Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Dậu. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nguyễn Dậu. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 7 tháng 3, 2025

Mật rắn


Mật rắn

Truyện ngắn Nguyễn Dậu

Tôi quen cậu ta lần đầu ở ngay cổng đền Ngọc Sơn. Chiều hôm đó, sau một ngày cắt tóc mỏi mệt, tôi thu dọn đồ nghề, ghì chặt sau xe đạp, lững thững dắt xe về Ðền, nơi cư trú của tôi. Một đám đông người tụ tập bên cạnh mảng tường "long môn hổ bảng". Tôi lướt qua, không lưu ý, bởi vì một đám tụ tập hoặc một trăm đám tụ tập, chỉ là chuyện bình thường ở các khu náo nhiệt và nhiễu sự của bờ hồ.



Nhưng một giọng nói oang oang đập vào tai tôi, khiến tôi phải dừng lại.



- "Ai bị phong thấp, ngâm sẵn hổ mang. Ai bị da vàng, tìm rượu hổ lửa. Ðàn bà không chửa, chuốc lấy mang bành. Ðàn ông hoạt tinh, đừng quên rắn ráo...".



Người bán rắn là một thanh niên trạc ba mươi tuổi. Y có khuôn mặt trắng trẻo học trò, vóc người thô to của một lực điền. Duy có đôi mắt tròn sáng, lúc nhìn từ xa thì hiền từ, lúc đảo quanh thì thật tướng cướp. Trên mình y đeo một chiếc túi vải thắt miệng ở trong thấy bùng nhùng động đậy, chắc là có vài chục con rắn. Còn trên tay y, một cánh tay trắng mịn, thì lằng nhằng nhiều mảnh sẹo, như là người phải bỏng. Bàn tay y nắm chặt. Ba kẽ tay kìm chắc ba cái đuôi của ba con mang-bành, cạp-nong, và hổ-trâu. Thỉnh thoảng y lại giật tay, ba con rắn hướng ra ba phía, oằn mình, ngóc đầu phun phì phì.



Qua mấy người đang túm tụm, đôi mắt sắc sảo và ranh mãnh của y chợt nhìn thấy tôi. Lập tức y lên tiếng xua đuổi những người vây quanh:



- Xin mời các quý ông, quý bà giải tán ngay cho. Các vị xem chứ đếch mua, làm tớ quảng cáo khản cả cổ. Nào xin mời đi ngay cho. Tớ có khách mua rắn đây rồi. (Hắn ôn tồn chuyển giọng nói với tôi). Mời bác, bác phó cạo, em chắc chắn là bác sẽ mua rắn cho em. Nếu em đoán sai, bác cứ vả vào mặt em!



Tôi vội vàng phân trần:



- Không, không. Chú cứ bán cho người ta đi. Tôi... cũng là nhân thể xem qua thôi.



Người bán rắn lắc đầu quầy quậy, cất giọng hóm hỉnh:



- Ấy chớ! Bác đừng phụ em. Hôm nay em bán rắn ở đây cốt chỉ để bán cho một mình bác. Em sinh ra ở trên đời này, rồi làm nghề bán lũ sinh linh "nguy hiểm chết người" này, cũng chỉ vì mình bác. Sau khi bác mua rắn cho em, em sẽ giải nghệ. Bác không tìm thấy em nữa đâu. Bèo dạt mây trôi, bác ơi...



- Chú nói kiểu này với người thứ mấy mươi rồi?



Người bán rắn vung mạnh cánh tay. Ba con rắn nhập làm một, bay thành một vòng rộng. Y cười. Tiếng cười sang sảng:



- Chịu bác. Em đã nói thế với hai mươi bảy người rồi. Còn độc mình bác nữa là đủ "nhị thập bát tú".



- Sau đó chú sẽ bán cho ba mươi sáu người thiên cang và bảy mươi hai kẻ địa sát... Vậy ai là người mua cuối cùng?



- Em một lần nữa xin chịu bác. Thôi, bác mua cho em đi. Từ sáng đến giờ em "dọi" lắm rồi. Một mẩu bánh mì cũng không.



Tôi đăm dăm nhìn y. Câu nói của y giẫm đúng vào lòng tôi. Tôi càng bùi ngùi hơn. Vì qua cách nói năng của y, nếu không phải kẻ có học, thì cũng là người làu thông một số sách cổ của Tầu. Hắn đứng vụt lên. Cao lớn, khôi ngô, nón lá, áo nâu, râu quai nón lún phún, càng gây bất đắc chí trong thời Ðại Cồ Việt xa xôi.



- Bác xanh xao, uể oải thế kia là chân âm toàn thịnh, chân dương hữu khuy. Bác phải có rắn, rắn ngâm rượu, rắn nướng chả, lấy liệt hỏa mà khu trừ hàn tà. Bác không mua rắn của em bác định ăn nem công chả phượng nào mới được chứ?



- Ừ thì tôi thua chú. Tôi sẽ mua. Tôi cũng đang bị phong thấp nó hành đây. Mỗi cái tệ, tôi không biết chần rắn.



- Bác có bình chưa?



- Có đủ cả rượu nữa.



- Vậy em sẽ chần rắn cho bác. Bác lấy tam xà e không đủ. Bác lấy giùm em bộ ngũ xà hay hơn. Một mang-bành, một cạp-nong, một hổ-trâu, một ráo, một mai-gầm nhé.



Ðám người dãn ra. Chúng tôi chầm chậm đi qua cầu Thê Húc. Thấy bước chân của người bán rắn tập tễnh, khó khăn, tôi hỏi:



- Chân chú làm sao thế?



- Thọt!



- Chiến đấu à?



- Cũng có thể ví với chiến đấu được. Em bị rắn cắn vào mông. May mà có mẹo gia truyền, thoát chết, chỉ bị thọt thôi.



- Lúc nãy chú chào tôi là ông phó cạo. Sao chú biết?



- Dân sinh sống quanh bờ hồ này, ai chẳng rõ bác.



- Vậy là chú cũng đã quẩn quanh khu vực này lâu rồi?



- Cũng như bác. Dòng đời cuốn dạt chúng ta đến một chỗ?



- Chú ăn nói sách vở gớm. Học đến đâu rồi?



- Em chẳng có bằng cấp gì cả.



- Không quan trọng. Trường đời sâu sắc hơn.



- Chính thế! Biết bao người vĩ đại không mẩu văn bằng, học vị...



- Ðể xem chú có vĩ đại không đã. Hay chỉ là một thằng bẻm mép! Mấy thằng bán lơ trắng lơ hồng nó còn dẻo mồm gấp mười chú.



- Chịu bác, nhưng loài người biết dùng nọc rắn để chữa bệnh cho mình. Lấy độc trị độc, đó chẳng là sự khôn ngoan tột đỉnh của con người sao?



- Ðiều đó thì đúng là vĩ đại!



Chúng tôi về đến Ðền. Tôi vào phòng sửa soạn rượu và bình... Người bán rắn thì ra cầu ao (lẽ ra nên gọi là cầu hồ) để mổ rắn. Y làm việc cực kỳ thành thạo. Chỉ mười lăm phút sau, năm cái thân rắn đã sạch sẽ, khoanh tròn trong bình thủy tinh và ngâm chìm trong năm lít rượu mầu xanh nhạt.



Tôi lặng lẽ quan sát anh chàng. Nhanh nhẹn, tuy què thọt. Giọng nói vừa trung thực một cách quê mùa, vừa quá ư láu lỉnh kiểu đường chợ, thành thử, không thể bỗng chốc đánh giá đúng thực chất con người này. Cảm giác của tôi là ở y có nét đáng thông cảm, tuy rằng không phải gây cho tôi một đôi điều ngờ vực. Thôi được, nhiều vải mai biết...



- Này, tên chú là gì nhỉ?



- Chi bác ạ. Ðặng Quân Chi!



- Một cái tên rất hay. Ông cụ cậu là một nhà nho chăng?



- Chính thế. Nhưng cụ em mất từ hồi em còn trong bụng mẹ. Ông chú em đặt tên cho đấy!



- Thế thì chú cậu cũng nho.



- Nho nhe gì. Ông chú em biết vài chữ đủ để đọc tên thuốc bắc.



- Ðọc được tên thuốc bắc là khá.



- Khá cái ăn mày. Ðọc được, không viết được như các bà nhớ quân bài tam cúc thôi.



- Ông chú đặt cho cậu cái tên quá nhiều ý nghĩa đấy.



- Bác bảo sao?



- Này nhé. Theo tiếng Việt, Quân Chi, nghĩa là hạng người nào. Theo nghĩa Hán, là bậc hiền ấy.



Người bán rắn cười ngặt nghẽo:



- Lúc nhỏ em chỉ là "Quân". Từ khi bị thọt ông chú em thêm cho chữ "Chi" nữa. Bác có biết chữ nho không?



- Như người ta thuộc quân bài tam cúc thôi.



- Có khi em khá hơn bác. Bác xem đây!



Nói xong, Quân Chi vạch ra đất hai chữ nho, cứng quèo và xệch xẹo như đặt xếp bằng que vậy.



Tôi mỉm cười:



- Một chữ Hán, một chữ Nôm.



- Nho cả đấy, bố trẻ ạ.



- Không, một Hán, một Nôm. Ðây là hai chữ "quần che", ông chú chơi xỏ thằng cháu.



- Như thế nào?



- Một là ông ấy ghét cậu...



- Ðúng! Cực kỳ ghét. Em hay ăn trộm thuốc bắc của ông ấy.



- ... Bảo cậu là loại lấy quần mà che. Hai là nói lái thì quần che tức là què chân. Cũng có thể tán rộng ra là thằng quần chị, thằng quẫn chí, thằng...



Quân Chi thét to:



- Tiên sư cái thằng chú em. Ðúng là bọn nho thâm lắm. Chết chết, em xin lỗi bác. Nhưng quả thật thằng chú đểu cực kỳ... Mà thôi, muộn rồi. Em xin bác tiền rắn. Vợ con em nó còn đợi...



Khi nghe thấy số tiền, tôi lạnh cả người. Một bộ ngũ xà tám chục đồng (tiền năm 1972) công chần rắn, rửa rắn hai chục nữa. Vị chi là một trăm. Vậy mà tiền công cắt tóc của tôi chỉ có ba hào một đầu người lớn, hai hào một đầu trẻ con.



Phải lấy hết can đảm tôi mới giữ vẻ bình thản đặt vào tay người bán rắn một trăm đồng chẵn.



Quân Chi hởi hả cười:



- Còn mười cái mật nữa, bác lấy giùm em.



- Bao nhiêu?



- Hai chục!



- Tôi hết cả tiền rồi.



- Tùy bác. Ngâm rượu mà không có vài chục cái mật rắn kèm theo thì khác gì ngâm... thịt ếch.



- Tôi tưởng mỗi con rắn có một cái mật chứ?



- Mật là lộc của em. Em chỉ bán rắn chứ không bán mật. Bác có thấy em rao bán mật rắn không?



- Vậy là tôi mắc lỡm chú?



- Luật giang hồ của dân bán rắn chúng em như vậy. Vì thế quê hương chuyên nghề bán rắn của em mới gọi là Lệ Mật.



- Ðúng là đồ... rắn độc.



Quân Chi trâng tráo thừa nhận:



- Cực kỳ độc bác ạ. Bác có chửi réo tên thành hoàng làng nhà em, thì lúc mổ rắn cho bác, em vẫn giấu mật vào mồm, có trời tìm!



- Thằng quẫn chí! Thằng què chân! Thằng quần che!



Người bán rắn cười ngặt nghẽo, cười chảy nước mắt, cười như chưa bao giờ được cười. Nghe tiếng cười ấy, lòng tôi dịu hẳn lại.



Ðặng Quân Chi bỗng ngừng cười, thấp giọng bảo tôi:



- Nhưng em không tệ với bác đâu, mười cái mật rắn, em chỉ lấy bác một chục thôi. Bác thấy em cho đẹp không? Em nói thật nhé, bác yếu lắm, chân dương của bác hư thoát hết, phải đôn nhiệt hồi hỏa mới mong khang cường và diên thọ, mà như vậy không gì bằng mật rắn.



- Bình rượu của tôi cần bao nhiêu mật rắn?



- Một trăm lẻ tám, ứng với số sao thiên cang và địa sát. Sau khi nhồi vào bụng bác đủ trăm lẻ tám vị "anh hùng" này rồi, bác sẽ tha hồ tung hoành trong đám... chị em! Hề hề...



- Chú là một trong những tên đầu bò mà tôi bắt gặp đấy.



- Em biết bác nghèo. Phó cạo thì giàu với ai được. Vì vậy mỗi ngày em đưa dần cho bác mười chiếc mật rắn. Thế nhé. "Chào bác! Gút bai! Ôrơvoa! Tái kiến!" - Lạy bác ạ!



Cuộc đời có nhiều cái tình cờ, cái ngẫu nhiên có lúc trùng lặp như cố ý bịa chuyện. Một bình rượu rắn muốn hết mùi tanh nồng, phải ngâm thêm táo tầu, đỗ trọng và cam thảo mà cũng phải sáu tháng sau đó mới có thể uống được. Bình rượu của tôi không ngoài quy luật ấy, nghĩa là còn niêm phong kỹ trong góc nhà. ấy vậy mà tôi tự dưng lại béo dần ra, rồi dần dần hồng hào sì phệ thực sự. Hồi đó tôi ăn cơm tập thể ở phố Hàng Giày, mỗi bữa ba hào. Ðôi khi, người ta lại tìm thấy trong những thùng mỳ sợi một xác cóc hoặc một xác chuột nhắt. Béo đẫy vì vậy chăng?



Ðặng Quân Chi vồ lấy cơ hội ấy. Mỗi lần quảng cáo tác dụng của rắn, cậu ta lại đem tôi ra làm ví dụ sống động. Y rêu rao thật vang cho mọi người nghe:



"Kìa kìa ông phó cạo, vốn gầy bủng gầy beo. Uống rượu rắn ít lâu, trở thành đô lực sĩ. Bây giờ ông béo ị. Như chú khách Hàng Bồ. Rất đẹp lòng các cô! Rất vừa ý các mợ!".



Với người khác, chắc chắn chỉ dùng đến một cái tát, còn tôi, tôi phải lạy van mãi, Quân Chi mới ngừng rêu rao cái bài vè khả ố đó.



Từ hôm bán rắn cho tôi, cậu ta coi tôi như người thân, ra vào trong Ðền như vào nhà riêng. Có lúc cậu ta lễ độ, có lúc cậu ta nhâng nháo, khiến mấy ông già ở trong Ðền vừa vui vẻ vừa khó chịu.



Thực hiện cam kết với nhau, cứ cách vài ngày Quân Chi lại trao cho tôi một gói giấy, hôm thì tám, hôm thì mười cái mật rắn. Có lúc cậu ta đích thân đem tới cho tôi. Hôm nào bận việc gì đó, cậu ta bảo vợ cầm đến. Nói tới cái khoản "vợ" của cậu ta, kể cũng thật quái đản.



Một lần, tôi hỏi Ðặng Quân Chi:



- Chú có mấy vợ?



Người bán rắn mặt tỉnh ănglê, trả lời:



- Em một vợ.



- Hình như ba vợ thì phải.



- Em lạy bác. Một vợ còn chẳng có khố mà mang nữa là. Em chẳng dại. Người ta có câu: "Một vợ, nằm ngủ khoèo, hai vợ ra chuồng heo, ba vợ ăn bánh... bèo".



- Thế sao mỗi lần mang mật rắn đến cho tôi, lại một cô khác mặt. Một cô rỗ hoa má lúm đồng tiền, một cô gầy yếu nhẽo nhèo như cái giẻ vắt vai, một cô lùn choằn choằn, tròn xoe như hạt mít? Nghe nói, các cô ấy đã đánh xé nhau, phải không?

Ðặng Quân Chi ngẩn mặt ra giây lát, vừa sượng sùng, vừa trơ trẽn:



- Em xin chắp tay lạy phục bác. Thôi thì bác "đại xá" cho em. Cái thằng thổi sáo mù đặc kia còn cuỗm được cả hai chị em, huống chi em lừng lững một đấng... "vua rắn độc" như thế này...



- Ðấy là việc của chú. Tôi không phản đối, cũng không khuyến khích. Ðào hoa lắm, thì tự khổ thôi.



Quân Chi tủm tỉm cười:



- Bừa phứa đi bác ạ. Thời buổi bom đạn ùng oàng như thế này, biết đâu ngày mai... à, mà em nghe người ta nói rằng bác cũng vốn là khách văn chương thất sủng phải không?



- Liên quan gì đến việc này?



- Em xin phép ra cho bác một vế đối. Nếu bác đối được, em thề có các vị thánh trong Ðền này, sẽ biếu không bác số mật rắn chưa giao đủ. Em lấy việc bản thân em mà ra đối nhé?



- Hay đấy. Ra vế đối đi!



- Vậy bác nhớ kỹ nhé: "Vợ cả, vợ hai, hai vợ đều là vợ cả"! Nếu bác không đối được, em phạt bác, giá mật rắn bác phải trả gấp đôi em. Hai từ vợ cả, mang nghĩa đôi đấy bác ạ!



- Quả là thằng què chân láu cá, thằng đểu số một trên đời này. Câu đối của cậu oái oăm quá.



Ðặng Quân Chi cười ròn câng cấc:



- Bác cứ chửi đi. Em chỉ muốn chứng minh cho bác rõ em không đến nỗi quẫn chí như bác tưởng đâu.



- Thế cậu đã đối được chưa?



- Em đã tự đối được.



- Cho nghe thử.



- Nhưng bác phải làm phần đối của bác.



- Ðã hẳn.



- Vậy thì: "Yêu đào, yêu liễu, liễu yêu chẳng nhẹ yêu đào".



- Tôi phì cười:



- Ðúng là cái thằng "quẩn chị"! Cứ xét khẩu khí mày, mày quả là loại lăng nhăng đa tình quá. Nhưng hai từ "yêu đào" không ổn...



- Lăng nhăng đa tình đâu chỉ riêng em? Khối, ông nọ ông kia bẩn gấp trăm. Nào, đến lượt em rửa tai nghe bác.



- Tôi mới thoáng nghĩ ra một vế đối có lẽ chưa chỉnh lắm. Này nhé: "Rắn đầu, rắn mặt, mặt rắn cũng loại rắn đầu".



Ðặng Quân Chi nheo nheo đôi mắt sắc sảo rồi nhảy cẫng lên:



- Tuyệt! Tuyệt! Bác vừa nhắc đến nghề nghiệp của em, vừa chửi mắng khéo em. Thế mà bác cứ bảo chưa chỉnh. Thôi được, em chịu thua. Chán quá, định xoay bác, mà không xong.



Sau khi người bán rắn tập tễnh đi ra, tự dưng tôi thấy buồn buồn trong lòng. Thằng cha cũng khá nhanh nhạy, nói theo kiểu cổ là khá mẫn tiệp. Cái gì đã đẩy hắn tới cảnh huống hôm nay? Ðiều gì khiến hắn lênh phênh, bừa bãi và dối trá? Tôi thở dài. Cảm chuyện người. Cảm chuyện mình.



"Một trăm linh tám vị anh hùng" mà Ðặng Quân Chi hoặc các cô vợ y giao cho tôi, tôi cẩn thận gói lại, cất đi. Mỗi lúc đưa mật cho tôi, Quân Chi thường khuyên tôi nên nuốt vào bụng, hơn là ngâm trong rượu. Tôi chỉ im lặng nhìn hắn, rồi lục tìm ví tiền lép kẹp của tôi mà trả đủ số. Hắn cũng im lặng nhìn tôi. Cả hai như âm thầm đối thoại với nhau, rằng: -"Tội nghiệp ông già phó cạo. Tôi thương ông, nhưng tôi vẫn cứ lột sạch một ngày công vất vả của ông. Bởi vì, tôi đói!" - "Này, thằng què! Tao biết rõ mày đã đối xử thế nào cùng tao. Nhưng cầm lấy cho khỏi đói. Còn tao, tao chịu khó thức khuya, câu ít cá dưới hồ, cũng kiếm được vài đồng bạc. Ðừng lo cho tao!".



Ðó, kẻ này biết rõ ruột gan kẻ kia! Có một điều tôi thích thú ở Ðặng Quân Chi là cái tài dệt chuyện của hắn. Dệt một cách bài bản, ly kỳ và thông minh nữa. Hắn không chỉ giỏi moi tiền của tôi, mà còn lột cả "chất xám" của tôi. Những đêm khuya rỗi rãi, hắn thường mò vào trong Ðền, kể mọi chuyện ba xí ba tú cho mấy ông già nghe, để rồi nằn nì tôi kể cho hắn một đôi điều có liên quan tới rắn. Tôi hào hứng kể với hắn rằng, theo một cuốn sách nào đó, người ta nói ở bên Mông Cổ có loại rắn tên là Ðôn-gôi Khốc-khôi được coi là độc nhất thế giới. Ðôn-gôi Khốc-khôi không cần cắn bập vào da thịt. Cách xa ba mét nó đã phóng ra nọc độc giết chết ngay lập tức từ người tới lạc đà, mãnh thú và chim ác. Vì thế từ nhiều năm nay, người ta biết rằng có tồn tại con Ðôn-gôi Khốc-khôi, song chưa thấy một ai thấy rõ hình thù và đời sống sinh thái của nó. Còn ở bên ấn Ðộ, có một giống chồn tên là Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, chuyên săn diệt rắn độc. Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi bằng một cú nhảy tuyệt vời lên khoảng không, lúc rơi xuống, bao giờ nó cũng ngoạm đúng và cắn nát cổ rắn. Vì thế, người Ăng-lê, người Hà Lan, người Bồ Ðào Nha khi sang ấn Ðộ, đã không tiếc bỏ ra từng lạng vàng mua một con Rích-ki-Tích-ki-Ta-vi, để làm vệ sĩ cho họ.



Ngày hôm sau, tại một ngã tư nào đó, lúc ngồi bán rắn, Ðặng Quân Chi đã phồng mang trợn mắt kể cho mọi người nghe rằng chính hắn đã sờ thấy, đã ăn gỏi một con Ðôn-gôi Khốc-khôi có nguồn gốc ở sa mạc Gô-bi. To gan hơn, hắn còn kể: một vị tùy viên ở sứ quán Mông Cổ đã yêu mến, đổi cho hắn một con Ðôn-gôi Khốc-khôi lấy hai cặp mang-bành và hổ-trâu. Gặp dịp thuận tiện sẽ còn mời hắn sang thăm Mông Cổ để biểu diễn kỹ xảo bắt rắn. Chà chà, cái thằng!



Bẵng đi nửa tháng trời không thấy Ðặng Quân Chi vào chơi trong Ðền. Kể cũng lạ, tự dưng tôi thấy bồn chồn đượm chút lo lo cho hắn, như tình cảm đối với chính người ruột thịt của mình. Không đừng được, tôi phóng xe đạp đi tìm một vài đầu phố, nơi hắn vẫn ngồi ba hoa với đám đông mua rắn.



Tại một cửa hàng bún xáo, tôi gặp người vợ thứ hai cái cô gày yếu nhẽo nhèo của hắn. Cô đang vừa ho, vừa ngồi nhổ lông vịt, lông ngan. Hàng chục con ngan và vịt đã cắt tiết, nhúng nước sôi, nằm trong một chiếc rổ lớn.



- Này, độ này chồng cô đi đâu thế? - Tôi hỏi.



Cô gái không trả lời. Tôi lạ lùng và kiên nhẫn hỏi lại cô ta đến lần thứ ba câu hỏi ấy. Cô gái khó nhọc ngẩng mặt lên, nét mặt xanh xao, đôi mắt trắng dã như mắt lợn luộc, rồi cô cười khì một tiếng, khuôn mặt nhăn nhúm thảm thương:



- Ông hỏi "chồng" tôi ấy à? Cái thằng tập tễnh trời đánh thánh vật ấy à? Mời ông vào nhà đá mà tìm nó. Chồng! Chồng! Pựt sì...



- Chuyện thế nào vậy cô?



- Trời đất ơi, đã bở hơi tai ra, không thở được, còn đến quấy rầy. Ông có mắt không?



- Mắt thì lúc nào tôi cũng có, ở trên mặt tôi đây này.



- Thế ông thong manh à, mà không thấy từ giờ đến chiều tôi còn phải nhổ lông, mổ lòng những ngần này ngan vịt, để cho bà chủ hàng có thịt bán bún? Ông có biết thương người không?



- Bây giờ thì tôi biết thương đây - Nói xong, tôi rút ở túi ra và giúi vào tay cô ta tờ giấy hai đồng.



Nét mặt cô gái dịu đi, đôi môi cũng mất vẻ cong cớn. Cô nói:



- Nó đi tù rồi. Giam ở Công an Hoàn Kiếm ấy. Nếu ông xót nó thì mời ông vào đấy mà tiếp tế cho nó.



- Rầy rà nhỉ? Tội gì vậy?



- Nổi cáu với khách, rồi quăng rắn vào mặt khách. Ðể cho mang - bành cắn vào mặt người ta.



- Chết! Chết! Mang-bành độc lắm. Người ta có việc gì không?



- Ông đi mà hỏi họ.



- Thế các cô... các cô... các cô vợ của chú ấy, có đi thăm hỏi chú ấy không?



- Các cô nào, vợ nào? Cả tôi nữa phải không? - Cô ta nhìn tôi, lộ vẻ giễu cợt, khinh bỉ, rồi cười giòn một hồi.



- Ôi... cái ông phó cạo tội nghiệp này, đúng là "người đời". Chẳng có đứa nào là chồng, cũng chẳng có con nào là vợ, ái tình bờ hồ mà, ông ơi là ông ơi. Nhân đây, tôi xin có lời mách giùm ông nhé. Tôi hỏi ông đã nuốt hết mấy chục cái mật rắn chưa?



- Chưa!



- Vì sao vậy?



- Tôi ngờ ngợ có cái gì không ổn, nên không nuốt.



- Ôi, thế thì ông ở hiền gặp lành đấy.



- Thế à?



- Chứ gì nữa. Toàn là mật vịt mật ngan cả đấy thôi.



- Mà thủ phạm tiếp tay cho hắn là cô?



- Còn sao nữa.



- Sao cô nỡ thế?



- Ðói mà, đức ông ơi.



- Một cặp canh ty rất đẹp đôi!



- Cũng cảm ơn ông có lời khen. Thôi, tôi trả lời ông vậy cũng bõ hai đồng bạc của ông rồi đấy.



- Tôi trả thêm hai đồng nữa. Cho tôi hỏi thêm vài câu.



Nói xong tôi lại rút đưa cho cô hai đồng nữa, bụng nghĩ "mất toi hai buổi công tác cắt tóc của mình". Cô gái giật lấy tờ tiền giấy, nhét vội vào cái coóc-xê trước bộ ngực lép kẹp, nhoẻn cười:



- Ông muốn lấy khẩu cung gì thì lấy đi, quàng lên kẻo tối.



- Chú ấy bảo quê ở Lệ Mật?



Lại một cái cười giòn khanh khách của cô gái:



- Con đĩ mẹ cái thằng bịp! Thưa với ông rằng: Lệ Mật là quê nhà tôi ạ. Tôi về Lệ Mật lấy rắn, những con rắn vứt đi, người ta đã bỏ hết nanh liêm, rút hết nọc độc ấy mà, rồi bán lại cho nó, nó đem bán lại cho các người đấy. Còn quê nó ấy ư? Có quỷ biết. Ông còn hỏi gì thêm nữa không?



- Cảm ơn cô. Ðủ lắm rồi. Lẽ ra tôi phải trả cô bốn chục mới đúng!



Lại chừng nửa tháng sau.



Một hôm tôi liều mạng sang bên huyện Gia Lâm vào giữa ban ngày. Tôi nói liều mạng vì hồi ấy máy bay Mỹ bắn phá dữ dội thành phố. Chẳng mấy ai dám đi cầu phao sông Hồng vào lúc chín mười giờ sáng cả, trừ một số cán bộ và bộ đội có công chuyện khẩn cấp. Cũng may không có gì xảy ra. Khoảng sáu giờ chiều thì tôi về đến nhà, người nhão nhừ mệt mỏi.



Ðặng Quân Chi ngồi lù lù trên chiếc ghế đá ở ngoài dinh Trấn Ba. Thấy tôi, hắn đứng lên, reo to:



- Ôi... Bác có mong em không?



- Cũng có mong.



- Còn em thì nhớ bác quá.



- Cứ cho là như vậy đi! Chú vui vẻ nhỉ! Mà... xanh xao, bủng beo thế kia kìa!



- Chả sao, bác ạ. Em về Lệ Mật xây lấy ba gian nhà. Thì cũng phải lo cho có chỗ chui rúc chứ bác? Giá mà bác về chơi thăm cơ ngơi nhà cửa của em. Cực kỳ, bác ạ!



- Toàn bằng đá?



- Em nhờ đổ bê-tông thôi.



- Có cửa sổ sắt! Có người bồng súng đứng gác. Cơm bưng tận miệng, nước rót tận mồm, phải không?



Ðặng Quân Chi tròn mắt, lè lưỡi đứng im. Tôi bảo hắn theo tôi vào phòng. Thuốc lá! Trà ! Rượu! Chúng tôi chuyện trò cùng nhau chừng vài tiếng đồng hồ. Ðặng Quân Chi uể oải ngáp dài, đứng lên vươn vai:



- Bác cho em suy nghĩ đã. Cảm ơn bác đã thực tâm cho em những lời vàng ngọc, bác đã lo cho em hơn cả mẹ đẻ của em. Nhưng em không về Gia Lâm đâu. Em tởm cái đời công chức lắm.



- Sao vậy?



- Tâm tính em hỏng mất rồi. Vả lại, người ta nói: "Sập gụ nhà quê không bằng ngồi lê Hà Nội...".



- Bậy nào. Bên ấy là cơ sở sản xuất lớn. Người ta cũng chẳng thiếu gì kẻ đảm đương công việc. Chỗ họ quen thân với tôi, họ nể nhời mới nhận chứ.



- Em chán ngấy rồi. Theo Phật chết đói, theo Quan chết đòn. Ðem thân về với triều đình. Hàng thần lơ láo phận mình ra sao? Chắc bác lại cho rằng em bịp, nếu em nói trước đay em đã từng là ủy viên văn xã của một huyện?



- Không, về điều này thì tôi hoàn toàn tin.



- Vậy mà bác còn gò em? Em hỏng mất rồi, không làm lại được đâu.



- Ngày xưa cũng có lúc tôi nghĩ thế.



- Thì ngày nay bác cũng vẫn là "trốn việc quan đi ở chùa" đấy thôi.



- Tôi khác, chú khác. Chú còn trẻ...



- Gần lửa thì mặt nào cũng rát như nhau. Mà kỳ quái thật, bác biết rõ ràng em lừa bịp bác từ đầu đến chân sao bác còn thương em?



- Tôi cũng đã tự hỏi mình như vậy.



- Thế thì bác nhọc lòng làm gì?



- Quả thực chú đã tệ bạc với tôi quá nhiều, chú què ạ. Có điều, chú đã bắt được tôi làm tù binh, kể từ hôm chú nói với tôi rằng chú đói. Từ bé đến giờ tôi cũng đã đói nhiều lần mà đói khủng khiếp ấy. Chú thì chẳng biết gì về cái năm ất Dậu đâu.



- Ðối với em, những chuyện cổ tích ấy chẳng có ý nghĩa gì! Và bác, em xin bác đừng đem những giáo lý khô khan, vô hồn ấy ra mà ràng buộc em. Trước hết, em chẳng có tài cán gì để mà đáng tiếc. Hai là, có tài thực sự cũng chẳng có ích gì. Ðời lộn xộn lắm, Bàng Thống bị tống về huyện Lôi Dương, nên Bàng Thống trở thành thằng nát rượu, Tần Cối được đặt lên ghế tể tướng, thì Tần Cối có dịp để tung hoành... Ngày mai, em lại đi bán rắn, bán mật rắn.



- Nghĩa là lại bịp?



- Rắn thực sự sao gọi là bịp!



- Rắn thật mật giả. Cái số mật ngan mật vịt ấy, tôi đã ném xuống hồ cho nó... bơi rồi.



Nét mặt Ðặng Quân Chi lạnh băng, không xấu hổ, không ân hận, cũng không nhâng nháo và cũng không quỷ quyệt hơn.



Tôi không thuyết phục tu tỉnh nổi cho người bán rắn. Về sau, hắn đi đâu, tôi không rõ. Hắn trở nên ngay thẳng hơn, hay cong queo hơn, tôi không biết. Tôi hài lòng về mình. Tôi đã làm cái phần việc, cái nghĩa vụ trong phạm vi có thể của mình. Ðôi lúc nghĩ tới Ðặng Quân Chi, tôi cũng hơi buồn buồn. Nhưng biết làm sao được? Những mảnh đời, trong đó có tôi, cứ việc tản ra, cứ việc tụ lại, theo gió, theo bão, cuộc đời rào rạt cuốn đi.



12-1988

CON THÚ BỊ RUỒNG BỎ

 Vài nét về tác giả:


Nhà văn Nguyễn Dậu
 (1930-2002)
Nhà văn Nguyễn Dậu tên thật là Trương Mẫn Song, sinh ngày 25/10/1930 tại thành phố cảng Hải Phòng. Các bút danh khác: Dã Nhị, Tiêu Giản, Thu, Song Yên. Quê gốc ở huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây (cũ). Năm 1946, ông nhập ngũ làm liên lạc, sau đó theo học Trường thiếu sinh quân, Trường sĩ quan lục quân (Trung Quốc),… Sau hòa bình lập lại (1954), ông làm việc tại Phòng Văn nghệ thuộc Tổng cục Chính trị, rồi biên tập viên Tuần báo Văn nghệ, cán bộ Sở Văn hóa Hà Nội. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, hội viên Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hải Phòng. Nguyễn Dậu được ghi tên trong Từ điển Văn học Việt Nam (bộ mới) do Nhà xuất bản Thế Giới xuất bản năm 2005. Ông mất ngày 24/7/2002, tại Hải Phòng.

* Các tác phẩm tiêu biểu: Nữ du kích Cam Lộ (tiểu thuyết - 1955), Đôi bờ (tiểu thuyết - 1957), Mở hầm (tiểu thuyết - 1959), Ánh đèn trong lò (truyện ngắn - 1960), Vòm trời Tĩnh Túc (tiểu thuyết - 1962), Con thú bị ruồng bỏ (truyện ngắn - 1990), Nhọc nhằn sông Luộc (tiểu thuyết - 1995). Hương khói lòng ai (truyện ngắn - 1996), Xanh vàng trắng đỏ đen (tiểu thuyết - 1997)...

* Giải thưởng văn nghệ Nguyễn Bỉnh Khiêm (Hải Phòng) năm 1996 cho tác phẩm "Nhọc nhằn sông Luộc".

CON THÚ BỊ RUỒNG BỎ

(Nhà văn Nguyễn Dậu)

Mỗi năm vào dịp sang thu, tôi lại được mời lên Ba Vì một lần. Đây là một vùng gò đồi rất đẹp. Hàng ngàn quả đồi nõn nuột cỏ xanh, tròn trịa như một mâm xôi. Rồi kế đến là vùng đồi dứa, đồi sim, đồi sơn, đồi trẩu. Càng vào sát chân núi, rừng càng rậm rạp dần, thâm u dần, để trở thành rừng già trùm lấp những tảng đá nguyên sinh nổi tiếng trên non Tản.
Bạn tôi, thiếu tướng Nguyễn Hồng Quyền đã nghỉ hưu và định cư tại nơi đây. Trang trại của ông – có thể gọi như vậy – gồm gần hai chục nóc nhà làm bằng gạch và gỗ, nằm trên một trái đồi hình yên ngựa, xung quanh có hai ba dòng suối nhỏ uốn lượn vây bọc. Xa hơn nữa, một dòng sông mênh mang đỏ rực phù sa, đang cuồn cuộn chảy xuôi, mất hút vào giữa những eo núi hẻo lánh.
Thật ra mảnh đất này không phải là đất tổ của Quyền. Năm 1948 chúng tôi có dịp chiến đấu chống Pháp ở đây. Rồi tới năm 1953 lại một phen nữa, đơn vị chúng tôi nhận nhiệm vụ phá bung hành lang trung du của địch mở lối thông thoát ở miền đồng bằng lên Việt Bắc, qua nẻo Hòa Bình, Sơn Tây, Phúc Thọ. Trong một tối lửa trại liên hoan quân dân, trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Quyền được một cô gái xinh đẹp nhất vùng Bất Bạt say đắm. Ở anh có nét điển xảo của trai Hà Nội, có tư thế hiên ngang, có ngựa hồng, côn-bát là hình ảnh “trai thời loạn” rất dễ làm xao xuyến những trái tim thiếu nữ thời bấy giờ. Họ thành vợ thành chồng. Con cái của họ giờ đã khôn lớn, hầu hết đi công tác ở nơi xa. Cố nhiên họ đã nên ông nên bà, và có một đàn cháu nội cháu ngoại khá đông đúc.
Thiếu tướng là một con người sởi lởi, hào phóng, chí tình chí cốt với họ hàng và bầu bạn. Nhưng ông mắc bệnh gia trưởng quân phiệt một cách nặng nề. Ông yêu thương mọi chiến sĩ, nhưng cậu nào bướng bỉnh, ông cho đi an dưỡng hoặc cho thuyên chuyển tới đơn vị khác không thương tiếc. Ông đùm bọc họ hàng đến hết mình, nhưng chớ nên để ông phật ý. Chỉ một giận dữ nhỏ, ông thù ghét rất lâu, thậm chí đáng buồn là ông ghét họ suốt đời.
Như nhiều người khác, ông cũng mắc bệnh nghề nghiệp. Nghĩa là ông ưa mọi ý muốn của ông phải được chấp hành, mọi rắp tâm phải được thực hiện. Bởi vậy, con dâu về ở cạnh ông đã đành. Con rể cũng phải về ở cạnh ông nữa. Rồi dần dần, một số con cháu trong họ cũng thiên cư đến đây quây quần cùng ông, cho “tre ấm bụi”. Không cần phải khéo léo cho lắm, ở cương vị ấy, người ta dễ dàng “ngói hóa” cho cả xóm. Thế là cái xóm nhỏ gồm toàn con cháu của ông, trở thành trang trại. Sau khi về hưu thì vị thiếu tướng nghiễm nhiên trở thành chòm chóp của trang trại này.
Mới sáu mươi hai, thiếu tướng còn trẻ khỏe hơn tuổi tác. Ông cao lớn đẫy đà hồng hào, dáng đi mạnh mẽ, giọng nói oang oang, tiếng cười rồ rộ, tràn trề sức sống. Tuy đầu óc ông không còn thích nghi với một đơn vị chính quy hiện đại nữa, song ông quá thừa năng lực điều khiển việc sản xuất kinh doanh của trang trại, để cho nó ngày một phồn vinh sung túc.
Ngoài công việc điều hành trang trại, thiếu tướng đặc biệt ham thích săn bắn, câu cá, cờ tướng. Đôi khi, cao hứng lên, ông cũng làm thơ. Những bài thơ Đường luật, lổn nhổn những từ ngữ xửa xưa: sơn hà, tráng sĩ, vung gươm, thôn nữ cửi canh, chinh phụ, bồi hồi v.v…
Bởi tôi cũng thành thạo vài ngón như bắn súng, câu cá và ham cờ, nên vừa là niềm vui vừa là tai họa, mỗi năm ông bạn già ấy lại “buộc” tôi phải lên chơi với ông một lần, thậm chí, ông có lúc còn chèo kéo tôi lên định cư hẳn cùng ông, làm quân sư quạt mo cho ông trên một số lĩnh vực.
Lần này, Nguyễn Hồng Quyền xuống tận Bất Bạt để đón tôi. Thiếu tướng không dùng xe máy “Ban căng” như mọi lần. Thay vào đó, ông cưỡi một con ngựa trắng đực tơ, bốn vó khá dài. Trên tay ông dong theo dây cương một con ngựa hồng cái, có bộ lông rất mượt, có cặp mắt màu vàng chanh, và bộ lông bờm màu hồng thật không gọt xén. Trao cương ngựa cho tôi, ông vừa vỗ về con Hồng, vừa nhìn tôi cười ha hả:
– Sao? Ngạc nhiên lắm à? Có gì đâu, tớ muốn chúng mình lại cùng nhau phóng ngựa, như ngày xưa trẻ trung đã phi ngựa trên thảo nguyên Hoa Bắc ấy mà. Xương sống lưng của tớ thì tuyệt rồi. Mà xương sống của ông thì chắc cũng chẳng kém gì đâu. Đồng ý chứ?
Tôi tỏ vẻ hân hoan. Bởi vì cái gì dính tới thời son trẻ cũng gây cho tôi một niềm ham thích.
– Đồng ý thôi. Chỉ phiền cái xắc du lịch của mình hơi nặng.
– Cứ ghì vào sau yên ấy. Con Hồng không chịu nhường bước con Bạch đâu. Rồi ông sẽ thấy nó phi nước đại hay đến mức nào. Phải tháo kính trắng ra bỏ vào túi áo, kẻo văng mất đấy.
– Cặp ngựa này ông sắm từ bao giờ vậy? Năm ngoái tôi không thấy chúng.
– À, mới lên Lạng Sơn tậu đấy. Lúc thường thì dùng chúng kéo máy ép mía, máy ép dầu. Lúc cần thì đi săn. Săn thú mà không có ngựa tốt để cưỡi thì nguy hiểm lắm. Ông quá rõ điều đó còn gì? Thôi, lên ngựa đi!
Chúng tôi cùng lên ngựa. Quyền huýt gió một tiếng chói tai. Từ bụi cỏ gần đấy, một con chó to lớn mầu trắng đen loang lổ, băng lại cạnh chân ngựa. Nó ve vẩy đuôi, giương cặp mắt xanh thau, chờ lệnh chủ.
Thiếu tướng hể hả, hất hàm hỏi tôi:
– Ông vẫn nhớ nó chứ?
– Làm sao tôi quên được con Tuýt của ông. Không phải chó nữa, mà thực sự là con cọp rừng. Năm nay nó đến bốn chục kilô đấy nhỉ?
Vị chòm chóp của trang trại cười rung cả yên ngựa:
– Bẩy mươi bẩy kilô đấy!
Thế còn con Múc?
– À, Con Múc, cái con trời đánh ấy ông nhắc đến nó làm gì? Rồi thì tôi sẽ cho ông rõ mọi chuyện. Ê, này Tuýt! Mày không kính chào bạn của chủ mày à?
Con Tuýt ngoáy tít cái đuôi dài, “oẵng” một tiếng hùng dũng. Đoạn nó đứng thẳng lên bằng hai chân sau, hai chân trước chụm lại, hướng về tôi mà vái ba vái.
– Thôi, đủ rồi – Chủ nó ra lệnh – Hãy dẫn đường cho chúng tao.
Con Tuýt vọt lên trước. Con ngựa Bạch lao theo. Không chờ giật cương, con Hồng cũng băng lên, phi song song cùng bạn nó. Chúng tôi vùn vụt phi lên đèo, lượn quanh suối rồi lại vượt dốc, băng đèo. Sau lưng chúng tôi, bụi đỏ của vùng đồi đá ong bốc lên cuồn cuộn.
Con Tuýt xứng đáng được chủ nó cưng chiều. Nó bỏ xa đầu ngựa hàng trăm mét. Có lúc nó tạt sang sườn trái, có lúc nó lại vòng bên sườn phải chúng tôi. Bốn chân nó thoăn thoắt, mờ mờ không còn rõ hình hài. Bộ lông khoang của nó như kẻ một đường thẳng trên ngọn cỏ. Đôi lúc, nó đánh hơi thấy một mùi hoang thú nào đó. Nó lập tức rống lên, rẽ ngang vào rừng sơn. Song dù máu săn của nó nóng tới đâu, nó vẫn nghe lệnh chủ mà quay ngoắt trở lại, rồi vun vút băng vọt lên dẫn đầu. Đôi ngựa chúng tôi đang cưỡi đây, cũng rất hăng máu non tơ, dường như muốn đuổi vượt con chó Tuýt. Chúng thở ra hơi trắng, bốn vó dồn dập sải dài nước đại. Sỏi đá, cây cỏ dưới mặt đường, như kéo thành vệt, loang loáng trôi về sau lưng. Nhưng không ổn. Chẳng nói gì ngựa thồ, ngựa ép mía, ngay đến ngựa chiến cũng không thể theo kịp tốc độ của chó săn. Con Tuýt láu lỉnh hiểu ý đôi ngựa. Ngựa phi nhanh, nó tăng tốc nhanh hơn. Ngựa chậm dần, nó hãm đà phóng, cứ lững thững ở mé trước như trêu như chọc.
Quả thật đây là những giây phút sung sướng lành mạnh trong đời tôi. Thuở trai trẻ, chúng tôi được dịp ngồi trên yên những con ngựa cao lớn mà bay vút trên thảo nguyên bao la. Những con ngựa ấy, tôi chỉ đứng ngang bả vai chúng, rất xứng đáng với những cái tên rất kêu: “Thiên-lý-Hoa-lưu”, “Tích-tuyết-ô-truy”, “Xiển-điện-hoàng-phiêu”… so với chúng, thì hai con ngựa nhiệt đới mà chúng tôi đang cưỡi đây, chỉ đáng gọi là những con nghẽo xoàng xĩnh. Song tôi vẫn thấy chứa chan hào hứng. Tôi thầm cảm ơn bạn già, cảm ơn đội ngựa, cảm ơn con Tuýt tinh thông, cảm ơn đất trời mênh mông và cảnh sắc của thiên nhiên hào hùng xung quanh… Tất cả đã khuấy lại trong tim tôi những kỷ niệm đẹp đẽ đã trôi qua, những sôi nổi chỉ còn âm ỉ của một thời xuân sắc đã lướt vào dĩ vãng.
Vị chòm trại đột ngột chụm môi rúc còi lanh lảnh ra lệnh cho chó và ngựa dừng lại bên bìa rừng trẩu.
– Được nửa đường rồi, chúng ta tạm nghỉ một lát. Thế nào, ông bạn, cảm giác về sống lưng ra sao?
Cả hai chúng tôi cùng nhảy xuống. Cương ngựa được cột chặt vào gốc trẩu. Chúng lúc lắc đầu, quạt mạnh đuôi, gõ móng ngựa thậm thịch xuống nệm cỏ, tỏ ý còn muốn được rong ruổi nữa, tuy rằng hơi thở của chúng đã khá nặng nề.
Chúng tôi ngồi xuống nệm cỏ mật, giữa hai hàng trẩu non. Thiếu tướng rót rượu mật ong ra. Chúng tôi cùng nhau tợp vài ngụm rồi hút thuốc lá, loại thuốc sợi vàng óng, đặc sản của Ba Vì. Riêng Quyền, ông nhồi vào tẩu. Ông đã quen dùng tẩu từ mấy chục năm rồi.
Tôi lim dim mắt, hỏi bạn già.
– Tình hình các cháu nội ngoại của ông ra sao? Nhất là cái con Quỳnh ấy?
– Chúng nó đều ăn khỏe, ngủ khỏe. Riêng cháu Quỳnh thì ngoài phần học văn hóa ra, cháu vẫn thích đi chơi trên đồi rừng, vẫn thích làm thơ về rừng. Từ ngày không còn con Múc, nó ít đi rừng hơn. Và tôi cũng cấm cháu nữa.
– Nghĩa là, anh không hề thấy con Múc quay trở về?
– Con Múc trở về ấy à? – Thiếu tướng mỉm cười, lắc đầu nhè nhẹ – Về con Múc, anh sẽ được thấy mọi điều. Hiện giờ tôi không muốn nói cùng anh vội. Nhớ rằng tôi mời anh lên đây lần này khác hẳn những lần trước. Dù rằng anh không ưa săn bắn, tôi vẫn ép anh phải dự cùng tôi một cuộc săn bắn bằng được.
– Một con thú đặc biệt mới xuất hiện chăng?
– Ồ, bí mật quân sự!
Tôi không hỏi gì nữa. Tính nết đến khỉ của cái ông già này là vậy! Khi không, tự dưng ông nói tộc toạc đủ mọi điều. Lúc thích hỏi, thì ông ta lì lì ngậm tăm.
Con Tuýt nằm duỗi chân cách chủ nó chừng nửa mét. Lười thè dài, mầu đỏ hồng có điểm những chấm đen lấm tấm. Thân nhiệt của nó, được xả ra từ đầu lưỡi, bốc thành hơi trắng nóng hầm hập. Hàm răng của nó trắng bóng. Bốn chiếc răng nanh cửa dài và cong, sáng nhoáng đến dễ sợ. Chẳng rõ từ ngày nó ra đời rồi trưởng thành đến nay, bộ nanh ghê gớm kia đã cắn xé biết bao gà lôi, với chim đa-đa, thỏ và chồn, hươu và hoẵng, gấu và cáo. Kinh dị hơn, chủ nó đã đôi lần tường thuật cho tôi nghe những trận ác đấu của nó với gấu ngựa và báo đen. Trong những cuộc cắn xé sinh tử đó, phần lớn nó đã chiến thắng, dù đẫm máu nhưng huy hoàng. Có nhiều phen nó đã sắp bị kẻ thù xé xác, nhờ nòng súng thiện xạ của ông chủ, nó được cứu thoát. Chủ và chó đều có ân huệ sâu xa với nhau.
Nếu như chủ đã cứu chó thoát khỏi cửa tử nhiều phen, thì chó cũng đã dăm bảy bận đưa chủ trở về cõi sống.
Trong các cuộc săn đuổi gay cấn và hấp dẫn lạ lùng kia, thiếu tướng đã hai phen bị báo gấm vồ lén, đã một lần bị gấu ngựa quật ngã. Mỗi lần ngặt nghèo vậy, con Tuýt mới được dịp bộc lộ hết tài năng của nó. Nó nhanh chóng chọn chỗ yếu của hoang thú, để tìm hướng lao vào. Không do dự trù trừ, không hấp tấp sai lệch, nó chồm tới, ngoạm rất chính xác vào cổ họng ác thú mà xé rách bằng hai ba cái quẫy đầu mạnh mẽ. Ác thú bị đòn chí tử, không còn kịp gây thương tích cho chủ nó nữa.
Nguyễn Hồng Quyền thường đắc ý nói với tôi:
– Anh rõ chăng, lúc nó mới chào đời, tôi đã thấy “tướng lạ” của nó. Dưới hàm của nó có ba sợi lông dài màu xanh biếc. Chỉ người sành chọn chó mới hiểu thế nào là “tam tu vi long, nhị tu vi hổ”. Đấy, thế đấy. Chó của tôi thì kém đếch gì một con beo? Này, anh có nhớ thượng tướng Th. không? Cái ông già gàn dở nổi tiếng toàn quân về phong thái “hiên ngang” ấy mà, đã gạ tôi đổi con Tuýt lấy một cặp béc-giê Sibêri đấy. Ồ, xin lỗi! Ngài hãy đổi cho tôi một cặp rồng thực sự, tôi cũng xin kiếu ngài thôi.
Vốn thâm giao, thường niên gặp gỡ, lẽ cố nhiên tôi hiểu rõ lai lịch con Tuýt vô giá kia. Tổ của nó vốn nòi chó săn Na-uy băng giá. Trong trận tiêu diệt đồn Đại Bục năm xưa, giữa hàng trăm chiến lợi phẩm quan trọng, trung đoàn trưởng Nguyễn Hồng Quyền chỉ mừng rỡ khi đoạt được con chó săn này, vốn là kẻ “cận vệ” của tên Pháp đồn trưởng. Ông gởi về nhà, giao cho vợ ông trông nuôi. Trong đàn con cháu của nó, ông Quyền chọn lựa được một con chó cái mầu trắng như tuyết, không pha tạp một sợi lông màu nào. Và ông đặt cho nó một cái tên rất âu yếm: Bạch Ngọc!
Bạch Ngọc có đôi tai nhỏ, dựng đứng. Ức nó nở, bụng nó thon, toàn thân nó chắc nịch như thỏi giò bó. Đôi mắt của nó mang màu da cam, le lói tia sáng. Nó không sủa inh ỏi như chó nhiệt đới, mà lặng lẽ tiếp cận đối thủ, và chỉ tấn công khi nó biết chắc sẽ có một cú đợp chí mạng.
Năm trước một lần về phép thăm nhà, thiếu tướng lấy làm lạ lùng thấy con Bạch Ngọc thường hay lặng lẽ băng mình vào rừng sâu những lúc xế chiều. Ông xỏ ủng da vào chân, xách khẩu AR15, loại tiểu liên cực nhanh, rồi cũng lặng lẽ đi vào rừng, theo hướng đi của con Bạch Ngọc.
Từ xa, dưới một góc trám già nua, ông đã thấy Bạch Ngọc đang đùa giỡn với một con chó rừng vạm vỡ, có bộ lông đen bóng như lụa lĩnh. Ông rón rén vòng theo hướng ngược chiều gió, dần dần tới gần đôi chó bằng động tác đi cực kỳ êm nhẹ của thợ săn lành nghề. Và ông nằm phục xuống quan sát.
Đôi chó quá vui vẻ, nên không hề phát hiện con người đã gần chúng. Nòng súng AR15 đã được nâng lên. Song, chỉ một tích tắc ngắn ngủi, vị thiếu tướng tinh ranh đã quyết định không bóp cò. Ông chỉ rê đầu súng theo hoạt động của con chó rừng đen tuyền kia, mà chờ đợi.
Con chó rừng và con Bạch Ngọc ngửi hít nhau, đùa rỡn vật lộn nhau. Sắp đến lúc phấn khích, con chó rừng rụt cả đầu, cả thân mà chạy thành vòng tròn rộng xung quanh con Bạch Ngọc. Đôi lúc nó ngẩn cao đầu, tru lên từng hồi dài, rồi tung vọt người lên không, nhảy vút từ tảng đá này sang tảng đá khác với niềm cuồng say ghê gớm. Con Bạch Ngọc cũng nhảy nhót, nhưng dường như nó chỉ xoay mình trên tâm điểm. Cuối cùng nó hứng khởi cắn nhẹ vào má con chó rừng, rồi đứng im với tư thế mời mọc.
Quả như ông thiếu tướng dự kiến. Một hiện tượng thiêng liêng của tự nhiên đã diễn ra. Con chó rừng hăm hở làm cái việc gắn đuôi con Bạch Ngọc. Biết chắc rằng đôi chó rừng không thể mau chóng tách rời nhau, thiếu tướng đứng lên, nhẹ nhàng lùi dần ra cửa rừng. Ông ngồi trên một khúc gỗ ẩm ướt, mồi lửa vào tẩu thuốc và ngâm nga một câu thơ gì đó. Ông vui! Một cuộc phối giống vô cùng hiếm hoi mà có dụng ý đến đâu người ta cũng không dám mong ước. Thiên nhiên yêu chiều ông đến thế là cùng.
Chừng nửa tiếng sau, con Bạch Ngọc êm như ru chạy ra. Nhác thấy chủ, nó ngạc nhiên nhưng mừng quýnh. Đôi mắt sung sướng của nó lấp lánh như bốc lửa. Ông Quyền đập nhẹ bàn tay lên đầu nó, nói với nó vài lời trìu mến, khi nhìn thấy từ cục thịt dưới đuôi nó rỉ ra vài giọt máu tươi. Đoạn, cả chủ cùng chó, với niềm hoan hỉ, chậm bước quay về trại. Đó là lần đầu tiên và cũng là lần duy nhất, con người say sưa sát phạt kia đã không nổ súng vào một con thú rừng.
Trước khi lên xe, trở lại đơn vị, ông dặn dò cặn kẽ vợ con cách chăm sóc và bồi dưỡng Bạch Ngọc, đồng thời phải biên thư báo cho ông biết diễn biến của nó từng tuần một. Bà Quyền ngoan ngoãn vâng lệnh chồng! Bà chỉ âm thầm buồn bực vì xưa nay chưa bao giờ chồng bà quan tâm như thế tới bà, tới con gái và con dâu mỗi kỳ thai nghén sinh nở.
Con Bạch Ngọc đã không phụ lòng ông chủ. Nó đẻ lứa đó được bốn con chó con. Con đầu khoang đen trắng, tức con Tuýt. Con thứ hai hoàn toàn đen kịt, có cặp mắt tóe lửa giống mẹ, được đặt tên là Múc, còn hai con kia mang mầu lông xám đậm. Tuy tiếc đứt ruột, vị thiếu tướng vẫn phải tặng một con cho một ông Bộ trưởng có ân sâu dìu dắt ông tự thuở thiếu thời.
Khi Tuýt và Múc được tám tháng tuổi, cũng là lúc ông tướng già được về hưu. Ông dốc hết sức mình vào việc dẫn dắt trang trại ngày một phồn vinh trên đường kinh doanh. Cũng với sự tận tình như vậy, ông chăm sóc, huấn luyện con Tuýt, con Múc cùng một bầy năm sáu con chó săn khác. Tuýt và Múc càng lớn càng khác biệt nhau. Cùng vạm vỡ, cao lớn, cùng ngông cuồng với thiên chức săn đuổi tìm diệt, song con Tuýt được chủ nó yêu quý hơn con Múc nhiều. Tuýt biết phán đoán, ửng xử hầu hết ý chủ. Nó gần như hiểu tiếng người. Ngoài chức trách dữ dằn, quyết liệt và man rợ trong săn bắt, nó rất dịu dàng, quấn quít con người. Chỉ cần dạy bảo đôi lần, nó biết mừng đón và biết vái chào, biết canh phòng và làm vui lòng chủ. Nếu cần sai nó lấy đôi dép, lấy con dao, lấy chiếc điếu cày, nó làm rất khéo. Nếu cần thúc nó trừng phạt gia cầm và gia súc, nó tuyệt đối làm vừa ý chủ.
Con con Múc thì hoàn toàn ngược lại.
Nó không hề thua kém Tuýt về khoản săn đuổi, vật lộn và cắn xé. Nhưng chỉ thế thôi. Nó dửng dưng với những việc mà con Tuýt say mê. Nó không quẩn quanh bên chân chủ, không biết chào đón, lại càng đần độn với những việc chủ muốn sai khiến. Trong cái trại đông đảo người này, nó chỉ thân thiết và gắn bó với riêng cháu Quỳnh. Mỗi lần cháu Quỳnh lên đồi sim, hoặc vào rừng, nó thường đi theo, nửa bước không rời. Những lúc tiễn cháu Quỳnh đi học rồi, nó thường quay về nằm duỗi dài chân ở đầu thềm dỏng tai nghe, chăm chú nhìn. Nó nghe gió ngà, nghe suối reo, nghe mọi động tĩnh trong rừng sâu. Đầu mũi ướt bóng của nó luôn luôn nhún động, để như nắm bắt, như phân biệt, như tận hưởng mọi thức hơi lạ theo gió lùa tới.
Nó thờ ơ như vậy, dần dà, nó bị ông chủ ghẻ lạnh. Ông quên đi những công lao của nó, chỉ còn biết cáu gắt quát tháo mỗi khi nó lỳ lợm không chịu xua đuổi đàn gà quấy phá vườn rau, hoặc không chịu xua đuổi lũ gia súc đang tứ tán trên đồi. Tình hình xấu đến nỗi, ông đã quất cho nó vài ngọn roi da, khi nghi ngờ nó xơi tái mất hai con gà trống Đông Cảo, mà ông lận đận về mãi miền Từ Hồ mới mua được.
Trong nghề săn bắn và nuôi dưỡng chó săn, ai cũng biết rằng người ta tuyệt đối tránh ngược đãi chó của mình. Sự trung thành sẽ mất đi, nếu con chó bị trừng phạt oan uổng. Một con người tinh ranh và sáng suốt như thiếu tướng Hồng Quyền mà cũng phạm phải sai sót đó, thật đáng buồn biết chừng nào.
Sở dĩ ông thù ghét nhưng chưa nỡ ruồng bỏ con Múc vì hai lý do. Thứ nhất, ông sợ cháu Quỳnh buồn. Ông yêu thương và quý báu cháu Quỳnh, còn cháu Quỳnh thì lại trìu mến con Múc như một bạn nhỏ thân thiết. Thứ hai, hồi đầu năm, con Múc lập được một chiến tích có thể xem là phi thường được.
Những ngày đầu xuân, mưa phùn và nắng ấm, làm cho rừng già trở nên tươi rói vì những búp nõn và chồi non. Tại các nẻo đồi mươn mướt từng đợt cỏ xanh mềm như nhung lụa. Muông và thú trong rừng sau đợt nghỉ đông hoặc ngủ đông dài dặc, bây giờ bừng tỉnh, nhộn nhịp đi kiếm ăn, tìm đôi, phối giống, và sinh sản.
Một đàn lợn rừng từ bên kia sông Đà, đã ùa sang bên này. Các đồi lạc, đồi dứa của trang trại bị lợn rừng tàn phá nặng nề. Ông Quyền cùng Quý, con trai thứ ba, quyết định rủ nhau đi săn bắt đàn lợn rừng tệ hại kia. Lợn rừng chậm chạp, chỉ cực kỳ hung dữ khi bị dồn vào tử địa. Có khoảng sáu con họp thành đàn, đang trũi húc vào các luống lạc. Khi phát hiện ra có người và chó vây bủa, chúng mở đường máu lao về phía sông Đà. Chúng đi, tựa sườn vào nhau, hai nanh dưới to bằng ngón tay trỏ, nhe ra, lông bờm dựng đứng. Đàn chó phân vân, không biết nên tấn công đàn lợn bằng cách nào. Những mảnh đạn ghém tuy trúng đích cũng không khiến chúng ngã được, bởi lớp mỡ quá dày.
Bản thân vị thiếu tướng cũng có phần lúng túng, chưa có cách nào để đạt kết quả tối ưu. Trong khi đó, đàn lợn vẫn rất trật tự, tựa sườn vào nhau mà lần lượt xuống sông bơi đi hết. Riêng có con đầu đàn, khổng lồ, không hiểu sao nó lại không lao xuống nước. Nó dừng chân bên bụi lau, và quay đầu trở lại. Đôi mắt nhiều lòng trắng của nó long sòng sọc. Nó tru hộc lên, những chiếc lông cứng và dài như lông nhím dựng đứng suốt từ gáy tới lưng. Hai chiếc nanh trước trắng bóng, cong cong của nó chĩa ngược lên trời với vẻ đe dọa không thể không làm ta rùng mình.
Con Tuýt bị chủ thúc xông lên. Chính nó cũng chần chừ. Bởi vì giống chó săn thường chỉ đánh vào điểm yếu nhất của đối thủ là hầu họng. Các loại hoang thú thường để lộ cổ họng, dù có lớp mao bao bọc. Với lợn rừng lại là chuyện khác. Nó hầu như không có cổ. Lớp mỡ dầy đặc ứ bự xung quanh vùng mặt, nối liền bả vai và xương ức.
Bị hối thúc vì lệnh chủ, con Tuýt nhảy vào. Nó ngoạm đúng phần má của con mồi. Nhưng nó đã bị trừng trị trở lại. Con lợn rừng chỉ hất mạnh cái mũi lên, hai chiếc nanh nhọn đã đóng ngập vào xương sườn con Tuýt. Con Tuýt rống lên đau đớn, nhưng nhanh nhẹn, nó vùng thoát rồi chạy về bên chủ, máu chảy đầm đìa. Ông thiếu tướng kinh hoàng vì đấu sĩ số một của ông chiến bại. Ông lập tức nâng khẩu AR15 lên. Cùng lúc ấy con Múc đã xông tới. Ông liền ngừng lại để xem bản lĩnh của con Múc. Con Múc hiểu rằng, qua cú đòn đau của con Tuýt, nó không thể ngoạm cổ con lợn rừng được. Nó liền chạy vòng quanh con mồi. Con lợn rừng hung tợn và lỳ lợm cũng xoay tròn thân mình, đôi mắt trắng sáng không rời con Múc. Bất thình lình, đang đà chạy bình thường, còn Múc nhảy vào con lợn. Nhưng khi gần tới cổ lợn, nó ngoặt người đổi hướng và đợp rất chính xác vào cẳng chân sau của con mồi. Tiếng xương gãy nghe ròn lắc rắc. Con mồi rống lên, nhưng con Múc đã vọt được ra xa. Lợn rừng hung tợn lên gấp trăm lần. Nó khập khiễng nhưng nhanh nhẹn xông vào tấn công bất kỳ ai. Cũng may hôm ấy tất cả đều ở trên mình ngựa, nên bầy ngựa nhảy dạt ra khá nhanh nhẹn. Cơ hội tốt đẹp đó tạo thuận lợi cho Múc. Trong khi con lợn xông theo con ngựa của ông Quyền, thì từ mé sau, con Múc băng tới, và ngoạm vỡ xương chiếc chân bên kia của con lợn. Lúc này con lợn mới rống lên thảm thiết. Gãy hai cẳng giò mé sau, nó không còn sức bật sức dướn nữa. Nó nằm bẹp xuống, điên cuồng dũi răng nanh vào đất đá, làm cho đất đá bị lõm thành một hố sâu. Phần còn lại, Múc dành cho người và bầy chó kia kết thúc. Nó đứng im, vừa thở vừa ngắm nghía con mồi bị nó đánh gục.
Sau cái chuyện đó, ông Quyền, với con mắt người đi săn thấy rằng ở con Múc còn nhiều tiềm năng ghê gớm, mà chỉ khi lâm sự nó mới bộc lộ ra. Còn với cặp mắt của người chủ, ông vẫn không xóa bỏ được mối ác cảm đối với “tên đày tớ” ương bướng này.
Trở về trại, ông chăm sóc chu đáo vết thương con Tuýt, nhưng việc cần phải làm là ban thưởng cho con Múc thì ông không làm.
Năm trước lên thăm và ở chơi cùng ông Chòm Trại, tôi đã thân ái nhắc nhẹ ông về tính công bằng, và sự cần thiết phải gạt bỏ thành kiến. Song, ông bạn già của tôi vốn không thể cao cả hơn thượng đế được, mà chính thượng đế rất bảo thủ. Ông cười, chế nhạo lại tôi:
– Trừng phạt và ưu ái là hai mặt của sự chăm sóc và gây dựng. Nếu con Múc muốn tôi ưu ái nó thì nó hãy ngoan ngoãn như con Tuýt. Tôi có hẹp hòi gì đâu? Mà, có nực cười không nhỉ, khi anh thấy cần giảng dạy cho tôi về mặt nuôi dạy chó săn?
– Về việc đào tạo chó săn thì anh hơn tôi không chỉ một, mà là hàng vạn lần. Tôi chỉ lưu ý anh về tính di truyền sinh vật. Theo anh kể, bố nó là giống chó rừng thuần chủng. Còn mẹ nó là nòi giống của loại chó tinh quái có nguồn gốc hàn đới xa xôi, đã được thuần hóa. Con Tuýt được thừa hưởng cái gien máu của mẹ nó quá nhiều. Còn con Múc thì ngược lại, nó giống bố nó từ thể hình, màu lông và tính cách. Ở nó tính “rừng” đậm hơn tính “nhà”.
Thiếu tướng cười vang vọng, đắc thắng:
– Theo ý anh thì con hổ và con voi rừng có mang tí tính “nhà” không? Vậy mà người ta dạy nó làm xiếc được đấy. Vấn đề là nó có ngoan ngoãn không? Có phục tùng không?
– Nhưng anh đã có tình thương yêu và tính kiên nhẫn của những nhà dạy thú chưa?
Ông tướng già quen với việc ra mệnh lệnh lúc này mới im bặt. Ông trầm ngâm giây lâu, đoạn vỗ vai tôi:
– Này, mình tặng con Múc cho ông đấy!
– Tặng tôi?
– Mình rất thực tâm. Có lẽ ở cùng ông thích hợp cho nó hơn.
– Ôi, cảm ơn tình bạn của anh. Nhưng, tôi biết dùng nó vào việc gì? Chả lẽ để nó canh chừng những con sâu mọt đục phá cái bàn viết của tôi à? Vả chăng, tôi biết kiếm đâu ra thịt sống để nuôi nó, trong khi chính tôi cũng chả có thịt mà ăn?
Chúng tôi lại cười, và cùng cười rồ rộ. Nguyễn Hồng Quyền không phải con người lúc nào cũng cố chấp, ông ta chỉ bướng bỉnh lúc nào bị sự ngu dốt xúc phạm. Trộn lẫn trong tim ông có tính hồn nhiên, phóng khoáng, tự phụ và hiếu thắng, nên nói chung, ông ta không giận bực lâu. Sự hào phóng và khoáng đạt vẫn là phong thái chủ chốt của ông.
Tuy chưa hoàn toàn gạt bỏ sự căm ghét con Múc, song ông xem chừng cũng muốn mối quan hệ xấu ấy được đổi khác đi. Một hôm, để con Tuýt ở nhà, ông gọi riêng con Múc ra sông tắm cùng ông. Chủ và chó cùng bơi lội đùa nghịch. Ông ôm con Múc vào vòng tay, ngắm nghía những sợi lông dưới cằm nó. Ông sờ nắn những cái móng đã thoái hóa ở cổ chân nó, (phương đông gọi là huyền đề).
Lúc đầu con Múc le lói ánh mắt đề phòng người chủ. Chưa khi nào nó được ông gần gũi, xoa vuốt như lần này. Nên, với bản chất rừng, nó hoang mang nghi ngờ ông. Cử chỉ của nó rất e dè, thận trọng. Có lúc tưởng chừng như nó sắp sửa muốn liếm tay, liếm mặt ông nữa, nhưng khi gần sát ông, nó liền đứng khựng và trở lùi. Lưỡi nó lè dài, mắt nó rừng rực ngắm thẳng vào mắt ông. Người và thú cùng dò xét nhau và cùng chưa xóa bỏ được định kiến. Con Múc không biết nói gì, cái đó đã hẳn. Những cử chỉ để giải tỏ lòng trung, nó cũng không thạo nữa. Nó biết làm sao đây để ông chủ hiểu rằng mặc dù bị ông ghẻ lạnh, ruồng rẫy, nó vẫn yêu mến ông, vẫn muốn gắn bó với cái trang trại này, cái cơ ngơi này.
Một đêm mưa rét, khi con Tuýt và bầy chó săn kia đi tìm nơi ấm áp ngủ ngon, con Múc đã phát hiện thấy một con báo gấm đang quẩn quanh ngoài hàng rào mắt cáo, tìm lối vào trại. Nếu là con Tuýt hoặc chó khác, đã sủa ngậu lên, báo hiệu cho chủ. Với Múc, nó không ồn ào thế. Nó xù lông, nhảy vút tới bên bờ rào, đôi mắt tóe lửa. Con báo gấm, một ác thú nham hiểm bậc nhất ở rừng sâu, vừa gầm gừ nhè nhẹ, vừa chạy đi chạy lại tìm một lỗ hổng to rộng. Con Múc cũng gầm gừ nhè nhẹ, bám sát con báo gấm từng bước chân để ngăn chặn. Nếu không có hàng rào tre khỏe khoắn, chắc chắn đã diễn ra một cuộc cấu xé đẫm máu, mà phần bi thảm hẳn thuộc về con Múc. Bởi vì chó rừng, dù hung hãn, đồ sộ tới mức nào cũng không phải là đối thủ của báo gấm. Khi đói khát, bị cơn đói cồn cào kích thích, báo gấm dám liều lĩnh tấn công và cắn xé cả cọp rừng.
Cứ như vậy, hai con thú trong cái thế đối chọi qua lớp rào tre, suốt đêm mưa gió. Đã mấy lần báo gấm định leo trèo hàng rào cao. Nhưng nó biết rằng khi leo rào, nó sẽ bị phơi bụng ra. Một ác thú nham hiểm đâu có dại dột vậy.
Lúc trời tang tảng sáng, con báo gấm đành rống lên một tiếng căm hờn, vút thẳng vào rừng. Con Múc ướt sũng, mệt mỏi bơ phờ, trở về nằm dài ở cửa buồng cháu Quỳnh.
Chính cái lần ấy, khi thấy con Múc rũ rượi, thảm hại vì suốt đêm căng thẳng, ông chòm trại đã chỉ vào mặt nó mà mắng:
– Mày giấu đôi gà Đông Cảo của tao ở góc nào, hang hốc nào. Đêm qua mưa gió lẻn đi làm một bữa hả hê phải không?
Chiến công quật ngã lợn rừng đầu đàn làm cho mối quan hệ chủ và chó có phần đẹp hơn. Nếu cứ cái đà ấy, cái đà mà chiến tích của Múc ngày càng vượt trội Tuýt, thì số phận của nó sẽ đẹp đẽ nhường nào. Nhưng hỡi ơi, định mệnh của nó nghiệt ngã, số kiếp của nó có chứa sẵn một kết cục ảm đạm, nên đã xảy ra một việc cực kỳ phi lý như sau:
Vào độ rằm tháng bảy, khắp nơi người ta náo nức sửa soạn cúng lễ vong hồn tiên tổ. Về phần mình, ông thiếu tướng với cương vị chòm chóp của trại, ông làm hẳn cỗ thái lao, để trước là tỏ lòng tri ân tổ tiên, sau là ban ân cho con cháu. Thái lao, theo tục cổ là lễ tam sanh, gồm có một trâu trắng, một ngựa trắng và một dê trắng. Ông Quyền không thể quá ư nệ cổ, nên biến báo đi chút ít: một lợn trắng, một dê trắng và một gà trắng. Thế, e là cũng quá linh đình rồi. Dê và lợn đã được quay hồng. Gà thì được rán chín cả con. Tất cả bầy đặt trên bàn thờ tổ.
Con Tuýt quanh quẩn dưới gầm bàn thờ. Mùi vị thịt rán kích thích tì vị nó dữ dội, xưa nay nó chỉ biết mùi thịt sống và cũng chỉ ăn toàn thịt sống. Người nuôi chó săn thường dùng máu nồng và thịt gây để kích thích tính hăng say xâu xé. Chưa bao giờ Tuýt được ngửi hít hương vị thơm tho lạ lùng đến thế.
Trên gian thờ tổ vắng ngắt.
Cánh mũi của Tuýt phập phồng nở rộng, nước rớt nước dãi của nó lều rều theo đầu lưỡi xuống đất. Bằng một động tác còn nhanh hơn ma quỷ, con Tuýt nhảy lên ban thờ, ngoạm chắc lấy con gà quay, rồi vọt ra cửa. Nó toan tính phóng thẳng ra nơi vắng vẻ bên bờ suối.
Tại hiên hè, nó gặp con Múc đang nằm ở buồng cháu Quỳnh. Cũng lúc đó, tiếng đế ủng của ông chủ thậm thịch nơi xa. Nó vội nhả con gà quay ra, nhảy tót vào cửa ngách, rồi êm như động tác của mèo cái, nó vọt qua cửa sổ, mất hút.
Ông thiếu tướng tròn xoe mắt nhìn con gà thái lao có vết răng chó bập vào, rồi ông trừng mắt nhìn con Múc nằm gần đó. Giận sôi sùng sục, ông vào nhà ngang lên tiếng gọi vợ con. Đoạn, ông rút chiếc roi gân bò, chạy đến bên con Múc.
Múc không hiểu người ta định làm gì, song nó linh cảm thấy sự chẳng lành. Nó đứng phắt dậy toan mừng chủ chút ít thì một loạt roi da xiết bỏng trên lưng nó. Con vật rú lên thê thảm, nhảy vọt ra sân, nhưng vẫn còn bàng hoàng ngơ ngác, chưa dám chạy xa hẳn. Chỉ đến lúc nhác thấy ông chủ giằng lấy khẩu súng hai nòng trên tay cậu Quý, thì nó hiểu rằng không thể chậm trễ chút nào. Từ cái “gậy” sắt ấy nó đã thấy tóe lửa nhiều lần. Sau lúc lửa tóe, có bao muông thú giãy giụa tan xác.
Bởi vậy, nó dồn hết sức lực vào bốn cẳng, luồn lỏi qua dãy chuồng gà, chuồng lợn, rồi vượt qua cửa rào, nó lao thẳng về phía rừng. Sau lưng nó, vang lên những tiếng nổ đoàng đoàng, tiếng chiu chíu xé gió bên tai nó. Bản năng sinh tồn giục nó chạy miết. Cũng chưa khi nào nó chạy tinh khôn như lần này. Không kẻ chỉ, không thẳng băng, mà ngoằn ngoèo đổi hướng. Có lúc tiếng đạn sát sạt trên lưng, nó nằm lăn ra, giả tảng chết. Rồi thình lình lại vọt lên, băng đi như một vệt đen mờ ảo.
Vào tới rừng, nó đứng lại quay nhìn xóm trại. Nó thoáng thấy ông Quyền và cậu Quý trên yên ngựa. Dẫn đầu đàn chó săn tầm thường là con Tuýt – anh ruột nó, kẻ xảo quyệt đáng ghê đối với nó. Thế là nó chạy thẳng, chạy mãi vào rừng sâu, sang tận bên kia núi Ba Vì.
Từ đó nó trở về cuộc sống hoang dại mà tổ tiên nó xưa kia hằng sống.
Ngồi một lúc, chúng tôi cùng nghiêng người, nằm chống tay trên nệm cỏ. Xa xa, ba đỉnh núi màu lam sẫm như lách qua những dải mây trắng mà chĩa chọc nền trời xanh. Núi non Ba Vì thuần một màu đen sẫm của rừng già. Đó đây từng vệt lá cây màu vàng màu, đỏ xỉn, và màu xanh nõn nuột của rừng cọ, rừng son.
Thiếu tướng Quyền gõ gõ tẩu thuốc, gảy hết lượt tàn tro, đoạn nạp thêm mồi sợi mới. Ông nheo mắt nói với tôi:
– Lúc nãy anh cứ gặng hỏi xem tôi mời anh lên để săn bắn con thú gì. Tôi nói thật ra, e rằng anh ngạc nhiên.
– Con Múc?
– Chính thế. Anh nhanh ý đấy.
– Quả thật không còn gì khiến tôi kinh ngạc hơn. Con Múc vẫn còn sống, anh cứ để cho nó sống. Nó đã giúp ích anh không ít. Anh hãy rộng lượng cho nó được tự do.
– Tôi cũng có ý quên nó đi. Nhưng nó làm hại tôi quá chừng. Tôi không thể không diệt nó.
– Làm hại?
– Chừng một năm nay, nó thường xuất hiện ở bìa rừng. Có lúc nó còn mò vào trại. Thậm chí nó còn dám xông vào buồng cháu Quỳnh.
– Thế thì có gì là tai hại? Nếu như là nó muốn quay về với chủ cũ thì sao? Chuyện ấy xưa nay thường xảy ra.
– Ông bạn ơi, ông quá đồng cảm với nó đấy. Một năm nay tôi đã mất hai chục con gà, bốn đầu lợn và hai con dê sữa đấy. Để khi nào tôi găm vào mình nó trọn băng đạn AR15, rồi tha hồ ông thương xót nó.
– Nếu là do cầy cáo và báo beo vồ bắt thì sao? Chẳng có chó rừng nào khênh nổi dê lợn đâu, nhất là lại khênh qua hàng rào tre nhà anh.
Thấy mình đuối lý, ông chòm trại đỏ mặt, châm thuốc hút:
– Cứ cho là beo báo tha dê và lợn đi, còn những con gà? Anh không thấy là con Múc nó rất háu thịt gà à? Đôi gà Đông Cảo và con gà Thái Lao… anh đã rõ rồi đấy!
Đến lượt tôi đuối lý. Tôi im lặng hồi lâu. Lòng tôi bồn chồn và buồn bã. Tôi chợt thấy tiếc công tiếc việc ở dưới Hà Nội. Té ra tôi lên đây là để chứng kiến cái kết cục mạng sống của con Múc.
Thiếu tướng hỏi tôi:
– Sao, ông nghĩ ngợi gì vậy?
– Không, à, con Múc giờ đây nó thế nào? Ông đã đích mắt nhìn thấy nó chưa?
– Rồi. Tôi lại bắn trượt nó hai lần nữa. Thật là một con chó quái quỷ lạ lùng. Nó to lớn gấp rưỡi, hung dữ gấp mười, còn nhanh nhẹn thì gấp trăm.
– Để sinh sống và tồn tại giữa bầy ác thú trong rừng sâu, nó cần phải trưởng thành như vậy. Nó không thể không độc dữ hơn.
– Anh vẫn cứ bênh nó chằm chặp.
– Tôi tiếc rằng anh đã bất công với nó. Trong trường hợp bị hắt hủi, bị hằn thù như vậy, đến con người cũng không thể không biến đổi tính cách, huống chi một con thú.
Chúng tôi lại lên ngựa. Con Tuýt lại dẫn đường. Có thể do cách nói năng bộc trực của tôi, khiến bạn già không vui. Dọc đường ông chẳng nói một câu nào. Bởi vậy, tôi biết mình sai lầm. Định kiến của con người quen bệnh quyền uy kia là không thể thay đổi. Tôi tỏ lòng thương tiếc con Múc nhiều quá, điều đó chỉ khiến ông Quyền càng tăng thêm quyết tâm hạ sát nó mà thôi.
Thấy chúng tôi phi ngựa về đến cổng trại, bà Quyền và đàn con cháu ra tận sân chào đón. Bà năm nay đã ngót sáu mươi. Vóc người mảnh mai, nhỏ nhắn, nên trông bà không đến nỗi già nua như tuổi tác. Trên vẻ mặt thanh tao của bà vẫn còn những đường nét vốn xưa xinh đẹp. Song, ở bà, điều hấp dẫn người ta chính là phong thái đôn hậu, hiền từ. Cạnh bà là cháu Quỳnh, cũng mảnh mai hiền từ, cũng gương mặt trái xoan, trông cháu giống bà ngoại như đúc.
Cháu nhảy bổ vào lòng tôi:
– Cháu chào ông trẻ. Ông có khỏe không ạ?
Tôi nâng bổng cháu lên, rồi hạ cháu xuống:
– Cảm ơn cháu! Ông trẻ vẫn khỏe. Còn cháu cứ mỗi năm lên đây, ông lại thấy cháu như ăn nhầm phải bột nở ấy. Cao bằng bà rồi đây này.
Cả nhà cùng cười giòn giã. Bà Quyền hào hứng nói:
– Ấy, ông cứ quở cháu thế. Cháu lại bé đi mất!
– Nghe nói cháu bị con Múc làm cho sợ hãi, phải không?
Cháu Quỳnh cười như nắc nẻ:
– Cháu chả việc gì phải hãi con Múc cả – Cháu ghé sát tai tôi, thì thào – Rồi cháu sẽ kể mọi điều về con Múc cho ông trẻ nghe. Chứ mỗi lần nhắc đến con Múc, ông ngoại cháu ghét lắm!
Thiếu tướng Quyền quát to:
– Quỳnh, mày nói gì ông phỏng?
Cháu Quỳnh vội vàng “không ạ” rồi lẻn ra nấp sau lưng bà. Bà Quyền xót cháu, cằn nhằn chồng:
– Khiếp cho ông! Làm cháu mật xanh mật vàng chạy cả lên mắt thế này này – Bà quay sang phía tôi, cười – Lên đây, ông giúp tôi một tay, cạo cho ông ấy bớt cái nóng nảy đi.
Ông Quyền hỏi vợ:
– Cạo tôi? Cạo đầu tóc, hay cạo râu ria?
– Cạo cái cặp mắt gườm gườm của ông ấy!
Ông già cười khà khà.
Một chút xung đột ý kiến không làm sứt mẻ tình bầu bạn giữa chúng tôi. Chỉ vài câu chuyện vui vui, hoặc vài ván cờ là tất cả sẽ qua đi như mưa rào ngày hạ. Nói chung thì, theo ý tôi, Nguyễn Hồng Quyền là một người biết chơi đẹp, biết ăn ở, biết cư xử. Trên đời còn nhiều những mẫu người đáng chán hơn; hãnh hợm một cách ngu si, thông thái trong tưởng tượng, hào phóng có điều kiện, và ngủ say li bì trên hào quang giả trá.
Chúng tôi đi bơi, đi câu cùng nhau. Ông dắt tôi đi xem tận mắt những máy ép mía do ngựa kéo, rồi máy ép dầu lạc, dầu sả. Ông còn dự định chế tạo một loại xà phòng dùng nguyên vật liệu địa phương. Tôi vui mừng và chúc mừng ông về tất cả mọi điều ấy. Ở ông hiện rõ những ham muốn vật dục chủ nghĩa. Nhưng, dẫu sao cũng là còn muốn làm việc, còn muốn sáng tạo, muốn sinh lợi. Thế chẳng có ích cho đời hơn là chỉ ngồi ôn lại quá khứ hào nhoáng đã xa xôi sao?
Duy có điều tôi mong được biết là kế hoạch vây bủa con Múc. Ông già chỉ tinh quái, lim dim mắt, cười ruồi, rồi lảng sang chuyện khác. Tôi làm sao yên tâm được. Tôi biết rằng chỉ khi nào găm đủ cả băng đạn vào mình con Múc, ông Quyền mới có thể ăn ngon ngủ yên. Lay chuyển ý định phi lý trong đầu ông thiếu tướng, có lẽ còn khó hơn vần đá tảng ngược tới Ba Vì.
Người được gặp gỡ con Múc nhiều nhất lại chính là cháu Quỳnh.
Chuyện đáng buồn xảy ra với con Múc khiến cháu giận dỗi ông ngoại. Cháu khóc liền mấy ngày, bỏ ăn mất ba bữa, và ngẩn ngơ thương tiếc không lúc nào nguôi.
Hơn nửa năm sau. Một hôm cháu lên đồi kiếm sim chín và hoa rừng thì bất ngờ cháu gặp con Múc đứng ngay trước mặt cháu và ve vẩy đuôi chào mừng. Quỳnh không tin vào mắt mình nữa. Cháu nhìn chó, sợ hãi. Con Múc lông lá sồm soàm, bẩn thỉu và dữ tợn quá. Thấy con thú cứ ngoáy tít đuôi mãi, cháu bạo dạn hỏi nó:
– Mày có phải là Múc không? Nếu là Múc thì lại đây với mình! Nào!
Nói xong cháu ngồi xuống, giang hai tay ra. Con Múc xô vào người Quỳnh hơi mạnh, làm cháu suýt ngã ngửa ra. Đôi bạn thân thiết ấy, làm mọi cử chỉ có thể làm để tỏ tình thương nhau. Con Múc hôi tanh nồng nặc, nhưng Quỳnh cứ để mặt nó liếm lên má, lên tóc cháu. Cháu ứa nước mắt, hỏi nó:
– Bạn ở rừng sâu à?
-!
– Bạn có khổ với lũ hổ báo không?
-!
– Bạn có bị đói luôn không?
Con chó chỉ biết rít ứt trong họng, cà sát bộ lông vào người cô chủ của nó. Phải nửa tiếng sau, Quỳnh mới buồn rầu rời chó.
– Bạn không về được đâu. Ông mình sẽ giết chết!
Con chó hiểu ý ấy. Nó oẳng nhẹ một tiếng. Đôi mắt của nó nhoáng ánh lửa, ve vẩy đuôi một lần nữa, liếm bàn tay Quỳnh một lần nữa, rồi băng vút về rừng.
Từ đó, cứ cách vài buổi, cháu Quỳnh lại lên đồi sim một lần. Lần nào con Múc cũng đợi sẵn. Mỗi lần vậy, đôi bạn lại trìu mến ve vuốt nhau, rồi lại bịn rịn chia tay.
Nếu tôi là một cây bút giàu sức tưởng tượng và không biết kiềm chế, tôi sẽ lợi dụng đặc thù của văn chương mà viết vài đoạn thật hay. Tôi sẽ thêu dệt rằng: Một lần cháu Quỳnh gặp gấu ngựa ở trong rừng, con Múc đã tung hết sức lực ra để vật lộn với gấu cứu cô chủ. Hoặc giả là: Có lần cháu Quỳnh bị trăn quấn. Con Múc đã bật vọt lên cao. Khi buông mình rơi xuống nó ngoạm đúng “thất thốn” là tử huyệt của giống trăn. Nó cắn xé đến nỗi con trăn phải từ từ nới bỏ vòng quấn, cô chủ nó thoát nạn. Cũng có thể lãng mạn hơn, tôi viết rằng: Có lúc người và chó ngồi dưới ánh trắng bên bờ suối, rồi con Múc rúc lên lanh lảnh từng hồi, gọi bạn tri âm của nó cùng một đàn chó xinh xắn ra chào mừng cô chủ.
Nhưng bởi vốn có tính thận trọng một cách hủ lậu, tôi không thể bịa đặt như vậy. Về mối quan hệ lạ lùng kia, tôi chỉ có thể nói thêm điều này. Một lần, cháu Quỳnh bị cảm cúm nặng. Hơn chục ngày liền, cháu không thể ra đồi sim gặp con Múc. Nửa đêm cháu nghe thấy có tiếng cào cửa quen thuộc. Cháu vui mừng chạy ra tháo chốt cài. Con Múc tọt vào, âm thầm quấn quýt cháu Quỳnh. Không may cho nó, con Tuýt và lũ chó săn kia phát giác đã sủa nhặng lên, rồi chặn kín cửa ra vào. Con Múc nhe nanh xông thẳng vào con Tuýt như một ánh chớp. Con Tuýt không ngờ rằng con Múc đã biến đổi mạnh mẽ dữ dội nhường ấy. Bị cắn xoạc bả vai, nó lăn ra sủa rống lên. Bày chó kia kinh hãi không dám nhúc nhích. Con Múc nhảy vọt qua đầu lũ chó săn, biến vào đêm tối.
Ông Quyền đã gạn hỏi cháu gái đủ điều. Cháu Quỳnh chỉ khóc thút thít, không hé lấy nửa lời. Ông liền tuyên bố với cả nhà:
– Con Múc lọt vào trại để trả thù. May có con Tuýt không thì cái Quỳnh bị xé xác ra rồi. Từ nay cả nhà phải cẩn thận lưu ý. Cái giống chó đã thù là thù dai lắm đấy!
Ông băng bó vết thương cho con Tuýt, ban thưởng cho nó khá hậu hĩnh: một ký thịt nai rất tươi.
Dù sao trẻ thơ vẫn là trẻ thơ, ông cháu vẫn là ông cháu. Cháu Quỳnh sợ tính ông nghiêm nghị, giận ông xử nặng con Múc, nhưng nó vẫn rất yêu ông ngoại. Ông cháu làm lành với nhau, thân thiết với nhau vì sợi dây huyết thống bí ẩn ràng buộc.
Vào dịp rằm tháng tám, ông Quyền dùng xe máy đưa cháu Quỳnh đi Hà Nội sắm đồ chơi trung thu cho các em nhỏ. Ông còn đưa cháu đi vào lăng viếng di hài Bác Hồ. Cháu sung sướng. Cháu hớn hở. Trong một phút bồng bột hồn nhiên. Cháu nũng nịu vòi vĩnh ông ngoại:
– Ông ơi, ông cho cháu đón con Múc về nhé?
– Ừ, ông đồng ý, nếu cháu tìm thấy nó?
– Cháu tìm được thì sao nào?
Ông thiếu tướng cười phì:
– Đến mười cái thằng bố mày, đến mười cái thằng ông mày cũng chả tìm nổi, nữa là…
Qua vẻ mặt và ánh mắt của cháu gái, ông chòm trại dường như phát hiện ra điều gì. Ông bèn gặng hỏi cháu gái:
– Cháu thấy nó rồi phải không?
– Vâng ạ.
– Ở đâu?
– Nhưng ông phải hứa với cháu là không giết nó cơ.
– Ừ, ông hứa!
Cháu gái hào hứng kể cho ông ngoại nghe hết mọi điều đoạn kết luận:
– Cháu thấy là nó, con Múc ấy, nó chẳng có lỗi gì đâu ông ạ.
– Nó ăn gà, ăn dê, ăn lợn…
– Cháu chả thấy tận mắt khi nào. Nhà mình có nhiều chó hư. Sao ông chỉ nghi ngờ mình nó thôi?
– Nó không vâng lệnh. Nó không chịu sai khiến như con Tuýt, thế cũng là tội to rồi. Những quân bướng, cần phải nghiêm trị.
Ngày hôm sau cháu Quỳnh lên đồi sim với con Múc. Ông già chòm trại lặng lẽ xách súng đi theo cháu gái, cách chừng ba trăm mét. Cháu Quỳnh không thấy con Múc đâu. Còn ông già thì thoáng thấy. Tuy không nhìn rõ hình thù nó, song ông thấy các bụi sim lay động ràn rạt, ông biết rằng con Múc đã nhìn rõ ông. Nó chuồn biến như tăm cá mất hút dưới đáy sông. Cháu Quỳnh hoàn toàn không rõ gì về việc ông nó đi theo mé sau cả.
Những lần sau, mỗi khi cháu Quỳnh lên đồi sim, ông già thường gói cho cháu một ít thịt rán tẩm bột, bảo đem cho con Múc. Cháu gái cảm động ứa nước mắt, tưởng rằng ông ngoại đã thực sự hồi tâm chuyển ý, sẽ cho đón con Múc về. Còn ông già cũng rất vui sướng khi cháu gái khoe với ông rằng con Múc đã ngốn sạch sành sanh gói thịt rán, đến nỗi không còn tí mỡ dính lá chuối.
Một buổi chiều, tôi sang làng Ngọc Nhi, thăm mấy người bạn cũ trở về. Vào đến sân, tôi ngạc nhiên khi trước mắt tôi là quang cảnh sửa soạn đi săn: người ngựa, súng ống, dây chão và đòn khiêng. Bày chó săn ngồi thành vòng tròn chờ đợi chủ. Con Tuýt lăng săng chạy đi chạy lại. Nó ve vẩy đuôi, đứng nghếch nghếch mắt nhìn chủ, chờ đợi sai khiến, hoặc đi giám sát từng con ngựa, cứ y như là một viên phó quan của cuộc săn vậy.
Thiếu tướng với vẻ mặt đỏ gay, cặp mắt lóng lánh có nhiều sợi lông mày bạc trắng cong rủ xuống quanh mi. Mỗi lần mở cuộc săn bắn, ông thường có vẻ say sưa, kích động như vậy.
Tôi hỏi lại ông:
– Săn gì vào cái giờ chiều này?
– Chó rừng!
– Con Múc phải không? Anh miễn cho tôi can dự vào cuộc sát phạt này nhé.
– Không được! Anh phải tận mắt thấy tôi sẽ chiến thắng sau hai ba lần thất bại.
– Bạn ơi, anh cầm chắc thắng lợi đến thế nào?
– Như cầm tỏi gà trong tay vậy.
Lòng tôi buồn rầu, nhưng tính tò mò thúc giục. Vả chẳng, tôi muốn xem sẽ kết thúc ra sao, cái trò quái gở giữa một bên quyết ý tìm diệt và một bên tinh quái né tránh. Chúng ta, con người, loại động vật cao cấp nhất, nhờ có hai bàn tay lao động đã phát triển được trí thông minh. Nhưng sau khi rời bỏ rừng sâu, tiến về đồng bằng, xây dựng nên những trung tâm văn hóa, chúng ta đã quay lưng lại, đã phũ phàng và độc ác với rừng sâu. Chúng ta đã tàn hủy cái nôi sinh ra mình. Chúng ta đã săn bắn, tiêu diệt các sinh vật còn nương tựa vào rừng, mà ngu ngốc không hiểu rằng chúng ta đã tàn hủy tự nhiên và phá hoại thế cân bằng sinh thái. Các sinh vật, dữ và lành, tồn tại được nhờ rừng rậm. Rừng rậm tồn tại và phát triển được cũng đã nhờ sự sinh sôi của muông thú. Và cuối cùng, nếu muông thú và rừng rậm không tồn tại nữa, thì làm sao chúng ta có thể tồn tại được?
Thuở xa xưa, con người sống đơn giản hơn. Người ta chỉ biết rằng điều quý nhất ở trên đời là mưa nắng trăng sao, điều quý ở dưới đất là ngũ cốc dồi dào, điều quý ở trong nhà là cháu thảo con hiền. Nhưng ngày nay, điều quý lại là châu báu vàng bạc, là uy thế lộng quyền, là sát phạt muông thú và sát phạt lẫn nhau. Hôm qua tôi đau đớn anh đấm tôi. Ngày hôm nay, tôi sung sướng được hành hạ nó. Ngày mai nó hả hê vì trừng trị kẻ khác… Một cơn lốc luẩn quẩn xoáy sâu vào ngõ cụt. Biết bao giờ mới tỉnh ngộ, mới tháo gỡ, mới đồng cảm và yêu thương?
Đoàn săn bắn rầm rập phóng lên đồi sim. Tôi và ông thiếu tướng sóng vai nhau. Cậu Quý và người anh rể vòng ra mé sau đồi. Con Tuýt ngông cuồng hăng say dẫn đầu đàn chó – những con chó có hình thể tuyệt đẹp, băng băng nhảy nhót giữa các làn cây bụi cỏ.
Chỉ chớp nhoáng sau, gọng kìm vây bủa đã xiết chặt quả đồi. Tôi kinh hoàng khi thấy cháu Quỳnh đang ngồi khóc. Con Múc nằm duỗi thẳng cẳng dưới chân cháu.
Cháu Quỳnh chạy lại bên ông ngoại khóc nức nở:
– Ông ơi, ông. Con Múc ăn xong gói thịt là nó lăn ra. Nó sắp chết mất rồi. Làm sao lại thế, hả ông?
Ông già cúi xuống an ủi cháu gái:
– Không sao đâu, nó không thể chết được. Thuốc ngủ chỉ vừa liều lượng thôi mà.
– Ông trộn thuốc ngủ vào thịt…? Trời ơi…
Con chó rừng mềm rũ rượi. Song đôi mắt rực lửa của nó vẫn trừng trừng ngắm nhìn tất cả. Nó hiểu rằng nó đã bị bịt hết mọi ngách sống. Thuốc ngủ liều cao làm tê liệt thần kinh và gân cốt nó. Nhưng từ nơi xa xăm nào không rõ, có thể là từ rừng sâu, có thể là trong từng tế bào máu, nảy sinh ra một ý chí mãnh liệt giục nó phải vượt lên, phải sống còn. Nó rống to lên một tiếng, vọt mình lên, phóng cẳng lao đi.
Lập tức con Tuýt đuổi sát mé sau. Con Múc vừa chạy vừa ngã. Nó lồm cồm bò dậy, được vài bước lại ngã rúi rụi. Cuối cùng không chạy nữa, nó quay phắt lại, nhe bộ răng nanh ghê gớm, chờ đợi. Con Tuýt và cả bầy chó đã hiểu sức mạnh khủng khiếp của con Múc, chỉ chờn vờn nhảy nhót ở khoảng xa, không dám tiếp cận.
Để khỏi mất thì giờ, ông chòm trại nâng nòng súng AR15. Một loạt đạn ngắn gọn rít lên, hòa cùng một tiếng thét xé trời đất của cháu Quỳnh. Con Múc lăn ra đất, không chút giãy giụa. Nó nhận đủ cả băng đạn từ cổ trở xuống. Máu nó xối tuôn, đỏ sẫm cả bộ lông đen. Đôi mắt nó mở to, vẫn màu lửa nhưng dịu hơn, trong đó có nhoáng lồng ánh mây trắng, trời xanh, rừng sẫm và ngọn Ba Vì uy nghi mầu tím đậm.
Có lẽ đã được huấn luyện đầy đủ, nên, khi con mồi gục xuống rồi, bày chó săn đua nhau lăn sả vào, mỗi con đợp cho con Múc một miếng để làm vui lòng chủ, với dáng dấp bẩn thỉu hèn mạt quá chừng.
Cháu Quỳnh chạy đến cạnh tôi. Thấy quanh cảnh thương tâm ấy, lòng dạ trẻ thơ không chịu đựng nổi. Cháu lả đi trong vòng tay tôi. Không rõ phải tôi hoa mắt hay bị hoang tưởng, tôi thấy vầng trán mịn màng của cháu bỗng như gợn nhiều nếp hằn sâu, còn mái tóc xanh đen của cháu bỗng như bạc trắng đi.
Thiếu tướng tiến lại, kéo vai áo tôi:
– Về thôi, anh. Cháu Quỳnh làm sao thế?
Tôi nói như mình trong mộng:
– Anh bắn giỏi thật đấy. Một cú “đúp” tuyệt vời! Anh hạ sát cả con Múc lẫn cháu Quỳnh.
Ông chòm trại bàng hoàng, kêu lên:
– Bậy nào! Không thể thế được. Cháu Quỳnh có làm sao không?
Tôi nâng cháu Quỳnh lên, đi về phía con ngựa, đoạn nhảy lên yên:
– Tôi đưa cháu Quỳnh về trước đây. Ông cứ yên tâm. Thân thể cháu Quỳnh vẫn nguyên vẹn. Nhưng băng đạn mà ông bắn vào lòng nhân ái, vào tình yêu thiên nhiên của cháu Quỳnh thì không thể nào cứu chữa nổi.

Tháng 8 – 1988
Nguyễn Dậu (1930-2002). Ông tham gia cách mạng giải phóng dân tộc từ 1946, từng là chiến sĩ pháo binh, sau năm 1954 làm việc trong Phòng Văn nghệ thuộc Tổng cục chính trị, biên tập viên báo Văn Nghệ, cán bộ Sở Văn hoá Hà Nội, rồi làm thợ cắt tóc, rồi giải chiếu bán giày dép rong ở bên đền Ngọc Sơn, thấy công an hay quản lý thị trường từ xa thì... chạy. Một văn tài ít được nhắc đến - (trích Vũ Thư Hiên)