Thứ Tư, 23 tháng 2, 2022

CA NGỢI BÓNG ÂM - 1

CA NGỢI BÓNG ÂM - 

Tuỳ bút mĩ học về văn hoá Nhật Bản và phương Tây (Kì 1)

Jun'ichiro Tanizaki 
Hà Vũ Trọng dịch 

1

Làm nhà

Ngày nay, thật là khổ tâm với người mê chuộng kiến trúc truyền thống khi khởi công xây cất một ngôi nhà theo kiểu thuần Nhật, vì phải lo nghĩ bài trí sao cho mớ dây điện, ống khí đốt và ống nước hoà điệu với tính đạm bạc của những gian phòng Nhật – ngay cả một người chưa từng kinh nghiệm xây nhà riêng cũng thấy ra điều này khi thăm một trà thất, quán ăn, hoặc nhà trọ. Đối với người lập dị sống cô độc lại là vấn đề khác, người ấy có thể bất cần những lợi ích của văn minh khoa học để về thoái ẩn ở một thảo am miền quê hẻo lánh nào đó; nhưng với một người có gia đình và đang sống ở thành phố thì không thể quay lưng với những cái thiết yếu của đời sống hiện đại, như hệ thống sưởi, đèn điện, những thiết bị vệ sinh, chỉ vì muốn làm mọi thứ theo phong cách Nhật. Người theo chủ nghĩa thuần tuý sẽ vắt óc khi bố trí cái điện thoại, lo che khuất nó phía sau cầu thang hoặc góc hành lang, hoặc đặt đâu đó mà y cho rằng ít chướng mắt nhất. Có lẽ y sẽ chôn mớ dây điện thay vì treo trong vườn, giấu những nút bật tắt trong buồng hoặc trong tủ, chạy những ống dẫn phía sau tấm bình phong. Tuy hết sức khéo, nhưng những cố gắng của y thường gây cho ta ấn tượng về sự bối rối, kiểu cách và tính toán quá đáng. Trên thực tế, khi chúng ta đã quá quen nhìn những bóng đèn điện tới nỗi thấy một bóng đèn trần dưới tán thuỷ tinh màu nhũ bạch tầm thường lại trông có vẻ đơn sơ và tự nhiên hơn bất kì cố gắng không cần thiết nào nhằm che giấu nó. Lúc trời chạng vạng, từ song cửa xe lửa, ta nhìn ra phong cảnh thôn quê, một bóng đèn trong cái chao đèn kiểu xưa sáng lờ mờ sau bức bình phong giấy (shoji) dưới một mái nhà tranh nông trang, xem ra đấy mới đúng vị phong lưu

Thế nhưng, tiếng máy ầm ì và vóc dáng của cái quạt điện vẫn có gì đó lạc điệu trong một gian phòng Nhật. Bình thường, chủ nhà nếu không thích quạt máy thì đơn giản không xài tới. Nhưng nếu việc làm ăn của gia đình liên quan đến sự thoải mái cho khách hàng vào mùa hè, thì gia chủ không thể nào chiều theo thị hiếu mình bằng chi phí của người khác. Một người bạn tôi, chủ nhân một nhà hàng Tàu có tên là Giai Lạc Viên (Kairakuen) vốn là người triệt để theo chủ nghĩa thuần tuý trong vấn đề kiến trúc. Ông chê quạt điện và đã từ lâu từ chối đặt chúng trong nhà hàng, nhưng những than phiền từ khách hàng mà ông phải hứng chịu cứ mỗi mùa hè, rút cục đã buộc ông phải nhượng bộ. 


Bản thân tôi cũng có những kinh nghiệm tương tự. Cách đây vài năm tôi đã chi quá lố số tiền cho việc xây nhà. Tôi đã rối tinh lên với từng thứ thiết bị lắp đặt cố định, và trong mọi trường hợp đều gặp khó khăn. Đó là vách bình phong giấy: vì lí do thẩm mĩ tôi đã không muốn dùng kính, thế nhưng chỉ giấy không thôi sẽ đặt ra vấn nạn chiếu sáng và sự an toàn. Phần lớn trái lại ý tôi, tôi quyết định che mặt trong bằng giấy và mặt ngoài bằng kính. Việc này đòi hỏi một khung kép, do vậy chi phí tăng lên. Tuy nhiên sau khi đã vượt qua mọi rắc rối mà hiệu quả vẫn không thoả mãn chút nào. Mặt ngoài trông vẫn chẳng hơn gì cửa kính; trong khi mặt trong, độ mềm xốp của giấy bị hư hại bởi tấm kính đặt sau nó. Tới lúc ấy tôi mới hối tiếc sao không lắp kính ngay từ đầu. Dẫu chúng ta có cười nếu như đây là ngôi nhà của người khác chăng nữa, nhưng bản thân chỉ chịu chấp nhận thất bại sau khi đã cố thực hiện những đề án như thế.


Tiếp theo là vấn đề chiếu sáng. Những năm gần đây, nhiều thiết bị được thiết kế dành cho những ngôi nhà Nhật đã xuất hiện trên thị trường, những thiết bị thiết kế phỏng theo những loại đèn sàn, đèn trần, giá nến, và những loại đèn tương tự. Nhưng tôi hoàn toàn không quan tâm đến chúng, thay vào đó tôi tìm những loại đèn xưa từ tiệm đồ cổ và lắp cho thích hợp với bóng đèn điện.


Điều thử thách nhất với kĩ năng của tôi chính là hệ thống sưởi. Không loại lò sưởi nào có tên tuổi xứng đáng lại thích hợp trong một gian phòng Nhật. Tiếng bếp ga cháy quá ồn, trừ phi có ống thông khói, nếu không sẽ chóng gây nhức đầu. Các loại bếp điện, tuy ít ra không bị những nhược điểm ấy, nhưng cũng xấu xí như mọi thứ khác đại loại. Một giải pháp lí tưởng là có thể lắp đặt cho tủ nhà bếp bằng loại sưởi được sử dụng trên các xe điện. Thế nhưng, thiếu ánh lửa hồng của than thì toàn bộ sắc thái mùa đông bị mất đi cùng với niềm vui quây quần quanh ngọn lửa của gia đình. Phương án tốt nhất mà tôi có thể nghĩ ra là làm một lò sưởi lớn âm xuống đất giống như trong trang trại xưa. Ở đó tôi thiết đặt một lò điện vận hành tốt dành cho việc đun nước trà và vừa để sưởi ấm căn phòng. Việc này tới giờ tôi kể như là một trong những thành công của mình.

Tạm đạt yêu cầu với hệ thống sưởi, tôi tiếp tục đương đầu với vấn đề nhà tắm và nhà vệ sinh. Người bạn chủ của lữ quán Giai Lạc Viên đã không chịu được việc ốp gạch bồn và khu vực tắm, vì vậy ông đã làm nhà tắm cho khách toàn bằng gỗ. Tất nhiên ốp gạch nhất định là thực tiễn và kinh tế hơn. Nhưng khi trần nhà, cột, và ván lót đều được làm bằng nguyên vật liệu Nhật, thì vẻ đẹp của căn phòng sẽ hoàn toàn bị hỏng khi phần còn lại được lót bằng gạch men bóng loáng. Hiệu quả không tới nỗi khó chịu lắm khi mọi thứ vẫn còn mới tinh, nhưng năm tháng qua đi, vẻ đẹp của vân gỗ bắt đầu xuất hiện trên ván và cột nhà thì độ sáng loáng trải rộng của gạch men trắng gần như lại không tương xứng, như tre ghép vào gỗ vậy. Hơn nữa, vì sự tiện dụng của nhà tắm cho nên trong chừng mực nào đó phải hi sinh tính thẩm mĩ. Trong nhà vệ sinh thành ra giờ lại phát sinh thêm những vấn đề phiền phức hơn.



2

Thẩm mĩ của nhà vệ sinh

Mỗi lần có dịp thấy một nhà vệ sinh (washiki) kiểu xưa với ánh sáng mờ tối, và xin nói thêm là sạch không thể chê được, trong một tự viện ở Nara hay Kyoto, tôi thật ấn tượng với những ưu điểm nổi bật của kiến trúc Nhật. Tuy trà thất có những nét quyến rủ riêng, nhưng nhà vệ sinh Nhật mới thực sự là nơi an tĩnh cho tinh thần. Nó luôn cách biệt với toà nhà chính và nằm ở cuối hành lang, giữa một lùm cây thơm phức mùi lá cây và rêu. Không ngôn từ nào diễn tả được cảm giác khi người ta ngồi trong ánh mờ mờ, hơ trong vầng sáng nhạt phản chiếu từ tấm bình phong giấy, đắm trong trầm tưởng hoặc đăm chiêu nhìn ra vườn. Nhà văn Natsume Sōseki (1867-1916) coi những lần dạo bước mỗi sáng đi vệ sinh là một tuyệt thú, ông gọi đó là “một khoái cảm sinh lí”. Và chắc hẳn không đâu mà sự khoái cảm hơn được nhà vệ sinh của Nhật, được bao quanh bằng những bức vách tĩnh mịch với vân gỗ mịn, ta nhìn lên trời xanh và lá biếc.


Như đã nói, những điều kiện nhất định cần có: độ sáng nhập nhoà, sạch sẽ tuyệt đối, và tĩnh mịch tới nỗi có thể nghe được tiếng muỗi vo ve. Tôi ưa lắng nghe từ một nhà vệ sinh như thế trong tiếng mưa nhè nhẹ, đặc biệt nếu đó là một nhà vệ sinh ở vùng Kantô (thuộc đảo Honshu), với những ô cửa dài hẹp ở ngang tầng sàn; ở đó ta có thể lắng nghe với cảm giác thân mật theo những giọt mưa tí tách rơi từ lòng máng, từ cây cối, rồi thấm vào lòng đất trong khi vừa gội rửa bệ chiếc đèn đá. Nhà vệ sinh là nơi hoàn hảo để lắng nghe tiếng côn trùng rả rích hoặc tiếng chim hót, để ngắm trăng, hay tận hưởng bất kì những khoảnh khắc thấm thía nào đánh dấu sự thay đổi tiết mùa. Tôi ngờ rằng, chính nơi đây những nhà thơ haiku qua các thời đại đã nảy sinh ra vô số tứ thơ. Thật vậy, người ta có thể công bằng thừa nhận rằng trong mọi yếu tố kiến trúc Nhật thì nhà vệ sinh là yếu tố thẩm mĩ nhất. Các bậc tiền bối của chúng ta đã thi vị hoá mọi thứ trong đời sống, họ biến những gì đáng lẽ là gian thiếu vệ sinh nhất trong nhà trở thành một nơi thanh nhã vô cùng, đầy đủ những kết hợp trìu mến cùng những vẻ đẹp thiên nhiên. So với người phương Tây, họ xem nhà vệ sinh như là nơi ô uế và thậm chí tránh nhắc đến trong cuộc đàm thoại lịch sự, còn chúng ta sáng suốt hơn và chắc chắn là khiếu thẩm mĩ cũng tốt hơn. Tôi cũng phải thừa nhận khuyết điểm nhà vệ sinh Nhật hơi bất tiện khi đi vào nửa đêm, vì nó vốn cách biệt với toà nhà chính cho nên vào mùa đông dễ bị cảm lạnh. Nhưng như nhà thơ Saitō Ryokū (1868-1904) từng nói, “Phong nhã cũng là sự lạnh lẽo”. Chỗ lạnh lẽo ngoài trời này so ra vẫn tốt hơn, vì buồng vệ sinh tắm hơi kiểu Tây trong một khách sạn thì thật không thoải mái.


Bất kì ai có khiếu thẩm mĩ với kiến trúc truyền thống phải đồng ý rằng nhà vệ sinh Nhật là hoàn hảo. Tuy rằng những ưu điểm của nó nằm ở những chỗ như đền chùa, nơi cư trú rộng rãi, cư dân thì ít, và mọi người đều giúp đỡ công việc lau chùi, còn trong một căn hộ gia đình bình thường thì việc gìn giữ sạch sẽ không dễ dàng. Bất luận một người khó tính đến đâu hoặc siêng năng cọ rửa, vẫn cứ thấy cáu bẩn, đặc biệt trên sàn gỗ hoặc chiếu lót sàn tatami. Vậy ở buồng vệ sinh cũng thế, nó trang bị những phương tiện hiện đại hợp vệ sinh hơn và hiệu quả hơn – đó là gạch men và bồn cầu giật nước – mặc dù phải trả cái giá để bỏ đi tất cả sự ưa thích mang “khiếu thẩm mĩ” cùng “những vẻ đẹp tự nhiên”. Ánh đèn điện bật lên sáng trưng bốn bức tường trắng khó lòng đem chúng ta vào tâm trạng vui thích “khoái cảm sinh lí” của Sōseki. Không thể phủ nhận về sự sạch sẽ ấy; mọi xó xỉnh đều trắng tinh. Thế nhưng điều cần thiết là nó phải nhắc nhở chúng ta mạnh mẽ về vấn đề thân thể của mình. Một phụ nữ đẹp, cho dù làn da trắng đến đâu, sẽ bị xem là khiếm nhã nếu phô bày cặp mông hay đôi chân trần trước người khác; cũng vậy, thật là thô thiển và thiếu thẩm mĩ khi phô bày buồng vệ sinh dưới ánh sáng quá độ như thế. Sự sạch sẽ qua những gì thấy được chỉ càng gợi lên ý nghĩ rõ hơn về những gì không nhìn thấy được. Ở những nơi như thế thì sự phân biệt giữa cái sạch và cái dơ tốt nhất nên để cho mơ hồ và được phủ trong tấm màn mông lung.


Mặc dù đã lắp đặt những thiết bị vệ sinh hiện đại khi xây dựng ngôi nhà cho mình, ít ra tôi đã tránh được gạch men, còn sàn thì lót gỗ long não. Trong chừng mực nào, tôi đã cố gắng tạo một phong khí truyển thống Nhật – nhưng rút cục lại thất vọng vì chính những thiết bị vệ sinh. Như mọi người biết, những loại bồn cầu giật nước đều làm bằng men sứ trắng tinh và có cán giật bằng kim loại lấp lánh. Giá có được theo ý mình, tôi thích những thiết bị làm bằng gỗ hơn nhiều – dành cho cả nam lẫn nữ sử dụng. Gỗ nếu được phủ bằng lớp sơn mài đen nhánh thì rất tuyệt; ngay cả gỗ để thô khi lên nước lại càng nổi sậm vân vi qua năm tháng, phảng phất một mê lực khó tả khiến tâm tư được thư thái. Cuối cùng, tất nhiên, là một cái bồn tiểu bằng gỗ màu lục lam rắc đầy lá linh sam; đấy là một khoái cảm cho mắt nhìn và tuyệt không gây nên âm thanh nào. Tôi không đủ khả năng để thụ hưởng những thứ quá lí tưởng như thế. Tôi hi vọng ít ra có được những thứ lắp đặt bên ngoài hợp với sở thích, rồi thích ứng chúng vào bộ máy giật nước tiêu chuẩn. Nhưng chi phí tiền công quá đắt tới mức không có chọn lựa nào khác nên tôi đành bỏ ý tưởng đó. Chẳng phải tôi phản đối những tiện nghi văn minh hiện đại [được nhập cảng] như đèn điện, hệ thống sưởi hoặc thiết bị vệ sinh, mà chỉ tự hỏi vào thời đó tại sao người ta không thể thiết kế với một chút trọng thị hơn đối với tập quán và thẩm mĩ của chúng ta. 

 _____

Nguyên tác陰翳礼讃 (In'ei reisan/Âm ế lễ tán), tuỳ bút, 1933-4. Tác giả: Jun'ichiro Tanizaki 潤一郎 谷崎 (1886-1965). 

Bản dịch tiếng Anh: In Praise of Shadows do Thomas J. Harper và Edward G.

Seidensticker dịch, Nxb Leete's Island Books 1977.

Bản PDF: https://www.pdfdrive.com/in-praise-of-shadows-d185560859.html

Văn bản tiếng Nhật: http://www.kuniomi.gr.jp/togen/iwai/raisan.htm


CA NGỢI BÓNG ÂM - 2

CA NGỢI BÓNG ÂM - Tuỳ bút mĩ học về văn hoá Nhật Bản và phương Tây (Kì 2)

Jun’ichiro Tanizaki 
Hà Vũ Trọng dịch

3.  Một lộ trình khác

Gần đây thịnh hành những loại đèn điện để sàn làm giống kiểu đèn lồng hình vuông xưa khiến tôi cho rằng nó phát sinh từ ý thức mới về sự mềm mại và ấm áp của giấy vốn là những phẩm chất mà một thời chúng ta đã bỏ quên; đây là bằng chứng công nhận chất liệu này thích hợp hơn nhiều so với kính trong căn nhà Nhật.


Nhưng vẫn chưa thấy những thiết bị vệ sinh hoặc bếp lò nào ngoài thị trường trông thích hợp. Hệ thống lò sưởi giống như của tôi, một lò than điện bố trí dưới cái bếp âm xuống sàn, dường như với tôi là lí tưởng; tuy vậy không ai dám chế tạo một thiết bị quá đơn giản như thế (tất nhiên có những loại như lò hibachi điện nhưng không cung cấp nhiệt cho bằng lò hibachi xài than thông thường); những sản phẩm chế tạo sẵn thì toàn là những bếp lò kiểu Tây trông xấu và không thích hợp


Có người cho rằng thật xa xỉ khi lí sự về vấn đề thẩm mĩ đối với những thứ nhu yếu của đời sống, miễn là căn nhà không bị rét và còn lương thực để khỏi chết đói là được rồi, cần gì vẻ bên ngoài. Trên thực tế với một người khổ hạnh cho dù cứng rắn nếu gặp ngày lạnh tuyết rơi cũng khó lòng mà từ chối lợi ích của cái lò sưởi nếu nó ở trước mắt, bất luận nó xấu lậu tới đâu miễn có thể làm tiêu tan cái lạnh. Nhưng chính vì vậy lại khiến tôi thường băn khoăn về mọi thứ sẽ khác biệt ra sao nếu như ở phương Đông chúng ta đã phát triển văn minh khoa học theo hướng riêng của mình. Giả sử chúng ta đã phát triển vật lí học và hoá học một cách độc lập thì hẳn là những kĩ thuật và công nghệ dựa trên đó đã mang lại một dạng thức khác, cùng vô số những dụng cụ hàng ngày, dược phẩm, công nghệ phẩm – như vậy chẳng phải chúng sẽ phù hợp hơn với tính cách dân tộc của chúng ta hay sao? Thật thế, ngay cả quan niệm của chúng ta về những nguyên lí vật lí và hoá học hẳn cũng khác với cách nhìn của phương Tây, và những luận chứng mà ngày nay chúng ta được dạy về tính chất và tính năng của ánh sáng, điện khí, và nguyên tử rất có thể chúng cũng được thể hiện với diện mạo khác.


Tất nhiên tôi chỉ suy đoán mơ hồ vì tôi không biết gì về các vấn đề khoa học. Nhưng nếu chúng ta nghĩ ra độc lập ít nhất là các loại phát minh thiết thực hơn, thì điều này chẳng thể nào không có ảnh hưởng sâu sắc tới phong cách ăn ở hàng ngày của chúng ta, và thậm chí tới cả chính trị, tôn giáo, nghệ thuật và kinh doanh. Phương Đông có thể mở ra một thế giới công nghệ hoàn toàn theo cách riêng của mình là điều có thể hình dung được.


Nhân tiện tôi đơn cử một ví dụ nhỏ: gần đây tôi viết một bài báo so sánh giữa bút lông với bút máy, trong đó tôi nhận xét rằng nếu dụng cụ [bút máy] này đã từng được người Trung Quốc cổ đại hoặc người Nhật phát minh thì nhất định nó hẳn có đầu bút giống như loại bút lông, mực sẽ không có màu xanh xám mà đen tuyền như mực nho, và mực được dẫn từ cán bút xuống đầu cọ. Và chắc chúng ta cũng đã thấy sự bất tiện khi viết lên giấy Tây, vậy nên cần tới loại giấy phẩm chất gần như giấy Nhật, ngay cả được chế tạo hàng loạt nếu muốn, ắt là nhu cầu rất lớn. Nếu được như vậy, thì các loại bút ngoại quốc sẽ không thịnh hành như ngày nay; và luận điệu về việc loại bỏ hệ thống chữ viết của chúng ta (Kanji và Kana) để thay bằng chữ La Mã (Romanji) cũng sẽ ít ồn ào hơnvì hẳn chúng ta vẫn còn tha thiết với hệ văn tự cũ. Và hơn thếngay cả tư tưởng và văn học của chúng ta chắc cũng không mô phỏng phương Tây như hiện nay mà có thể đã tiến tới những vùng mới độc đáo hơn. Như thế, ta thấy một thứ văn phòng phẩm tuy nhỏ nhoi tầm thường nhưng đã có sức ảnh hưởng to lớn gần như vô biên lên văn hoá của chúng ta.

 

4.  Giấc mơ không tưởng của nhà văn

Tôi cũng biết rằng những điều ấy chẳng qua là giấc mơ không tưởng của một nhà văn,  rõ ràng tới hôm nay chúng ta không thể quay về làm lại từ đầuVì vậy tôi biết mình đang phàn nàn và đòi hỏi điều không thể thực hiện. Tuy nhiên, nếu những phàn nàn của tôi được ngó ngàng thì chắc chẳng có hại gì khi xem xét coi chúng ta đã thua thiệt ra sao và đã chịu những mất mát nào khi so với người phương Tây. Phương Tây đã có thể tiến triển thuận lợi để đến được ngày hôm nay trong khi chúng ta đã gặp phải một nền văn minh cao cấp hơn và chịu đầu hàng nó và phải từ bỏ con đường mà chúng ta đã đi theo hàng ngàn năm qua. Tôi cho rằng, chính điều đó đã gây ra những vấp váp và nhiều phiền phức. Nếu bị bỏ lại một mình thì hẳn ngày nay chúng ta đã không tiến bộ hơn nhiều trên con đường văn minh vật chất cách đây năm trăm năm. Ngay cả vào ngày nay, đời sống ở một số vùng nông thôn Ấn Độ và Trung Quốc vẫn còn không khác nhiều so với thời đại của Đức Phật và Khổng Tử. Thế nhưng người ta sẽ chỉ chọn đi theo chiều hướng nào thích hợp với tính cách của họ. Hẳn là chúng ta đã tiến bộ rất chậm tuy không phải là một ngày kia chúng ta không thể có những phát kiến thay thế cho các thứ như xe điện, máy thu thanh, phi cơ của ngày nay, và chúng sẽ không phải là những thứ được vay mượn, mà thực sự là những công cụ của nền văn hoá chúng ta, thích hợp với chúng ta.


Ta chỉ cần so sánh những bộ phim Mĩ, Pháp, và Đức để thấy những sắc thái và sắc điệu khác nhau ra sao trong điện ảnh. Ngoài diễn xuất và kịch bản, cũng có sự khác biệt nổi bật về tính cách dân tộc trong khía cạnh nhiếp ảnh. Nếu điều này vẫn đúng ngay cả khi dùng cùng loại thiết bị máy móc, hoá chất, và phim, nhưng tôi vẫn tự hỏi liệu màu da, dung mạo, khí hậu, và phong thổ của chúng ta sẽ thích hợp hơn ra sao nếu như chúng ta có kĩ thuật nhiếp ảnh riêng. Và nếu như chính chúng ta đã phát minh ra máy hát và máy thu thanh, thì mức độ trung thực ra sao đối với đặc với điểm thanh giọng và âm nhạc của chúng ta. Âm nhạc Nhật Bản trên hết là âm nhạc của bầu không khí, của sự kín tiếng, vì vậy khi được ghi âm hoặc khuếch lớn âm thanh bằng loa khiến mất đi phần lớn vẻ hấp dẫn của nó. Trong trò chuyện cũng vậy, chúng ta ưa giọng nói nhẹ, kiệm lời, và quan trọng nhất là những quãng nghỉ, thế nhưng máy đĩa và máy phát thanh làm cho những khoảnh khắc im lặng này hoàn toàn thiếu sự sống. Và như thế, chúng ta bóp méo chính nghệ thuật để chiều chuộng những cái máy.


Những loại máy này do phương Tây phát minh, cho nên tất nhiên là khá thích hợp với nghệ thuật phương Tây.

Chính ở điểm này, chúng đặt nghệ thuật của chúng ta vào thế khá bất lợi.

 

5 Giấy, thiếc, ngọc, thuỷ tinh, và nước bóng thời gian

Giấy được cho là do người Trung Quốc phát minh, nhưng đối với chúng ta, giấy Tây không gì khác ngoài một sản phẩm tiện dụng, trong khi nhìn kết cấu của giấy Tàu (tuyên chỉvà Nhật (tang chỉcho chúng ta cảm giác ấm áp và tâm tình trở nên bình tịnh.


Thậm chí cũng màu trắng nhưng độ trắng giấy Tây khác với độ trắng giấy ta. Bề mặt giấy Tây khiến ánh sáng dội lại, trong khi mặt giấy ta gần như hút lấy ánh sáng và dịu dàng bọc lấygiống như bề mặt mềm mại của tuyết đầu mùa. Giấy ta không phát ra tiếng động kể cả khi vò hoặc gấp lại, nó im lặng và uyển chuyển như chạm vào một chiếc lá.


Nhìn chung, ta thấy thực sự khó gần gũi với những thứ bóng lộn và lấp lánh. Người Tây dùng bộ đồ ăn bằng bạc, thép, kền, và được đánh bóng chói loà, còn chúng ta không ưa những đồ chói như vậy. Tuy quả là chúng ta có khi dùng đồ bạc cho ấm đun nước, bình, hoặc tách sake, nhưng không ưa đánh bóng chúng. Trái lại, chúng ta thưởng thức chỉ khi nào độ bóng loáng biến mất và đã sẫm màu như ám khói. Hầu như gia chủ nào cũng đã từng la rầy người giúp việc đã vô tình chùi bóng làm mất cái lớp xỉn trông chờ bấy lâu mới có.


Món ăn Tàu ngày nay phần lớn dùng bộ đồ ăn làm bằng thiếc, một chất liệu mà người Tàu chỉ mê khi nó đã lên nước. Lúc còn mới, trông nó giống đồ nhôm và không đặc biệt hấp dẫn; chỉ sau một thời gian dài sử dụng nó mới có được cái nhã vị” của màu thời gian, và khi bề mặt sậm đi thì câu thơ khắc trên đó cuối cùng mới được hoàn hảo. Trong bàn tay người Tàu, thứ kim loại sáng loáng tầm thường này khoác lấy một phẩm chất thâm trầm và u tịnh giống với đồ gốm tử sa không tráng men.


Người Tàu cũng yêu ngọc bích. Khối đá kì lạ ấy với ánh sáng yếu ớt đục ngàu tựa như khí quyển ngưng tụ lại từ bao thế kỉ, lớp đáy mờ mờ đục đục đang tan chảy mờ mịt và cứ mãi thăm thẳm – chẳng phải chỉ người phương Đông chúng ta là biết được mê lực của nó? Thật khó nói chúng ta thấy gì trong loại đá này. Nó hoàn toàn thiếu vẻ sáng rỡ của hồng ngọc hoặc lục bảo ngọc hoặc vẻ long lanh của kim cương. Nhưng ta chỉ có thể cảm nhận: khi nhìn vào bề mặt vẩn đục đó, ta nghĩ đó là tính chất Trung Hoa, những lớp vân cẩu ấy như là sự tích tụ dằng dặc của văn minh quá khứ Trung Hoa, ta thấy ra được tại sao họ yêu chuộng bề mặt ấy và sắc độ vẩn đục ấy.


Với đồ thuỷ tinh cũng vậy. Gần đây rất nhiều đồ thuỷ tinh nhập khẩu từ Chilê, nhưng thuỷ tinh Chilê quá sáng, quá trong. Từ xưa chúng ta đã có loại thuỷ tinh của mình, độ trong bao giờ cũng vừa phải và tinh thể vẩn đục tạo cảm giác nằng nặng. Thực vậy, chúng ta chuộng hơn với loại thuỷ tinh “không tinh khiết” có những đường vân mờ đục giao nhau dưới bề dày. Cũng vậy, cùng là thuỷ tinh nhưng một cái li Càn Long trong tay người Tàu chẳng phải gần với bích ngọc hoặc mã não hơn là với thuỷ tinh của Tây hay sao? Nghề làm pha lê đã được Á Đông biết đến từ cổ nhưng lại chẳng bao giờ phát triển như ở phương Tây. Tuy nhiên, tiến bộ lớn nhất của chúng ta đạt được lại nằm trong nghệ thuật đồ gốm. Chắc hẳn điều này có gì đó liên quan tới tính cách dân tộc của chúng ta. Nhìn chung, chúng ta không ghét những thứ sáng chói nhưng mà thích cái nước bóng u trầm hơn là độ chói hời hợt, một thứ ánh sáng âm u cho dù của một viên đá tự nhiên hoặc một đồ vật tạo tác, phải toát lên được cái “nước bóng thời gian”.


Tất nhiên cái “nước bóng thời gian” này mà chúng ta thường hay nghe nói tới thật ra là ánh bừng lên của sự cáu ghét. Trong tiếng Hán và tiếng Nhật những từ miêu tả sự lên nước này có được do vết tay sờ chạm vào biết bao lần, một nước bóng được tạo ra do các chất dầu tự nhiên thấm vào một vật thể qua nhiều năm sờ mó – có thể nói đó là lớp cáu ghét. Nếu quả “phong nhã cũng là lạnh lẽo”, vậy cũng có thể mô tả “phong nhã cũng là ô trược”. Không dễ phủ nhận, ở bất kì mức độ nào, rằng trong số những yếu tố của phong nhã mà chúng ta thích thú đó lại là cái thước đo của sự cáu bẩn, thiếu vệ sinh. Tôi cho rằng mình có vẻ chống chỏi ghê gớm nếu nói rằng người phương Tây cố gắng phơi bày mọi vết cáu bẩn rồi diệt trừ nó, trong khi người phương Đông chúng ta cẩn thận bảo tồn và thậm chí còn lí tưởng hoá nó. Tuy nhiên dù hay dù dở, chúng ta quả tình vẫn yêu những thứ mang những dấu vết của sự cáu bẩn, bồ hóng và dãi dầu, chúng ta yêu những màu sắc và nước bóng đó để gợi nhớ tới cái quá khứ đã tạo ra chúng. Sống trong ngôi nhà cổ này giữa những đồ vật cũ kĩ này theo một cách bí ẩn nào đó là nguồn mạch của sự yên bình và thư thái.


Tôi luôn luôn nghĩ rằng, những bệnh viện dành cho người Nhật không nhất thiết phải có màu trắng loá như thế, những vách tường, đồng phục, và trang thiết bị y tế có lẽ tốt hơn nếu mang những màu sắc nhẹ nhàng hơn, trầm hơn. Nhất định bệnh nhân sẽ được thư thái hơn khi nằm trên chiếu tatami bao quanh là những vách tường màu cát vàng của một gian phòng Nhật. Một trong những lí do chúng ta ghét tới nha sĩ là vì tiếng rít của cái mũi khoan; nhưng ánh lấp lánh quá độ của thuỷ tinh và kim loại thì cũng đáng sợ như nhau. Có thời điểm tôi bị suy nhược thần kinh nặng và đã được giới thiệu tới một nha sĩ vừa trở về từ Hoa Kì cùng với thiết bị tối tân nhất, nhưng nghe những tin này chỉ khiến tôi dựng tóc gáy. Thay vào đó, tôi chọn tới một nha sĩ kiểu xưa mở phòng mạch ở một ngôi nhà Nhật cổ, thuộc loại nha sĩ có thể tìm thấy trong những thị trấn nhỏ ở nông thôn. Thiết bị y khoa xưa có những lạc hậu của nó; nhưng với y khoa hiện đại phát triển ở Nhật, chúng ta có thể đã nghĩ ra những phương tiện và thiết bị để điều trị bệnh nhân bằng cách nào đó hài hoà với gian phòng kiến trúc Nhật Bản. Ở đây một lần nữa chúng ta phải chịu thiệt thòi của kẻ thua cuộc vì đã vay mượn.

___

Nguyên tác陰翳礼讃 (In'ei reisan/Âm ế lễ tán), tuỳ bút, 1933-4. Tác giả: Jun'ichiro Tanizaki 潤一郎 谷崎 (1886-1965). 

Bản tiếng Anh: In Praise of Shadows do Thomas J. Harper và Edward G. Seidensticker dịch, Nxb Leete's Island Books 1977. Bản PDF: https://www.pdfdrive.com/in-praise-of-shadows-d185560859.html

Văn bản tiếng Nhật: http://www.kuniomi.gr.jp/togen/iwai/raisan.htm