Hiển thị các bài đăng có nhãn Khúc Hà Linh. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Khúc Hà Linh. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 4 tháng 2, 2017

Cẩm Giàng - Sông Gấm


Mảnh đất này có cách đây gần bốn trăm năm, trong thư tịch cổ gọi là Cẩm Giang (sông Gấm), rồi sau vì tránh tên huý của chúa Trịnh Giang mà đổi, gọi chệch thành Cẩm Giàng. Phía bắc thị trấn là ngã ba sông, mềm mại nh­­ư dải lụa. Đây là chỗ giao thoa hai vùng văn hoá quan họ Kinh Bắc và vùng văn hoá hào hiệp, khoa cử xứ Đông. Từ trước cách mạng tháng Tám năm 1945 đất này thuộc xã Kim Quan, tổng Kim Quan, huyện Cẩm Giàng.


Đến năm Minh Mạng thứ 19 (1838) lỵ sở huyện Cẩm Giàng từ thôn Trữ La chuyển về khu đất phía đông bắc thôn Kim Quan cùng xã. Thế là  Kim Quan thành danh giá, thành thủ phủ Cẩm Giàng, có  huyện đường đông vui sầm uất. Vì thế, chẳng bao lâu ở cái đất đồng bằng, có ngã ba sông, hình thành phố lẻ, chợ nhỏ, thu hút dân các vùng về đây lập nghiệp. Từ khi có cầu Cẩm Giàng, ga xe lửa thì đất lỵ sở ngày càng có giá, việc đi lại buôn bán càng tấp nập. Khoảng năm 1925 xảy ra  mâu thuẫn về đất cát, quyền lợi của nhân dân và hương lý sở tại, và để giải quyết mâu thuẫn đó, ở đây đã lập ra khu vực hành chính riêng,  tách làng thành phố(tức phố thuộc làng). Cách mạng tháng Tám thành công, nhưng phải đến tháng 4 năm 1946 xã Kim Giang mới được thành lập. Khu phố có huyện lỵ đóng nằm trên địa bàn xã Kim Giang. Hơn chục năm sau, ngày 19 tháng 9 năm 1958 Uỷ ban hành chính liên khu 3 quyết định thành lập thị trấn Cẩm Giàng trên cơ sở phố huyện cũ. Vậy là thị trấn Cẩm Giàng trở thành một trong 19 đơn vị cơ sở hành chính của huyện Cẩm Giàng- một huyện nổi tiếng về hiếu học và khoa bảng.

         

Thị trấn Cẩm Giàng có chiều dài gần một nghìn mét, nằm dọc tuyến đường sắt Hà Nội- Hải Phòng. Dấu hiệu nhận ra cái phố huyện bé nhỏ này là cây cầu sắt dài 35 mét, bắc trên sông Cẩm Giàng từ năm 1901.
Không chỉ  là vựa lúa, là trung tâm kinh tế của huyện, miền đất ấy còn là nơi giao thông thuận lợi, trên bến d­­ưới thuyền, có mối giao thương với các huyện Bình Giang, Mỹ Hào( Hưng Yên), Lang Tài, Gia Bình ( Kinh Bắc). Ga Cẩm Giàng là cái gạch nối giữa Hải Phòng và Hà Nội. Đ­ư­­ờng bộ, đ­­ường sắt, đường thuỷ đi các tỉnh bạn dễ dàng, bán buôn trao đổi với các vùng  tiện lợi, nên dân tứ chiếng về đây lập c­­ư, coi là đất lành cò đậu. Từ đời này qua đời khác, họ sinh sôi nẩy nở, làm ăn buôn bán rồi thành người Cẩm Giàng, chứ chẳng mấy ai quê gốc, trừ rất ít người từ xó lân cận dịch chuyển về. Đất chật, như­­ng thị trấn hội đủ yếu tố thiên nhiên, con ng­­ười và không gian văn hoá, nó tiêu biểu cho cả một vựng quê có truyền thống khoa bảng từ đời xưa.

          Sử sách nước ta còn ghi, năm 1075 dưới triều Lý Nhân Tông có ông Lê Văn Thịnh, người Kinh Bắc đã khai khoa cho sĩ tử nước nhà. Lại đến năm 1086, ông Mạc Hiển Tích, quê Nam Sách là người mở khoa cho cỏc nho sĩ xứ Đông. Phải gần 100 năm sau (năm 1185), ông Bùi Quốc Khái, quê Ngọc Liên là người   mở đầu cho khoa cử trên đất Cẩm Giàng . Ông Khái học  tài, như­ng không chịu đi thi. Khi 44 tuổi mới ra ứng thí, đỗ hội nguyên, làm quan đến chức Đô ngự sử d­ưới thời vua Lý Cao Tông. Khi triều đình đổ nát, gian thần lộng hành, ông treo ấn từ quan, xuất gia đầu Phật, thọ 93 tuổi. Dân chúng thờ ông ở chùa Thiên Niên gần hồ Tây, và đặt bài vị thờ ở đình làng Trinh Sài – Hà Nội.

Khoa thi 1246- Thiên ứng Chính Bình 15, triều Trần có lệ lấy Tam khôi, thì ông Phạm Văn Tuấn, xã Cẩm Vũ đỗ Bảng nhãn. Đây là vị tam khôi đầu tiên ở Xứ Đông  xư­a. Cẩm Giàng có nhiều ngư­ời cùng đỗ trong một khoa thi. Đó là khoa  năm 1484 triều vua Lê Thánh Tông có tới 5 ngư­ời đỗ Hoàng giáp và Tiến sĩ. Ngoài ra chư­­a kể cú khoa thi tới  ba, bốn ngư­ời cùng đỗ. Xã Cẩm Sơn  có 11 vị tiến sĩ, hoặc xã Ngọc Liên có 8 tiến sĩ đều là niềm tự hào của quê hư­ơng.
Theo Văn chỉ Cẩm Giàng, thì từ khoa năm 1185, khi có vị tiến sĩ đầu tiên, cho đến khoa 1754, trải dài 569 năm, qua 44 khoa thi dư­ới các triều đại,  có 59 vị đại khoa, chiếm 1,97% tiến sĩ cả n­ước. Khoa thi 1754, niên hiệu Cảnh H­ưng 15- Lê Hiển Tông, ông Nguyễn Điệu Huyễn, xã Ngọc Liên là ngư­ời đỗ tiến sĩ cuối cùng trên đất Cẩm Giàng.
     Từ năm 1655 ở đây có Văn chỉ, ghi tên các nhà khoa bảng trong  huyện. Năm 1920, trường Kiêm bị là trường học đầu tiên duy nhất thành lập, cho học sinh cả huyện đến học tập.
     Có phải phong thổ Cẩm Giàng đã tạo ra gần sáu chục đại khoa thời trước, trong đó thôn Kim Quan (sau này tách ra thành một phần thuộc đất thị trấn) có 6 tiến sĩ,  để đời sau đã sinh ra tài năng văn học trong một gia đình có ba anh em ruột là các nhà văn Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam? Cả ba người đều là người sáng lập, trụ cột của Tự lực văn đoàn, một tổ chức văn chương nổi tiếng trên văn đàn nước nhà từ những năm ba mươi thế kỷ trước.

Phố huyện Cẩm Giàng.
     Sau khi hoàn thành công cuộc xâm lược nước ta, thực dân Pháp bỏ cấp phủ. Tri phủ  đóng ở huyện nào thì trực tiếp cai trị huyện ấy.
     Cẩm Giang ngày xưa, bây giờ gọi Cẩm Giàng, có một phố huyện nhỏ, lại nghèo cách tỉnh lỵ Hải Dương chừng hơn chục cây số theo đường chim bay, còn về Hà Nội lại tròn bốn mươi cây số. Ở đây có đường đá về tỉnh lỵ Hải Dương, đường về thị trấn Sặt, đường liên tỉnh sang tận Lang Tài , Bắc Ninh lân cận. Vì thế phố huyện tuy nhỏ hẹp nhưng cũng là nơi thông thoáng với ngoài. Đó là chưa kể đầu phố còn có dòng sông, một thời thuyền mắm muối từ xứ Nghệ, Hà Tĩnh lần ra tận đây trao đổi hàng hoá rồi ra đi.. Phố huyện thời ấy lèo tèo mấy căn nhà gạch, còn lại mấy chục căn nhà tranh tre nứa lá nằm sát con đường sắt Hà Nội - Hải Dương. Bốn chung quanh là cánh đồng quê, và xa tít là những luỹ tre xanh ngắt bao bọc lấy làng xóm ngàn đời lam lũ nắng mưa.

Ga Cẩm Giàng là món quà vô giá đối với cái phố huyện nửa cổ nửa kim này. Tuy chỉ là chiếc ga xép, lại bị ép chặt bởi đoạn đường sắt chạy qua, không thể phình ra được… nhưng phố huyện tự hãnh diện vượt lên trước các làng xã xung quanh. Không chỉ tự hào là đất huyện lỵ, là nơi giao lưu buôn bán khu vực, còn là chỗ tụ tập tinh hoa của vùng. Những tin tức, chuyện lạ gần xa khắp nước được ùa vào cái phố nhỏ này thường qua mồm khách đi tàu. Chuyện chính trị, quốc gia, quốc tế theo con tàu mỗi ngày lên xuống Hải Phòng, Hà Nội rồi gửi lại chỉ cần một ít lâu dần cũng thành nhiều. Thành ra có người bảo con gái phố huyện khôn ngoan và thạo giỏi  hơn, đẹp hơn con gái làng khác. Vậy mà ga Cẩm Giàng chỉ lèo tèo vài chiếc quán dựng tạm bợ, hai bên trồng rào găng. Đến mùa, găng chín đỏ hấp dẫn bọn trẻ con nhà nghèo, nhưng chẳng mấy đứa dám ăn, bởi nó có mùi vị hắc đáng sợ. Đêm đêm,  những khi có chuyến tàu ngược xuôi, thì hình như có một bàn tay vô hình đánh thức, phố ga choàng tỉnh dậy  rộn rã ào ạt lên chốc lát. Tiếng bánh xe sắt nghiến đường ray xa dần, thì đêm đen lại lọt thỏm vào cảnh vắng vẻ, buồn thiu.
     Tiếng là huyện lỵ giữa một vùng đồng bằng, nhưng bấy giờ nó chỉ sang hơn làng quê khác nhờ cái chợ và mấy hiệu bán hàng của Hoa kiều, ông hai Phóng, tư Vầy, bà năm Tầu. Cuối phố có lối rẽ  xuống bến đò sông Sen, hai bên xanh biếc những dặng tre. Người đi qua lối này đều ngó vào cổng huyện màu xám, có hai người lính lệ đứng gác như hai con tốt đỏ trong bộ quân tam cúc, nhưng vẫn phảng phất của chút uy quyền của một chính phủ bù nhìn cho Pháp . Những ngày nắng còn đỡ, chỉ cần mưa một ngày đêm, cả phố huyện sũng nước và nhầy nhụa bùn như thể ruộng bừa chuẩn bị cấy. Và cái phổ ga càng ảm đạm, buồn thiu, thấp thoáng vài con người lầm lũi, tan vào các con đường nhỏ, rồi mất hút trong các luỹ tre xanh.
Bài thơ của Nguyễn Duy Huệ, ông giáo về hưu, từng sống những năm trên đất này, tuy mới  chấm phá nhưng vẫn gợi lên nét sinh hoạt khá sinh động nơi phố huyện Cẩm Giàng:
Bạn cũ giờ này sống nơi đâu?
Có còn nhớ buổi  tắm chân cầu
V­ườn chùa hái ổi ai trèo nữa
Lỗ đáo sân ga bỏ đã lâu.


Nhà th­ương ông ký ngồi xem truyện

Ngõ cụt thằng tây huýt sáo mồm
Im bặt sân trư­ờng ông đốc nói
Buồn thiu mẹ ốm đã m­ươi hôm...

Chuồn chuồn bay thấp cơn m­ưa tới
Cá nổi ao nghè lá rụng them
Hành khất quẩn quanh quầy thuốc bắc
Cụ già dắt cháu bư­ớc qua thềm.

Cổng chợ cò cư­a ông xẩm hát
Cửa quan cậu ấm đứng tồng ngồng
Trong nhà cụ chánh lau khăn áo
Tới dự phiên chầu buổi nghị đông.


Chính cái phố huyện bé nhỏ, buồn thiu ấy là nơi chôn rau cắt rốn của một dòng họ mà sau này sinh ra những nhà văn nổi tiếng trên văn đàn nước nhà: Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, từng làm trụ cột  Tự Lực văn đoàn những năm 1930 –1945 ở nước
     Nhưng cũng ít người biết những nhà văn ấy nguồn gốc họ Nguyễn Tường. 



Khúc Hà Linh.

Tuổi Thơ Nguyễn Nhược Pháp

Tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp

Hai tuổi mồ côi mẹ, hưởng dương tròn hai Giáp (24 năm), người con trai của học giả Nguyễn Văn Vĩnh thật là điển hình của sự bất công tạo hóa.
Thế nhưng tạo hóa đã bù lại, ban cho con người những thiên bẩm, tài hoa đặc biệt. Đó là một trang nam nhi tuấn tú, đa tài, gắn trên bầu trời thi ca nước Việt những ánh sao lung linh - nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Nhà thơ Nguyễn Nhược Pháp.

Nguyễn Nhược Pháp là kết quả mối tình sét đánh giữa học giả Nguyễn Văn Vĩnh, một người đa tài, đa tình đất Hà thành và cô gái Lạng Sơn, Phan Thị Lựu.
Năm 1913 ông Vĩnh có khách sạn Trung Bắc ở nhà 50 phố Hàng Trống, gần hồ Gươm - Hà Nội… Cô Lựu thường qua lại trọ ở khách sạn, nên quen biết ông Vĩnh. Rồi do duyên số, họ nên vợ nên chồng.
  Khách sạn Trung Bắc nằm trong khuôn viên rộng mấy nghìn mét vuông. Mặt trước quay chính phố Hàng Trống, mặt sau quay ra phố Lý Quốc Sư. Cả hai mặt đều có cổng lớn, bên trong xung quanh có vườn, cây cối xanh tươi và cổ thụ. Giữa khuôn viên này là một biệt thự ba tầng, trang bị hiện đại để làm nhà khách sạn.
Bà Phan Thị Lựu ở tầng hai. Tại mảnh đất thơ mộng này, ngày 12-12-1914, Nguyễn Nhược Pháp ra đời, sau này tên tuổi in đậm trong “Thi nhân Việt Nam”.
Ông Vĩnh đi làm, đến trưa thì nghỉ lại khách sạn với người vợ hai, tối mới về phố Mã Mây với vợ cả và các con. Tưởng thế cũng là yên ổn, nhưng số phận con người đa tài, đa tình lại vướng bận thêm nhiều và không thể dừng ở đó.
Vừa tuổi lên 2 (năm 1916), Nguyễn Nhược Pháp mồ côi mẹ. Khi biết tin ông Vĩnh có thêm một người đàn bà khác, mà là một cô đầm lai đẹp như thiên thần, thì Phan Thị Lựu không làm chủ được tình cảm của mình. Nỗi ghen tuông đã trào lên và bà đã tìm cái chết để giải thoát.
Chập chững những bước chân trên đường đời, Nguyễn Nhược Pháp được bà Đinh Thị Tính - vợ cả ông Vĩnh - mẹ cả đón về nuôi như con đẻ, với một câu thở than: Cái bà Lựu ghen ngược. Người ghen phải là tôi…
Từ đó cho đến lúc lìa đời, suốt 22 năm (1916 - 1938), Nguyễn Nhược Pháp đều sống với những người anh em cùng cha khác mẹ, trong một đại gia đình, thật vui vẻ và nhiều kỷ niệm sâu sắc.
Đọc những trang hồi ức của những người thân trong gia đình phần nói về tuổi thơ Nguyễn Nhược Pháp, mới thấy rằng đây là một con người có nhiều phẩm chất cao quý, khi còn ấu thơ. Năm 1923, gia đình Nguyễn Văn Vĩnh đã chuyển từ phố Mã Mây về phố Thụy Khuê, trước trường Bưởi (trường Chu Văn An bây giờ) gần hồ Tây.
Đây là một trong những tài sản lớn của ông F.H Schneider- một người Pháp, vốn là đồng nghiệp làm nhà in, xuất bản báo, vì yêu mến ông Vĩnh đã chuyển nhượng cho trước khi ông này về hưu ở cố quốc.
Nhà ông Vĩnh đông người, nhiều con, lại thêm bạn các con ở tỉnh lẻ về ở nhờ để tiện bề ăn học… vậy mà vẫn rất thoải mái.
Gia sản đất đai của Schneider là một khu đất rộng hơn ba nghìn mét vuông. Trong này có biệt thự hai tầng, có xưởng máy giấy mái vòm, bê tông cốt thép, không cột. Ông Vĩnh sửa lại thành nhà thờ và nhiều phòng để ở. Có mười gian nhà ngang, có bếp, nhà để xe, các phòng cho người nhà sinh hoạt…
Bấy giờ hai người con lớn của bà Vĩnh là Nguyễn Hải và Nguyễn Giang đang đi học ở nước ngoài. Còn ba người con gái: Nguyễn Thị Loan, Nguyễn Thị Nội, Nguyễn Thị Vân đã lớn, được ở khu biệt thự với bà Vĩnh và một người cô ruột là bà Nguyễn Thị Tý, làm dược sỹ ở nhà thương Phủ Doãn… Nguyễn Nhược Pháp được ở chung với 7 anh chị em còn nhỏ tuổi ở khu nhà ngang.
Trong đó có Nguyễn Thị Mười, Nguyễn Dực, Nguyễn Hồ còn quá nhỏ, không tự lực được trong sinh hoạt, nên có một u già trông nom… Họ sống rất thoải mái, tự do và khép kín, tự quản, dường như người lớn không ai để ý đến…
Buổi sáng hằng ngày, Nhược Pháp cùng anh chị em học chữ nho khoảng nửa giờ do ông tú tài Phùng Năng Tĩnh người Bát Tràng làm gia sư, dạy dỗ. Rồi họ đạp xe đi học trường tư. Mọi sinh hoạt khác như giặt quần áo, cơm nước đã có người lo hết.
Trong số 7 anh em, Nhược Pháp là con bà hai, được coi là anh, mặc dù sinh sau Nguyễn Dương (con mẹ cả) mấy tháng. Thời xưa xã hội coi những người con vợ bé, chỉ là con thêm vợ nhặt. Nhưng nhà ông Vĩnh không hành xử theo lối ấy.
Theo kể lại, Nguyễn Nhược Pháp thông minh, đẹp trai, học giỏi có đầu óc tổ chức, nhiều sáng kiến, làm đầu tầu cho các em trong các hoạt động, sinh hoạt thể thao, vui chơi rất văn hóa. Nhược Pháp có sáng kiến làm một bản hợp đồng nội bộ, cấm nói nhảm nhí. Cậu soạn ra khoảng 50 câu thông dụng hằng ngày mọi người cần tránh, ví như những từ ngữ: đếch, bỏ mẹ, bỏ xừ…, hoặc những câu chửi thề không ai được nói… Ai lỡ lời nói, người nào nghe thấy, có quyền cốc vào đầu, véo tai, coi như một hình thức phạt.
Nhược Pháp bày trò tập bơi. Khi thì hồ Tây, khi thì ra ao đình làng Thụy Khuê, lúc đến hồ Trúc Bạch. Bảy anh em đều biết bơi kể cả con gái. Nhược Pháp yêu môn bơi lội nhất. Cho tới những ngày mới bị bệnh, anh vẫn chưa chịu bỏ bơi.
Ngày chủ nhật, Nhược Pháp tổ chức đua xe quanh Hồ Tây, có giải thưởng, thu hút các bạn học cùng tham gia. Lại tổ chức trượt pa-tanh. Ban đầu chơi trên đường Hoàng Hoa Thám, sau đường đua dài đến Quần Ngựa, vòng trở về lối Thụy Khuê… Rồi tổ chức tham quan du lịch bằng xe đạp, quanh Hồ Tây, rồi quanh Hà Nội và đi xa hơn.
Mỗi tuần, cha thường cho các con tiền đi xem chiếu bóng, Nhược Pháp rủ rê mấy anh chị lớn hơn, để dành tiền ấy, làm vốn in báo Tuổi Cười. Nhược Pháp làm chủ nhiệm, Nguyễn Phổ làm chủ bút, Nguyễn Kỳ quản lý nhà in. Báo in thạch, hai màu đỏ và tím.
Mỗi tháng một số, có 16 trang, khổ 15x20 cm. Nội dung tờ báo là thông báo những tin tức gia đình, nêu tên ai học giỏi, phê phán những việc xấu. Lại có trang thể thao, biểu dương kỷ lục mới (trong gia đình), có quảng cáo các buổi diễn kịch, diễn xiếc do anh chị em tổ chức trong nhà. Trang cuối có in thơ của Nhược Pháp sáng tác.
Mỗi số ra 10 tờ, bán 5 xu cho người lớn và các anh chị lớn. Báo phát hành được mấy năm. Sau này lớn lên, Nhược Pháp đã chọn những bài thơ trong báo Tuổi Cười, thành tập thơ Ngày Xanh.
Nhược Pháp còn tổ chức một đội kịch gia đình, mà chính anh viết kịch bản và đạo diễn… Các anh chị em làm diễn viên.
Nhà có xưởng in rộng, họ kê bàn ghế thành sân khấu, tạm dùng câu đối nhà thờ trang trí, lại làm phông màn, chăng điện… nghĩa là như sân khấu thật. Giá vé 5 xu một chỗ ngồi.
Những người lớn trong nhà cũng mua vé và ngồi xem cổ vũ con em mình… Có buổi ông Vĩnh cũng ngồi xem các con diễn, ông thấy lòng tràn ngập niềm vui… Nhược Pháp còn hướng dẫn thành lập đội xiếc, phân vai diễn: Người diễn xiếc xe đạp, người làm ảo thuật, người dậy thú, người thổi kèn.

Nguyễn Nhược Pháp có những thú vui thật giản dị, không giống bất cứ một thiếu gia nào thời bấy giờ. Chăm chỉ học hành, yêu quý mọi người, và biết tự lập. Viết xong một bài thơ, một truyện ngắn, vở kịch… khi có tiền nhuận bút thì rủ một hai em, hay vài bạn bè đi ăn phở xách Nghi Xuân bang thất ở phố Hàng Đàn, giá 5 xu một bát…
Nhược Pháp đã viết được một số vở kịch, và có một ước mơ, là cùng với Phạm Huy Thông, bạn học thời ở Trung học Albert Saraut, tri kỷ văn chương, cùng nhau tổ chức một Đoàn kịch không chuyên, đưa lên sân khấu vở kịch Người học vẽ của mình.

Nhược Pháp như một trang giấy trắng thơm, một bông hoa thanh khiết. Vào những năm cuối đời, trái tim chàng thi sỹ, tác giả bài thơ Chùa Hương đã xôn xang trước một cô gái áo đen, phố Hàng Đẫy, như một lời tỏ tình.
Đó là một tiểu thư, một trong tứ mỹ Hà thành bấy giờ. Hằng ngày đạp xe qua nhà, đứng bên này đường nhìn vào vườn nhà em, ngắm nhìn bóng em thấp thoáng. Rồi hình ảnh cô gái áo đen trong vườn của nhà họ Đỗ ở phố Hàng Đẫy, cứ sống mãi trong tim Nhược Pháp...
Nhược Pháp chưa tường mặt thân mẫu của mình, nhưng được mẹ cả hết lòng yêu thương, như con đẻ. Trước khi nhắm mắt ra đi về cõi vĩnh hằng, bà dặn lại Hãy đặt mộ của tôi nằm bên cạnh Nhược Pháp.
Nguyễn Nhược Pháp sinh ra là hoạt động, cả đến khi nhuốm bệnh vẫn không ngừng ý chí vươn lên vượt qua số mệnh.
Từ 2 tuổi Nhược pháp sống với mẹ cả ở Mã Mây rồi đi học vỡ lòng. 6 năm tiếp theo học phổ thông trường Trí Tri (phố Hàng Đàn và Trung Bắc học hiệu - phố Lý Quốc Sư). 14 tuổi thi đỗ lớp 6 Trường trung học Albert Saraut. 20 tuổi đỗ tú tài phần nhất, 1935 đỗ tú tài phần hai, vào Đại học luật. Nhược Pháp luôn học giỏi, xứng đáng cho các em noi theo.
Từ năm 1930 trở đi, kinh tế gia đình Nguyễn Văn Vĩnh bắt đầu khó khăn trầm trọng. Nguyễn Nhược Pháp vừa đi học để thi tú tài, thi đại học Luật, vừa làm ở tòa báo An Nam mới, viết thơ… để có tiền nhuận bút, giảm bớt chi tiêu của gia đình cho mình…
Từ sau khi chị Nội đang đi học Luật năm thứ ba mắc bệnh mất (1933), rồi cha mất (1936), chị Vân mất (1938), và tin anh Hải mất trong Nam… Nhược Pháp buồn đau, nhuốm bệnh lao hạch…
Ngày 19-11-1938 ông trút hơi thở cuối cùng tại Bệnh viện Đồn Thủy, hưởng dương 24 tuổi.
Ông để lại ba bức thư. Một bức viết bằng chữ Pháp, cám ơn các thầy thuốc đã hết lòng cứu chữa. Một bức thư vĩnh biệt mẹ cả và gia đình (khi ấy ông Vĩnh mất được hai năm).
Một bức gửi cho người anh là nhà thơ Nguyễn Giang, với tâm nguyện, hãy chăm sóc mẹ cả và các em nhỏ tốt hơn nữa.
Ban đầu, thi hài Nhược Pháp được mai táng ở nghĩa trang Hợp Thiện, Quỳnh Lôi, Mai Động, Hà Nội, sau được bốc mộ về làng Phượng Dực, quê cha.


KHÚC HÀ LINH
--------------

Tứ đại mỹ nhân Hà Thành xưa.