Thứ Sáu, 14 tháng 6, 2024

Vấn đề mỹ học trong quy hoạch đô thị ở Đông Dương

 Vấn đề mỹ học trong quy hoạch đô thị ở Đông Dương



Bài báo này được viết năm 1944, đăng trên tuần san Indochine, tác giả bài viết là kiến trúc sư Louis Georges Pineau, người đã dành nhiều thời gian để sinh sống và làm việc ở Việt Nam. Là người được giao quy hoạch Đà Lạt vào năm 1932, ông nổi tiếng với triết lý quy hoạch “vùng bất kiến tạo” để bảo tồn tối đa cảnh quan cho thành phố này, và triết lý đó đã được các nhà quy hoạch đô thị tuân thủ trong nhiều năm xây dựng Đà Lạt thời trước 1975. Hiện nay vùng bất kiến tạo theo đề xuất của Pineau dành cho Đà Lạt đã không còn vì cảnh quan đã bị phá vỡ và hỗn loạn. Trong bài báo này, Pineau dành nhiều lời chỉ trích việc một số các công trình, khu đô thị ở Đông Dương đã được quy hoạch không theo một quy tắc chung về mỹ học.

Louis Georges Pineau

“Ở một nền văn minh mà sự lịch thiệp không do bẩm sinh, không do giáo dục thì người thầy duy nhất là vẻ lịch sự của những địa điểm đẹp, dáng thanh nhã của những con đường, phong cách đẹp của những công trình nghệ thuật; và cuộc sống trong các đô thị phải tự nó làm nảy nở trong các cư dân của nó ý thức tự trọng và tôn trọng người khác, tức những thứ được gọi một cách chính xác là phép lịch sự” – Jean Giraudoux.

Thứ Ba, 4 tháng 6, 2024

BÀI GIẢNG TRÊN NÚI


 “BÀI GIẢNG TRÊN NÚI” CỦA FRA ANGELICO (1395-1455)

Trong cuốn “Lives of the Artists”, xuất bản năm 1550, Giorgio Vasari viết: "để khắc họa những điều thánh thiện và tâm linh, người nghệ sĩ phải có một tâm hồn thánh thiện và ngoan đạo". Không ai trong lịch sử nghệ thuật đáp ứng đầy đủ yêu cầu đó hơn Guido di Pietro-được biết đến trong đời sống tôn giáo dưới tên Fra Giovanni da Fiesole, nhưng được biết đến nhiều hơn nữa ở tư cách nghệ sĩ với cái tên Fra Angelico. Như một tu sĩ, ông chỉ bắt đầu vẽ tranh sau một thời gian dài cầu nguyện, và tranh ông tràn đầy lòng thành tín. Ông được Giáo hoàng John Paul II phong chân phước vào năm 1984.
Bức bích họa “Bài giảng trên núi” này, được Fra Angelico thực hiện từ năm 1440 đến 1450, như một phần trang trí cho Tu viện St Marco ở Florence. Tu viện St Marco trước đây của Dòng Đa Minh ở Florence, hiện là bảo tàng nhà nước, lưu giữ một số bản thảo được cho là hoàn toàn hoặc một phần do tay Fra Angelico làm.
Tuy được xem là một hoạ sĩ xuất sắc của giai đoạn Tiền Phục Hưng tiếp thu đầy đủ các kỷ pháp tạo hình mới nghiêng theo chiều hiện thực bắt đầu từ Giotto (1267-1337), nhưng khi sáng tác, Fra Angelico vẫn thể hiện với tinh thần của một tu sĩ-xem tranh vẽ về các chủ đề tôn giáo như là một “văn bản thần học bằng hình” hơn là một tác phẩm nghệ thuật. Mọi tìm tòi sáng tạo của ông, đều tập trung vào nỗ lực biểu tượng hoá hình thức biểu đạt không khác gì các nghệ sĩ Byzantium trước ông khá lâu.
Cần phải ghi chú điều này, để chuẩn bị một cách tiếp cận đòi hỏi kiến thức về biểu tượng học (Iconography) đối với tác phẩm “Bài giảng trên núi” của Fra Angelico. Tất cả các chi tiết trong tranh, từ hình ảnh núi đá có dạng hình tròn, với 12 thánh Tông đồ ngồi theo vòng tròn, đến màu trang phục của Chúa Jesus, tay phải chỉ lên trời còn tay trái cầm “văn bản” của Ngài... đến vầng hào quang trên đầu Judas v.v... đều đã được biểu tượng hoá nhằm tường minh một chủ đề quan trọng bậc nhất trong Kinh Thánh này.
Hình tròn, là biểu trưng cho sự viên mãn, cho Thiên Chúa (Pascal-1623/1662-sau này đã nói: "Thiên chúa là một bầu tròn mà trung tâm ở khắp nơi, còn chu vi thì không ở đâu cả" "Dieu est une sphère dont le centre est partout et la circonference nulle part") Núi đá hình tròn, tượng trưng cho “Nước Chúa nơi trần thế”, nền tảng của Giáo hội.
Hình ảnh Chúa Jesus tay phải chỉ lên trời, tay trái cầm “văn bản”, là nhằm truyền đạt ý nghĩa của bài giảng trên núi như một tuyên ngôn “Hiến Chương Nước Trời”.
Áo đỏ của Chúa Jesus, là màu máu mà Ngài đổ xuống trong công cuộc cứu chuộc. Còn màu xanh thiên thanh của áo khoác trùng với màu bầu trời, biểu trưng cho Thần tính nơi Ngài...
Judas cũng được mô tả trong bức tranh của Fra Angelico, được biểu thị bằng quầng đen trên đầu - một vầng hào quang của bóng tối đại diện cho cái ác. Sự lấp ló của hình tượng Judas, tượng trưng cho nguy cơ bóng tối và cái ác luôn có thể xâm nhập và tồn tại trong Giáo hội...
Còn nhiều chi tiết cần phải phân tích, trong bài viết in trong sách “Nghệ thuật Công giáo” tôi trình rõ và sâu hơn. Ở đây, chỉ trình bày như những gợi ý để suy tư...
NGUYÊN HƯNG


Bài giảng trên núi vẽ bởi Carl Heinrich Bloch

Bài giảng trên núi, theo Phúc âm Matthew, là bài thuyết giáo được Chúa Giêsu giảng cho các môn đệ và đám đông lớn trên một ngọn núi vào khoảng năm 30 CN (Mt 5:1; 7:28). Nơi diễn ra bài giảng được cho là một ngọn núi ở bờ bắc của biển Galilee, gần Capernaum mà ngày nay gọi là núi Bát Phúc. Chi tiết của bài giảng được đúc kết từ Tin mừng Matthew 5-7.

Bài giảng trên núi có thể được so sánh với một bài giảng ngắn hơn, Bài giảng trên đất bằng, được trình thuật trong Tin mừng Luke (Luke 6:17–49). Một số nhà bình giảng cho rằng chúng là một bài giảng, một số khác cho rằng Chúa Giêsu thường rao giảng những chủ đề tương tự ở nhiều nơi khác nhau, và một số nhà bình luận khác lại cho rằng không có bài giảng nào thực sự diễn ra, nhưng chúng được Matthew và Luke đúc kết từ những lời giảng chính của Chúa Giêsu.

Có lẽ phần được biết đến nhiều nhất của bài giảng là Tám mối phúc thật ở đầu bài giảng. Bài giảng cũng bao gồm Kinh Lạy Cha và các huấn thị "không trả thù" và "giơ cả má kia", cũng như phiên bản Khuôn vàng thước ngọc của Chúa Giêsu. Các phần khác cũng thường được trích dẫn như "muối của đất," "ánh sáng thế gian," và "đừng xét đoán, để khỏi bị xét đoán." Nhiều người Kitô cho rằng Bài giảng trên núi là để diễn giải (midrash) cho Mười điều răn. Đối với nhiều người, gồm cả những nhà tư tưởng tôn giáo và đạo đức như Tolstoy và Gandhi, Bài giảng trên núi chứa đựng những nguyên lý trung tâm của giáo lý Kitô giáo.

Thứ Hai, 3 tháng 6, 2024

Đức trinh nữ nguyện cầu


 

“ĐỨC MẸ ĐANG CẦU NGUYỆN” CỦA GIOVANNI BATTISTA SALVI DA SASSOFERRATO (1609-1685)

Bức tranh về lòng sùng kính này khiến chúng ta cảm thấy như thể đang ở trong cùng một căn phòng với Đức Trinh Nữ Maria, và đang cầu nguyện với Người. Bối cảnh trong tranh đơn giản và tối nên không có gì làm chúng ta phân tâm khỏi cái đầu cúi xuống khiêm cung của Đức Trinh Nữ... Ánh sáng rực rỡ thu hút sự chú ý vào tấm vải xếp nếp màu xanh lam chói lọi của Đức Trinh Nữ-rất khó diễn tả các cảm xúc về sự trong trẻo, tinh khiết của màu xanh quý giá này...
Các nhà cải cách của Giáo hội Công giáo La Mã vào thế kỷ thứ mười sáu chủ trương cách tiếp cận thờ phượng cá nhân hơn, đặc biệt chú trọng đến việc chiêm nghiệm cá nhân. Vào thế kỷ XVII, chủ đề về Đức Trinh Nữ một mình và khi cầu nguyện đã trở nên rất phổ biến. Riêng Sassoferrato cũng đã vẽ rất nhiều tranh về chủ đề này, và đây là tác phẩm nổi tiếng nhất
Bức tranh này, được Sassoferrato sáng tác vào năm 1650. Hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Nghệ thuật Quốc gia London.
(Trích từ sổ tay nghệ thuật Công giáo-2014)


Thánh Cecilia, Bảo tàng Poldi Pezzoli



Madonna với đứa trẻ, Rijksmuseum



Madonna với trẻ em và các thiên thần, Galleria Nazionale d'Arte Antica

Thứ Bảy, 1 tháng 6, 2024

Sleep (giấc ngủ)

Dali là hoạ sĩ Siêu thực, cha đẻ của những hình ảnh đẹp đẽ ở giữa ranh giới hiện thực và ác mộng.

Bức tranh  Sleep (giấc ngủ), 1937 của Salvador DaliSalvador Dali.

Khi ngủ, thân thể bị sụp đổ, chỉ có cái đầu là chính. Cái đầu nặng nề, hai tai bị bịt kín để khỏi nghe ngoại giới, được nâng đỡ bởi những cột chống - là những định chế xã hội của thế giới thức tỉnh - rất mong manh. Không gian tràn ngập sương mù. Cái đầu rất to so với những cột chống đỡ. Dali giải thích, “Những cây cột có thể gẫy đổ bất cứ lúc nào. Đó là sự mong manh chắp nối của thế giới được gọi là thực.”


Le Sommeil (Giấc ngủ,) 1937

Bức tranh bị thu hút bởi những hình ảnh xảy ra ở ranh giới giữa ngủ và thức. Chúng có thể xảy ra khi mọi người đang ngủ hoặc khi họ bắt đầu thức dậy và chúng có xu hướng cực kỳ sống động, đầy màu sắc và kỳ quái. Họa sĩ đã thử nghiệm nhiều cách khác nhau để tạo và ghi lại những hình ảnh kỳ ảo này.

Theo Dali, những hình ảnh phi thường dường như không biết từ đâu xuất hiện nhưng đều có logic. Vô thức là một dòng năng lượng sống, chuyển động mà từ đó các suy nghĩ dần dần vươn lên mức độ ý thức và có một hình thức xác định. 

Ví dụ:
Một trong những kỹ thuật yêu thích của anh ấy đượci phát hiện ra là anh ấy đặt một chiếc đĩa thiếc xuống sàn rồi ngồi xuống chiếc ghế bên cạnh, cầm một chiếc thìa trên đĩa. Sau đó anh ấy sẽ hoàn toàn thả lỏng cơ thể; đôi khi anh ấy bắt đầu buồn ngủ. Khoảnh khắc anh bắt đầu buồn ngủ, chiếc thìa sẽ tuột khỏi ngón tay anh và kêu leng keng trên đĩa, ngay lập tức đánh thức anh để ghi lại những hình ảnh siêu thực.


“Người đứng bên cửa sổ”, 1925.
Người mẫu chính là 
Anna Maria, em gái của Dali


Họa sĩ Nguyễn Hưng viết trên FB Nguhuart.

Nghĩ về con người hiện tại, tôi chợt nhớ đến những hình nhân như cao su nhễu nhão trong tranh Dali, mà cả mắt, cả mũi, cả miệng, cả thân đều phải gá trên những chiếc nạng gỗ. Con người như thế là đã bị tha hoá đến tận cùng! Tự nó, không đứng thẳng được "là người!". Phải cần đến những cái nạng-bây giờ, có thể thay bằng một chiếc SH, một chiếc Mercedes, một cái bằng tiến sĩ, một danh hiệu đại gia...!
Có thể là tác phẩm nghệ thuật đại chúng