích hỏi thật nhiều cho Châu trả lời và cứ như thế làm cho câu chuyện giữa hai người kéo dài thêm mãi. Tôi thường hỏi Châu về chuyện “tình yêu”, hỏi Châu có “bồ” chưa, dĩ nhiên Châu trả lời: chưa; tôi không tin điều này cho lắm vì thấy Châu có rất nhiều bạn trai lại nhà chơi, người nào trông cũng bảnh bao chững chạc hơn tôi nhiều. Châu cũng hỏi tôi về điều ấy, tôi bịa ra là đã có một hai cô bồ, tôi nghĩ ra được một cái tên con gái thật đẹp. Châu chú ý nghe và tôi sung sướng chết được khi nhìn thấy đôi mắt Châu hình như giận hờn hay buồn buồn gì đó. Tôi rất thích cho con gái giận, giận đến nỗi phải khóc là tôi khoái, chết được.

Ban đêm cả nhà tôi quây quần trong phòng, mẹ tôi đan áo len và lũ em tôi thi nhau học bài ầm ĩ. Bây giờ tôi đã ít thích không khí ấm cúng ấy. Tôi ra đứng một mình trước nhà, một góc tối tăm nhờ rặng mía dày bao quanh. Có lẽ ở nhà bên kia, Châu cũng đang chờ mẹ sai đi sang nhà hàng xóm về một chuyện vặt vãnh nào đó. Và thế nào Châu cũng có cớ để đi, khi đi ngang qua chỗ tôi đứng, cả hai đứa nhìn nhau mỉm cười và nụ cười đằm thắm trong bóng tối của Châu cho biết Châu sẽ trở lại. Châu trở lại nhưng làm bộ bỏ đi nhanh, tôi gọi Châu để nói một chuyện thật quan trọng, nhưng dĩ nhiên cóc có gì quan trọng cả, chẳng hạn như hỏi hồi sáng đi học vui không, sáng mai mấy giờ đi học, Châu mới may thêm chiếc áo xanh phải không. Châu khoe: Mẹ mới may cho Châu một cái áo dài đẹp lắm, tuần sau là có áo mới mặc rồi.

Màu gì?

Màu đỏ thẫm, mặc “nổi” lắm.

Màu gì kỳ cục, sao không may áo màu xanh?

Có nhiều áo xanh rồi, mặc chán chết.

Tôi ghét màu đỏ lắm, vứt cái áo ấy đi, may áo khác màu xanh, xanh gì cũng được.

Trời ơi, vứt rồi lấy tiền đâu may nữa.

Tôi quả quyết nói: Tôi cho. Hai ba trăm bạc là cùng chớ gì.

Trời ơi, lớn rồi mà không biết gì cả, áo của người ta cả ngàn bạc chớ bộ…

Một ngàn đồng lúc này đối với tôi quả như là giấc mơ, phải đợi trúng số mới có được nên tôi im lặng. Cả hai đứng nói chuyện với nhau thật gần và câu chuyện vẩn vơ kéo dài không muốn chấm dứt chút nào. Trời dần dần khuya, Châu có vẻ sắp về nhà, tôi cố tìm một câu gì để nói, một câu gì để làm Châu giận càng tốt. Tôi thích Châu giận dỗi thề rằng sẽ không bao giờ thèm nói chuyện với tôi nữa, rồi hai đứa sẽ làm mặt lạ với nhau chừng hai ba ngày, qua ngày thứ ba là tôi sẽ xin lỗi và Châu hết giận. Tôi nói:Tụi bạn của tôi nói hồi trước Châu là bồ của thằng Mặt Mụn phải không?

Cái thằng vừa nói dĩ nhiên không có cái tên xấu như thế, nó khá trắng trẻo đẹp trai, nhưng tôi ghét nó vì hay đến nhà Châu hoài. Giọng của Châu giận dữ: Bồ gì?Thằng ấy học cùng trường, quen sơ sơ thôi. Châu đã nói cả trăm lần là Châu không có bồ gì hết, sao Ngự không tin!

Tin gì nổi, con gái hay nói dối lắm. Mấy bữa nay Châu đi đâu lên phố hoài, ít khi qua đây quá trời.

Thì mẹ bảo đi mua đồ. Qua đây với Ngự hoài, Ngự hay làm mặt phách thấy ghét lắm.

Ðôi mắt Châu giận hờn óng ánh trong bóng tối làm tôi cảm thấy sung sướng vô cùng. Ðôi mắt ấy mà ứa ra vài giọt nước mắt là tuyệt. Hai ngón tay của Châu béo vào vai tôi đau điếng người nhưng thú vị biết mấy. Châu nói: Châu qua nhà Ngự bị mẹ la hoài, mẹ Ngự cũng khó chịu nữa. Còn Ngự có bao giờ qua nhà Châu đâu?

Tại mấy con chó, chó nhà Châu chuyên môn nhảy chồm vào cắn người lạ. Cũng tại ông nội của Châu nữa, ông ấy già rồi mà mắt nhìn dữ thấy khiếp.

Ngự nhát gan quá. Ông nội hiền lắm, cả ngày không nói một tiếng.

Cần gì nói, thấy ông nhìn là đủ ớn rồi. Mà ông nội Châu năm nay bao nhiêu tuổi?

Gần tám mươi.

Già rồi sao còn sống dai thế?

Châu béo mạnh vào cánh tay tôi.Này, Ngự không được hỗn nghe không.

Rồi thôi, tôi bắt đầu không tìm được chuyện gì để nói. Châu có vẻ chờ đợi tôi tiếp tục nhưng tôi chỉ đứng yên nhìn Châu. Một con chim bồ câu nào đó bỗng đập cánh bay ra khỏi chuồng làm cả hai đứa cùng giật mình. Nhà tôi có một chuồng bồ câu khá nhiều, ban đêm chúng đều ngủ say rất sớm, không hiểu giờ này con chim bồ câu ấy sao lại bỏ đi chơi khuya như thế. Tôi nhìn theo cánh chim bồ câu trắng xóa thoáng qua nhanh và tôi bỗng sực nhớ đến bộ mặt trắng và vài hạt mụn trên lỗ mũi của thằng Mặt Mụn. Tôi lại bực dọc nói: Thằng Mặt Mụn có chiếc xe gắn máy đẹp ác, hôm qua nó chở Châu đi chơi phải không?

Châu kêu lên:Trời ơi, đặt điều vừa thôi chứ. Ði chơi hồi nào đâu?

Thôi đừng xạo nữa.

Ngự dám nói Châu xạo phải không?

Dám. Châu hay nói xạo, nói láo, nói dóc, Châu làm điệu bộ đủ thứ. Châu quen biết với cả trăm thằng thằng nào Châu cũng làm bộ dễ thương cả.

Ðôi mắt ấy đã hơi ướt như tôi chờ đội. Khoái trá giờ lẫn hối hận tràn ngập trong người làm tôi bất động như có vẻ thản nhiên. Châu bỗng nói: Châu về đây. Từ bây giờ trở đi Châu chẳng bao giờ nói chuyện với Ngự nữa đâu, Châu không quen với Ngự nữa.

Rồi Châu vùng chạy. Sợ hãi đã làm tôi can đảm, tôi nắm chặt lấy bàn tay Châu và nghe da thịt lạnh của người con gái nóng và êm vô cùng trong bàn tay của mình. Khi Châu đứng yên, tôi làm cái cử chỉ học được trong tiểu thuyết là đưa tay vuốt ve mái tóc Châu nhưng bàn tay tôi run rẩy. Hơi thở và tiếng khóc của Châu thật gần gũi như đang trộn lẫn với nhịp tim đập bồi hồi của tôi. Mùi hương của da thịt con gái, mùi thơm của những cây gia vị nhỏ trồng trong vườn, cây ớt, cây rau quế và đám hoa cỏ dại. Tất cả ngây ngất như một thứ rượu mạnh chưa hề uống và tôi không còn biết gì cả. Hai đứa ôm lấy nhau từ bao giờ, không biết ai có cử động ấy trước, gần như bàn tay ma quái của ai xô đẩy hai thân thể vào nhau. Tôi mê mẩn ôm chặt thân thể Châu trong người, da thịt mềm mại mà tôi chưa biết bây giờ đè nặng ngực tôi. Tôi hôn khắp mặt mũi, tóc tai, chiếc gáy trắng của Châu như một đứa trẻ con, cuối cùng tôi cảm thấy một đôi môi con gái mềm và ướt. Tôi không bắt gặp mùi vị gì ngọt ngào như người ta thường nói, cả hai đôi môi nối liền với nhau bất động và tê dại. Sợ hãi và hoan lạc lan khắp thân thể như vừa nếm mùi mật ong tinh tuyền. Tôi không còn nhận thấy điều gì cả. Thân thể Châu vừa nặng trĩu vừa nhẹ bổng, trống không như khói. Tất cả như một giấc mơ ngắn nhiều đêm tôi nằm mơ thấy mình hôn Châu.

Dĩ nhiên giây phút say sưa nhưng có vẻ không thực ấy đã có một chỗ ngồi trong trí nhớ của tôi suốt đời. Không biết Châu có quên đi mau chóng không?

Những ngày kế tiếp theo thật đẹp. Buổi sáng nụ cười của Châu không còn được tự nhiên, trên đôi má đã thoáng nét ngại ngùng và đôi mắt nhìn càng thêm âu yếm. Nhìn cô gái mặc chiếc áo dài xanh e ấp, dáng điệu đoan trang như người lớn, tôi không thể nào tưởng tượng ban đêm tôi đã ôm người ấy. Da thịt kín đáo trong làn vải áo, ban đêm đã gần gũi trong vòng tay.

Hai đứa ít gặp nhau hơn. Châu có vẻ ngượng ngùng trước đôi mắt dò xét của mẹ tôi và những đứa em của tôi bây giờ hay chọc ghẹo Châu. Một ngày vắng Châu tôi không thể nào chịu nổi, có đêm mẹ không sai Châu đi đâu, Châu phải ở mãi trong nhà để học bài hay may vá gì đó. Tôi liều mạng sang nhà Châu, lấy cớ mượn một cuốn sách. Hai đứa ngồi cùng một bàn học, ba má Châu đã đi đâu vắng, lũ em của Châu đã ngủ, chỉ còn ông nội Châu vẫn còn thức. Ông già ấy thường đi ngủ rất khuya và bây giờ lại không tỏ vẻ gì buồn ngủ cả. Ông già ngồi trong chiếc ghế bành và tay cầm một tờ nhật báo nhưng tôi biết ông nhìn hai đứa nhiều hơn là đọc tin tức thời sự.

Châu bịa ra một bài toán khó và tôi giải tỉ mỉ cho Châu, nghĩa là với một phương pháp thật dài dòng không bảo đảm trúng gì hết. Xen lẫn với những định lý hình học, những con số chán ngắt là những lời của hai đứa thật nhỏ, nhỏ vừa đủ để lỗ tai yếu của ông già không thể nghe được: Nhớ Châu quá trời. Thật không? Châu cũng nhớ Ngự lắm, ngồi trong lớp cứ kể cho con bạn nghe về Ngự mãi.Trời ơi! nói với người khác làm chi kỳ vậy?

Không nói nó cũng biết, con bạn Châu tinh mắt lắm, nó thấy Châu cứ loay quay trên giấy hoài, rồi vô tình Châu viết tên Ngự.

Sao cái gì mình cũng giống nhau vậy? Tôi cũng thế, giờ frère Léon giảng giáo lý không nghe gì cả, viết đầy tên Châu trong vở, viết cả chục lần cho đến khi hết chỗ để chép bài.

Ngự có đạo đâu mà học giáo lý?

Cái trường của mấy ông thầy dòng kỳ như vậy, sáng nào cũng bắt học một giờ giáo lý, lại còn đọc kinh nữa.

Học môn đó vui không?

Chán chết, không hiểu gì cả, chỉ nhớ Jésus có nói một câu thật hay: “Khi những bông hoa mật ong đã nở trên cây, các con hãy thương yêu nhau và cũng đừng buồn khi một ngày nào đó các con hết yêu nhau, vì tình yêu cũng giống như mật ong, có thứ thật có thứ giả khó lòng phân biệt được” (dĩ nhiên câu này tôi bịa ra chứ Jésus đời nào nói một câu lẩm cẩm như vậy).

Trời ơi, câu đó hay quá nhỉ!

Không, nghĩ đến Jésus không thấy gì cả, còn nghĩ đến Châu khoái chết được. Ở trong vở, viết tên Jésus và Maria nhỏ lắm, còn viết tên Châu thật lớn: Minh Châu, Minh Châu… viết hoài hoài.

Thôi cám ơn, chiều mai Châu đi học lúc 3 giờ.

Tôi sẽ đi sớm hơn để đón Châu trước cổng trường. – Ðón làm gì thế?

Ðể nhìn Châu một cái, Châu gặp đừng làm lơ, nhớ cười nghe, tôi sẽ rủ một thằng bạn đi theo, tôi đã nói về Châu cho nó nghe rồi. Châu mà không cười với tôi thằng ấy sẽ tưởng tôi nói láo.

Trời ơi! nói chuyện đó với người lạ làm gì, bọn con trai ác lắm, tụi nó đồn ầm lên là Châu chết mất.

Yên chí, chỉ nói cho một thằng bạn thân thôi mà không nói không chịu nổi, Châu cũng thế phải không?

Những chữ viết, những hình thể toán học trở nên những vai phụ mờ nhạt. Ông già ngồi soi mói cũng mờ nhạt. Tôi không còn nghe thấy gì ngoài âm thanh của chính mình và của Châu trộn lẫn với nhau như một điệu nhạc tuyệt vời. Bàn tay của hai đứa lật một trang sách, chỉ một trang và không lật thêm trang nào nữa vì hai hai bàn tay đã nắm lấy nhau, che khuất sau những trang giấy (lần đầu tiên tôi thấy sự ích lợi của sách vở).

Không biết như thế trong bao nhiêu lâu rồi giọng nói lụ khụ khó chịu của ông già: Châu à, cháu chưa đi ngủ sao? Mai còn đi học sớm.

Thưa ông chưa ạ, cháu làm bài toán này mãi mà chưa xong, ông cứ đi ngủ trước đi, cháu treo mùng cho ông rồi.

Ông già quay sang phía tôi và đôi mắt rất ít cảm tình: Cậu cũng học cùng lớp với con Châu à?

Tôi cố gắng nói với giọng lễ phép nhất của tôi: Dạ, cùng lớp nhưng khác trường. Bài toán này khó lắm, cháu phải giảng cho thật kỹ.

Cậu học giỏi thế à.

Tôi nói nhỏ chỉ cho Châu nghe: không giỏi gì lắm đâu, càng ngày dốt và làm biếng vì cô cháu gái của ông đấy. Châu lườm: giận Ngự cho mà xem, con trai mà học dốt xấu lắm. Nói gì thế?

Dạ không có gì ạ. Cháu sắp làm xong rồi.

Ông già lừ mắt nhìn tôi làm tôi phải giả bộ lơ đi chỗ khác, tôi bỗng chốc trở nên lì lợm, ông già quay lại với tờ báo. Tôi viết trên trang giấy trắng tên tôi và tên Châu nối liền với nhau. Châu cười với tôi âu yếm làm tôi sung sướng chết được, tôi muốn ôm chặt khuôn mặt ấy vào lồng ngực, dùng môi mình mở đôi mắt đang nhắm nghiền của Châu và hôn lên sự âu yếm ấy.

Ðồng hồ treo trên tường kêu long cong mấy tiếng cho biết giờ đã khuya rồi. Tôi vẫn chưa muốn về, ông già lần nầy quả quyết đứng lên, buông thỏng tờ báo mà có lẽ nãy giờ ông không đọc một chữ. Rồi ông giận dữ nói:Thôi khuya rồi, còn cái gì cũng để sáng mai rồi hay. Cậu nên về đi cho con Châu nó ngủ. Con trai con gái có chuyện gì để ban ngày nói, nói chuyện ban đêm như thế này không tiện đâu.

Tôi hổ thẹn chết người, mặt mũi và hai tai bừng nóng như uống rượu. Không ngờ cái ông lão này lại ăn nói thẳng thừng như thế. Tôi nghiến răng trong miệng và đứng dậy. Ðôi mắt Châu van lơn khổ sở: Ngự đừng giận nghe, mai gặp lại. Rồi Châu bỏ đi nhanh vào phòng ngủ, tôi bỏ ra về mà không thèm gật đầu chào ông già. Khi ra ngoài trời đêm, cỏ ướt dưới chân làm tôi lạnh và buồn.

Có lẽ trong tình yêu, người nào đam mê nhiều nhất là người bị thua thiệt hơn cả. Tôi dần dà nhận thấy sự thua thiệt của mình (cái chữ “thua thiệt” có vẻ mua bán này thật kỳ cục). Bởi vì tất cả đời sống lúc này hoàn toàn dành cho Châu, điều này thật khó nói cho Châu biết. Tôi xao lãng những giờ học, bỏ hết những cuộc đi chơi với bạn bè, không còn chiều chiều đi tắm suối hay lên rừng lên rẫy, bỏ hết những sách báo mà tôi mê đọc, cả đến những giờ phút êm ấm nhất trong gia đình. Tôi nghĩ đến Châu luôn luôn trong ngày. Ban đêm tôi cố tưởng tượng đến một sự đổ vỡ, chia lìa để rồi trằn trọc mãi trong trái tim đau nhói.

Châu thì không thế bao giờ, Châu vẫn sống bình thường, vẫn đi học chăm chỉ, đi chợ nấu ăn hàng ngày, vẫn vui đùa với bạn bè trong những cuộc dạo phố, vẫn cứ giao thiệp với các bạn trai và với ai Châu cũng tỏ ra dễ thương được cả. Ðiều này làm tôi rất buồn. Tôi không còn phân biệt được nụ cười của Châu cho tôi và cho người khác. Châu mới 17 tuổi, nhưng đã lớn lắm rồi, khuôn mặt và thân hình rạng rỡ như một bông hoa lẳng lơ, một bông hoa có nhiều đứa con trai chạy quanh. Tự nhiên tôi cảm thấy sự lạnh nhạt càng ngày càng lộ trên đôi mắt hay lời nói của Châu đối với tôi.

Một hôm tôi nhờ thằng Y-Brư đưa cho Châu một lá thư ngắn. Thằng Y-Brư người Rhadé, bạn của mấy đứa em tôi trong những vụ đá dế, thằng nhóc này bắt chước người Việt từ chiếc áo ny-lông mỏng dính cho đến mái tóc chải dầu láng bóng nhưng chẳng bao giờ đi học tiếng Việt cả, nên nó chỉ nói được lõm bõm và không biết đọc biết viết gì cả. Như thế khỏi lo thằng Y-Brư đọc trộm thư khi nó thản nhiên bóc miếng giấy trắng ra xem chăm chú nhưng dĩ nhiên không hiểu gì.

“Châu,

Lâu nay không thấy Châu qua chơi, chắc Châu chán tôi rồi. Tụi bạn trên trường kể nhiều chuyện về Châu, tôi nghe rất buồn và không muốn nói lại chút nào cả. Châu bây giờ có vẻ thay đổi, hay không còn muốn gặp mặt tôi nữa.

Ngự”

Lời lẽ ghen tương thật trẻ con. Tôi chờ đợi một lá thư giải thích và vuốt ve sự hờn giận của tôi. Nhưng trái lại thằng Y-Brư chạy về, nó nói: Chị Châu xé tờ giấy của anh rồi, chị không nói gì cả.

Tôi đau điếng người, bỗng dưng bộ mặt đen thui của thằng Y-Brư trở nên đần độn, tôi muốn đá nó một cú nhưng cố dằn lại và nói:Mày qua đưa cho chị Châu thêm một lá thư nữa của tao, chờ tao viết một chút, chốc nữa về tao cho mười đồng mua bánh mì thịt.

Tôi lại cặm cụi viết, lần này tôi bỏ trong phong bì bức hình của Châu cho tôi hôm trước. Tôi nhìn khuôn mặt Châu trên tấm hình, khuôn mặt buồn và hình như trách móc làm tôi cảm thấy thương Châu hơn. Nhưng lòng tự ái trẻ con đã bùng lên không gì ngăn cản được.

“Châu

Không ngờ Châu khinh tôi như thế. Tôi gởi trả lại Châu tấm hình, tôi không muốn nhìn thấy nó nữa. Thôi bây giờ tụi mình coi như không quen biết nhau.

Ngự”

Tôi định đề thêm một chữ “vĩnh biệt” thật kêu nhưng lại thôi. Tôi ngán chữ này kinh khủng và biết rõ mình chẳng bao giờ thích vĩnh biệt Châu cả. Thằng Y-Brư lại trở về, lần này có cầm theo một miếng giấy nhỏ, mới nhìn qua nét chữ tôi biết ngay là của Châu.

“Ngự,

Ngự làm Châu bực mình quá, khi không bày đặt giận chi vậy? Ngự nghe tụi bạn nói gì về Châu, sao Ngự không nghe chính Châu nói? Mà thôi. Châu có làm gì mặc Châu, Ngự thắc mắc làm gì? Ngự không hiểu Châu gì cả, Ngự trả lại hình và muốn không gặp Châu nữa cũng được.

Châu”

Tôi buồn bã chết đi. Tôi cho thằng Y-Brư mười đồng bảo nó cút khỏi chỗ này để trả lại sự vắng vẻ hoàn toàn, nằm dài trên chiếc ghế dựa, tôi cảm thấy như thân thể chết lạnh ngắt, nhịp tim không còn đập nữa. Tôi muốn chết kỳ lạ. Hình ảnh của Châu chờn vờn khi thì méo mó như một ác quỷ khi đẹp lộng lẫy như một thiên thần.

Thế là hai đứa không nhìn mặt nhau đến ba ngày. Qua ngày thứ tư, tôi không chịu nổi tôi tìm đến xin lỗi và “làm quen” Châu trở lại. Ðã lâu rồi hai đứa mới có dịp đứng gần nhau và tôi ngần ngại ôm Châu vào lòng, hôn lên mùi thơm của mái tóc tôi đã quen hơi. Châu không nói gì cả, tôi không hiểu Châu có hài lòng hay sung sướng gì không. Tôi hỏi nhưng Châu không trả lời, Châu chỉ nói:Sao Ngự hay kiếm cớ để giận Châu thế? Ngự thích làm Châu khổ lắm phải không?

Tôi thấy thương Châu như một đứa em nhỏ.Không, từ giờ trở đi tôi không giận Châu nữa đâu. Châu làm gì cũng không giận hết, dù có gặp Châu đi chơi với thằng Mặt Mụn.
Nữa, lại nhắc đến chuyện ấy hoài.
Thôi không nhắc nữa.

Cùng một lúc, trong bóng đêm vắng lặng chỉ có tiếng gáy rù rù của bầy chim bồ câu trong chuồng, trong vòng tay ôm và những cái hôn vụng về, tôi cảm thấy hạnh phúc lẫn đau đớn ngập tràn trong người. Bởi vì tôi thấy không thể nào dửng dưng được với bất cứ hành động nào của Châu. Dầu cho là một nụ cười nhỏ của Châu đối với bạn bè, đối với những thằng anh bà con, đối với ông bố. Tôi ghét tất cả những người nào nhận được nơi Châu một nụ cười.

Nhưng một người đòi hỏi tuyệt đối, đòi hỏi quá nhiều không bao giờ hài lòng cả. Tôi càng thấy khổ sở vò xé mình vì những điều rất vô lý. Lại giận hờn, lại trả hình, lại xin lỗi, lại làm quen trở lại… Tất cả những vụ lôi thôi đó lập đi lập lại không biết bao nhiêu lần. Tôi cảm thấy ghét Châu vì Châu hình như ngày càng thờ ơ với tôi và đôi khi tỏ ra bực mình vì tôi nữa. Tôi biết mình ích kỷ như một đứa trẻ con, nhưng làm sao sửa đổi được. Có lẽ đến năm 90 tuổi, tôi vẫn thích được vuốt ve và nuông chiều như một trẻ thơ đòi sữa mẹ.

Cái gì rồi cũng đến lúc chấm dứt. Tình yêu của tôi và Châu cũng thế (không biết có phải là tình yêu không). Vì lý do gì tôi cũng không biết rõ. Như ánh nắng của mặt trời cứ đến chiều là tắt hẳn, tình yêu đến một lúc nào đó cũng hết, không ai hiểu rõ tại sao ngay cả những người trong cuộc.

Gia đình tôi đổi đi xa lần nữa. Tôi xa Châu, không có trong người một nét chữ nhỏ, một bức hình nào của Châu. Trời sớm mai ở Ban Mê Thuột giá lạnh làm tôi run rẩy dầu đã ngồi kín đáo trong chiếc xe đò, bến xe bên ngoài lầy lội bùn đỏ. Không có cuộc chia tay hay gặp gỡ lần cuối nào thật đẹp giữa hai đứa. Nếu không có chuyến đi này, Châu cũng đã xa tôi. Tôi còn nhớ Châu có giữ kín một cuốn nhật ký, không biết trong muôn ngàn chữ ấy có chữ nào dính dấp đến tôi không. Tôi cũng muốn bắt đầu một cuốn nhật ký bằng hình ảnh của Châu. Nhưng bao giờ bắt đầu được vì khuôn mặt Châu vừa sống động vừa tan loãng mờ nhạt. Tất cả những chữ viết, ngôn ngữ tài tình nào cũng đành chịu. Hình ảnh Châu tốt hơn nên nằm êm ái trong tâm hồn mãi mãi.

*

Bây giờ buổi chiều đã hết. Ánh sáng của mặt trời đã tắt. Ánh sáng không biết của ai đang thắp nhỏ nhoi trong những ngọn đèn đường. Ký ức làm buổi chiều nặng trĩu, người cũng lặng lẽ như một bóng vô hình với hiện tại. Ðường phố, những người, những tiếng động như hư không, không thấy, không nghe gì cả. Người bỏ đi cho ghế trống trơn, khói thuốc đã hết bay lên từ chiếc gạt tàn…

Có những quá khứ thật êm đềm khiến người ta phải bỏ hết một đời để hồi tưởng. Tôi không phí phạm cuộc đời tôi như thế. Tôi không phải là kẻ ngưỡng mộ dĩ vãng, cuộc đời tôi còn dành cho nhiều điều khác, và cho tôi.

Bởi thế tôi đã quên. Chúng ta đều đã quên.

Hoàng Ngọc Tuấn