Hiển thị các bài đăng có nhãn Điển tích. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Điển tích. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 9 tháng 2, 2017

Lá gió, cành chim

Về đời vua Đại Tông nhà Đường (763-780) ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây có nhà nho tên Tiết Trịnh, làm quan ở Thành Đô, Tứ Xuyên, sinh một đứa con gái tên Tiết Đào. Nàng học hành giỏi, tư chất thông minh, vừa lên sáu đã biết làm thơ. Nhưng ý thơ rất lẳng lơ.
Năm Tiết Đào lên tám, một hôm vào mùa thu, Tiết Đào đứng chơi bên cạnh cha, gần một cây ngô đồng. Cây đã già, cành lá sum suê trước nhà, trông như sát từng mây. Tiết Trịnh ngắm cảnh buột miệng ngâm.

Tranh vẽ Tiết Đào trong Minh cừu anh hội - Liệt nữ truyện đồ,
Tiết đào hí tiên (明仇英绘 "列女传图—薛涛戏笺")
庭除一古桐
耸干入云中
枝迎南北鸟
叶送往来风

Đình trừ nhất cổ đồng,
Tung cán nhập vân trung.

Nàng Tiết Đào liền ngâm tiếp.
Chi nghinh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong.

Nghĩa.

Ngô đồng đứng trước sân,
Thân cây cao vút mây.

Đàn chim cành nam bắc
Đưa lá gió sớm chiều.
Nghe con gái đọc lời thơ lả lơi, Tiết Trịnh thở dài nghĩ.
- Nghiệp chướng đã vận vào mình rồi. Cứ như lời thơ này con gái ta về sau ắt sẽ là một đứa lãng mạn, bướm ong.
Hai năm sau, thân phụ Tiết Đào bạo bệnh qua đời. Vì làm quan thanh liêm nên sau khi chết, đời sống họ Tiết rất chật vật. Tiết Đào phải xin vào phường ca kỹ, ngày ngày đàn hát ngâm thơ đón kẻ tao nhân mặc khách, lấy tiền nuôi mẹ già.

Ở chốn ca lâu, mang tấm thân ngà ngọc, tài học uyên thâm ra để mua vui cho những kẻ có tiền, nàng Tiết Đào buồn rầu, thường sáng tác những bài ca phổ vào nhạc điệu dạy đoàn ca nữ múa hát hay chính nàng nhịp phách ca ngâm.

Những bài ca của nàng rất tuyệt tác, được truyền tụng trong phường, nên được nhiều người trọng vọng, thường gọi nàng là Tiết tú tài. Những văn nhân tài tử bốn phương nghe danh đổ đến để cùng nàng đề thơ xướng họa, mong được nàng Tiết lưu ý đến họ. Nhưng mắt xanh chẳng lọt vào ai, nàng Tiết vẫn làm nghề ca kỹ.
Nhờ danh tiếng, Tiết Đào kiếm được chút vốn liếng bèn dựng một ngôi nhà bên cầu Vạn Lý. Nàng lại chế ra một thứ giấy ngũ sắc có vẽ cây tùng, cây bách, cây liễu, hoa sen rất đẹp, đặt tên là "Hoa tiên tùng giang". Giấy này dùng để viết thơ do Tiết Đào làm, nên về sau gọi là Hoa tiên Tiết Đào.

Tượng Tiết Đào ở Thành Đô

Quan Tư Mã Thiểm Châu là Vương Kiến mến tài nàng Tiết nên thân đến cầu Vạn Lý thăm, và tặng nàng một bài thơ.
Vạn Lý kiều biên nữ Hiệu Thư
Tỳ bà hoa hạ bế môn cư.
Tảo mỵ tài tử tri đa thiểu,
Quản lĩnh đông phong tổng bất như.

Dịch.

Nàng Hiệu Thư Lang ở bến sông,
Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông.
Ngày xuân cửa đóng hoa ngăn gió.
Bao kẻ tôi mày đã uổng công.
(Bản dịch của Bùi Khánh Đản)
Giếng Tiết Đào (薛涛井) ở Thành Đô
Đời vua Hiến Tông nhà Đường (806-821) có quan Tả Thập Di tên Nguyên Chẩn, một danh nho đương thời, vâng chiếu chỉ thanh tra đất Thục. Nghe danh nàng Tiết những mong được gặp nên nhờ bạn giới thiệu. Đôi bên gặp nhau, xướng họa đối ẩm xem chừng tương đắc. Thế là từ đấy cả hai quyến luyến, chẳng rời.
Nhưng rồi vì công vụ, Nguyên Chẩn phải trở lại Trường An phục mệnh. Kẻ lên ngựa chẳng yên lòng dứt áo, người ở lại ngậm ngùi nhỏ lệ buồn thương.
Rồi một điều chẳng may hơn nữa, tướng trấn thủ Tây Xuyên là Lưu Tích tạo phản, đốt phá Thành Đô. Nguyên Chẩn nóng lòng sốt ruột, mướn người đi vào đất Thục tìm nàng Tiết Đào. Nhưng lần nào cũng hoàn toàn thất vọng vì đường bị nghẽn, làm tin tức vắng bặt.
Nguyên Chẩn buồn bã thương nhớ giai nhân. Tuy quan san cách trở, thời gian qua mau nhưng mối tình kỳ ngộ sâu xa đối với Tiết Đào vẫn canh cánh bên lòng.
Riêng về nàng Tiết Đào, từ ngày chia tay cùng ý trung nhân thì vẫn mỏi mắt trông chờ tin tức nhưng vẫn bặt tin nhạn cá. Ngày tháng trôi qua, tuổi càng chồng chất, nghĩ buồn thương cho thân phận xấu số vô duyên, nên lui về ở đầm Bạch Hoa, mặc cà sa, ăn chay niệm Phật.
Năm Thái Hòa thứ 5 (811) đời vua Văn Tông, nàng Tiết Đào bị bạo bịnh mất.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn diễn tả cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà, có câu.

Biết bao bướm lả, ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Thanh.

"Lá gió cành chim" xuất xứ ở bài thơ của nàng Tiết Đàọ Và, bài thơ đó chính là một điềm chỉ về vận mạng của nàng vậy.

Bạng Duật tương trì, Ngư ông đắc lợi

Ngư ông đắc lợi với tên đầy đủ là: Bạng duật tương trì, ngư ông đắc lợi, một điển tích của Trung Quốc được sử dụng trong tranh vẽ của gốm sứ.
Bạng là con trai, thuộc loài sò hến, nhưng lớn, thịt béo.
Duật là con cò, giống chim mỏ dài, cổ cao, lưng màu tro, lông trắng ở ngực và bụng, thường ở ngoài đồng, ăn các loài sò, hến, hay cá nhỏ. Tục truyền rằng, khi Trời sắp mưa con Duật kêu lên, nên sách Thuyết văn gọi con chim Duật là: Tri Thiên tương vũ điểu (con chim biết Trời sắp mưa).
Thời Xuân Thu, người ta dùng lông chim Duật để làm mũ cho các quan coi Thiên văn, nên sách Lễ Ký có câu: Tri Thiên văn giả quan Duật (Người biết Thiên văn là quan đội mũ bằng lông chim Duật).
Tương trì là kéo níu lẫn nhau. Ngư ông là ông làm nghề chài lưới. Đắc lợi là được lợi.
Bạng Duật tương trì, ngư ông đắc lợi là con trai và con cò kéo níu nhau làm ông chài được lợi, vì ông chài túm bắt cả hai con đem về làm thịt, nấu chung một nồi.
Trong Chiến quốc sách có viết một đoạn nói về “Bạng Duật tương trì, ngư ông đắc lợi” như sau:
Vào Thời Chiến Quốc bên Tàu, hai nước Yên và Triệu thường đánh nhau. Chiến tranh kéo dài từ năm này sang năm khác, khiến đều bị suy kiệt dần.
Một người nước Yên tên là Tô Đại (anh của Tô Tần) tới yết kiến vua nước Yên là Huệ Vương, tâu rằng:
- Trên đường đi tới đây, tôi đi ngang qua bờ sông Dịch Thủy, thấy một con trai đang há miệng phơi nắng. Lúc đó một con cò đáp xuống, thấy thịt trai có vẻ ngon, thò mỏ mổ vào thịt trai, con trai lập tức khép chặt miệng lại, kẹp cứng mỏ cò. Hai con trì níu nhau một hồi lâu.
Con cò bảo.
- Hôm nay mầy không há miệng ra, ngày mai mầy không há miệng ra, mầy sẽ chết đói.
Con trai đáp.
- Hôm nay mầy không rút được mỏ ra, ngày mai mầy cũng không rút được mỏ ra, mầy cũng sẽ chết đói.
Hai con tiếp tục trì kéo nhau, không con nào chịu buông tha con nào.
Một ông chài đi ngang trông thấy, mỉm cười thích chí, thò tay túm bắt cả hai, đem về nhà. Cả nhà ông chài được một bữa ăn ngon lành.
Hiện nay, nước Triệu đang muốn đánh và thôn tính nước Yên; nước Yên cũng đang chuẩn bị đánh lại. Hai nước cứ tiếp tục đánh nhau, khiến dân chúng hai nước điêu linh khổ sở, chẳng khác chi hai con trai và cò trì kéo lẫn nhau.

Tôi e rằng nước Tần hùng mạnh kia sẽ đóng vai ngư ông, chờ hai nước Yên và Triệu không còn đủ sức tự vệ nữa thì đem quân thôn tính cả. 

Vua Yên Huệ Vương cho là lời nói của Tô Đại rất xác đáng, giật mình tỉnh ngộ, khen thưởng Tô Đại là người thấy xa biết rộng, rồi cử làm sứ giả, đi qua nước Triệu giảng hòa, bãi việc chiến tranh.

Kết cỏ ngậm vành

Tích Kết cỏ ngậm vành
  1. Ngụy Thù là người nước Tấn, có một người thiếp yêu, khi sắp chết còn dặn con là Ngụy Khỏa phải đem cả người thiếp chôn theo. Ngụy Thù chết, Ngụỵ Khỏa cho người thiếp về, không đem chôn theo. Sau Ngụy Khỏa làm tướng đi đánh nước Tần, gặp tướng Tần là Đỗ Hồi, khỏe mạnh có tiếng, đang lúc đánh nhau, tự nhiên Đỗ Hồi vấp phải đám cỏ mà ngã, bị Ngụy Khỏa bắt được. Đêm về, Ngụy Khỏa mộng thấy một ông già đến nói rằng: "Tôi là cha người thiếp, cảm ơn ông không chôn con gái tôi, nên tôi kết cỏ quấn chân Đỗ Hồi cho nó ngã vấp để báo ơn"...
  2. Tục Tề hài ký:..
    Dương Biểu đến chơi núi Hoa Âm, cứu sống được một con chim. Đêm ấy có một đồng tử mặc áo vàng đến tặng bốn chiếc vòng và nói rằng: "Ta là sứ giả của Tây Vương mẫu may được chàng cứu mạng, xin cảm tạ đại ân"..
    Do đó, người ta thường nói "kết cỏ ngậm vành" để chỉ sự đền ơn trả nghĩa
Hình ảnh đôi chim trong tích ngậm vành thể hiện trên tranh vẽ

Đằng Vương Các


落霞與孤鶩齊飛,
秋水共長天一色。
Lạc hà dữ cô vụ tề phi,
Thu thuỷ cộng trường thiên nhất sắc. (Vương Bột)
  Ráng chiều rơi xuống, cùng cái cò đơn chiếc đều bay;  Làn nước sông thu với bầu trời kéo dài một sắc.


   

Ngựa quen đường cũ




Chuyện bắt nguồn từ câu chuyện của Tề Hoàn Công đi đánh nước Cô Trúc thời nhà Chu bên Trung Quốc.

Lúc cất quân đi là mùa Xuân, lúc trở về đã là mùa đông, băng tuyết phủ đầy nên quân lính của Tề Công bị lạc đường. Quản Trọng bèn tâu:
- Thưa bệ hạ, trí nhớ của ngựa già rất tốt. Xin để con ngựa già đi trước dẫn đường.
Quả nhiên, ngựa đã tìm được đường về. Do đặc tính ghi nhớ mùi vị rất tốt, nên ngựa thường rất nhớ những con đường chúng đi qua. Câu thành ngữ này vốn ca ngợi những người có kinh nghiệm thường rất thành thuộc sự việc.
Tuy nhiên trải qua nhiều tam sao thất bản, câu thành ngữ đã bị đổi nghĩa hoàn toàn. Ngày nay, người ta dùng câu thành ngữ này để ám chỉ những người có thói hư tật xấu cố hữu không thể bỏ được. Hoặc chỉ về một người vừa làm một chuyện xấu đã bị lên án xong vẫn tái phạm.

Tùng hạ vấn đồng tử

Tìm người ở ẩn, không gặp
Tầm ẩn giả bất ngộ
                   Giả Đảo

Tùng hạ vấn đồng tử
Ngôn: sư thái dược khứ,
chỉ tại thử sơn trung
Vân thâm bất tri x
Tạm dịch.
Dưới gốc tùng hỏi em bé.
Em nói: thầy đi hái thuốc rồi,
Chỉ tay vào núi rừng.
Mây dày chẳng biết (thày) ở chỗ nào.

寻隐者不
松 下 问 童 子
言 师 采 药 去
只 在 此 山 中
云 深 不 知 处  

Nơi ấy có nhiều mây. Và lần này quả thật chú sa di không biết thầy mình đang đứng ở đâu, dù chú biết thầy đã từ buổi sáng tinh sương đi vào núi sâu hái thuốc. Thầy đang hái thuốc hay là thầy đang hái những cụm mây trong các đọt thông già ?
Sao chú không mời khách vào trong am và đãi ông ta một chén trà nóng ?Thưa ông, thầy tôi đi hái thuốc trong núi chắc cũng gần về. Mời ông vào am dùng trà, và đợi thầy về. Sao chú lại để khách đứng mãi ngoài ngõ như thế ? Sương nhiều lắm, áo của khách đã ướt, chú không thấy sao ?
Thưa ông, nếu ông có chuyện gấp tôi sẽ xin vào núi tìm thầy. Mây tuy dày đặc, nhưng tôi có thể đưa tay làm ống loa để gọi. Thưa thầy, thầy đang ở đâu, con đang đi tìm thầy, có người khách đang đợi.
Xin sư chú đừng bận tâm. Xin sư chú cứ cho tôi tự nhiên. Tôi muốn được ngồi đây, uống một chén trà và ngắm núi rừng sương phủ. Xin đừng làm rộn thầy. Lúc nào người về cũng được. Người không về thì cũng không sao...
Nơi đây có nhiều mây, nhưng chính nơi đây tôi sẽ thấy rõ được mặt người. Nơi đây có nhiều mây, nhưng chính nới đây tôi sẽ thấy rõ được mặt tôi. Am dựng bên sườn núi. Phía sau, bao nhiêu ngõ ngách, bao nhiêu lối mòn. Trên kia, đình núi lấp trong mây, đỉnh núi ngự trị không biết tự bao giờ. Đỉnh núi chăm sóc. Đỉnh núi che chở. Mỗi buổi chiều, mây về quấn quanh đỉnh núi, mây về quấn quanh chân núi. Am ngủ trong lòng mây và am là am mây.
Nhất Hạnh


------------------------------------------------------------------------------------

Tranh minh họa bài thơ của Giả Đảo. 
Dòng chữ trên tranh: "Tùng hạ vấn đồng tử"

Bình tranh vẽ.  Dưới cành tùng lâu năm la đà, em bé đang đi chăn ếch. Rất hài hước. Chưa nghe nói buộc ếch đi chơi, dây buộc vào cổ ếch thì buộc chỗ nào nhỉ? Thắc mắc vô ích vì đó là em bé! Trò chơi như vậy mới là trò của “em bé”, tư duy em bé.

Điển tích Lã vọng câu cá

Điển tích “Câu cá chờ thời” của Khương Thái Công là một câu chuyện về đức tính kiên nhẫn của người làm việc lớn, mặc dù các nhà nghiên cứu lịch sử cũng cho là không có thực.

Đề tài Lã Vọng trên dầm trà ( Ảnh Van Pham).

Tích là Ngũ liễu tiên sinh.


          Chân dung Đào Tiềm do Trần Hồng Thu vẽ
Đào Tiềm thường kê giường nằm ngủ cạnh cửa sổ để hóng gió mát và tự cho mình là người của thời Đường Nghiêu - Ngu Thuấn, là thời kỳ thái bình thịnh trị trong huyền sử Trung Hoa thời cổ đại.
Ông lánh đời, tìm thú vui ở sách, ở rượu, ở ruộng đồng và làm văn để tiêu khiển, tỏ chí mình (Ngũ Liễu tiên sinh). Trở về với thiên nhiên, nhưng ông không không đơn thuần ngâm trăng vịnh gió, mà tâm tình ông bao trùm luôn cảnh thiên nhiên và cảnh thiên nhiên phản ảnh những điều ông ấp ủ trong lòng. Lấy bài nào cũng minh họa được ý ấy. Bởi thế, thơ điền viên của ông rất khác với thơ của những nhà thơ đồng thời hay sau ông, vì họ thường chú trọng màu sắc, âm thanh trong cảnh thiên nhiên...bằng những lời đẹp đẽ, ít có nội dung xã hội.
Đào Uyên Minh lúc đáng thì buồn, đáng vui thì vui...thật đúng là một con người sống mà vượt khỏi cái tầm thường của thế nhân. Con người ông, từ phẩm cách đến tính tình, tu dưỡng đều có quan hệ mật thiết với tác phẩm của ông...Lương Chiêu Minh thái tử nói rất đúng: "Những ai đọc được văn của Uyên Minh thì lòng sẽ chừa không dám tranh đua, ý keo kiệt sẽ tiêu tán, tham lam sẽ trở nên thanh khiết, hèn yếu sẽ trở nên tự lập".. Nói như Lỗ Tấn, "chính vì ông có nhân cách, nên ông mới vĩ đại".
Trước đây, nhiều người chỉ thấy ở Đào Tiềm là một "ẩn sĩ phiêu diêu ngoại vật"...nhưng theo Lỗ Tấn thì ông có nhiều bài thơ tích cực nữa, như những bài Vịnh Nhị Sơ, Vịnh Tam lương, Thuật Tửu...đều dính dáng đến sự đổi thay của triều đại thời đó.
"Ông sinh hoạt theo cảnh tự nhiên mà điềm đạm, ở trong cảnh nghèo mà vẫn lấy làm vui, lấy các thú ngắm núi sông cỏ cây để khuây khỏa nỗi buồn chán việc đời...Về văn từ, lời thơ ông bình thường, điềm đạm, mới đọc không lấy gì làm hay, làm lạ, nhưng ngẫm nghĩ kỹ mới thấy thú vị đậm đà." (Dương Quảng Hàm)
Ngũ Liễu tiên sinh quả là một con người Tự Do.
-------

Dầm vẽ tích Đào Tiềm (Đào Uyên Minh) trên đường về quê ở ẩn 
Hai câu thơ trong bài Sơn Hành của Đỗ Mục.

   
 
 
 

Sơn hành 
Viễn thướng hàn sơn thạch kính tà, 
Bạch vân sinh xứ hữu nhân gia.
 
Đình xa toạ ái phong lâm vãn,
 
Sương diệp hồng ư nhị nguyệt hoa.

Dch nghĩa 
Lên ngọn núi, đường đá chênh chênh, 
Giữa nơi lửng lơ mây trắng có nhà người ở.
 
Dừng xe vì yêu cảnh rừng phong buổi chiều,
 
Lá gặp sương thu, mầu đỏ hơn cả hoa tháng hai.

Cảnh tiễn bạn của Dương Vạn Lý

Buổi sớm ra chùa Tĩnh Từ tiễn Lâm Tử Phương

Phần thi trên hiện vật là 2 câu thơ đầu của bài thơ tiễn bạn của tác giả Dương Vạn Lý 
Nguyên bản:

Phiên âm:

Hiểu xuất Tĩnh Từ tự tống Lâm Tử Phương

Tất cánh Tây Hồ lục nguyệt trung,
Phong quang bất dữ tứ thì đồng.
Tiếp thiên liên diệp vô cùng bích,
Ánh nhật hà hoa biệt dạng hồng.

Dịch:
Buổi sớm ra chùa Tĩnh Từ tiễn Lâm Tử Phương
"Bát ngát Hồ Tây cảnh hạ trông
Mùa sen khác với mọi mùa không
Liền trời sắc lá xanh xanh ngắt
Nắng chiếu màu hoa thẫm lạ lùng"

Ghi chú: Tây hồ, Hàng châu, TQ.

Tích “Hòa hợp nhị Thánh”


Đĩa vẽ tích “Hòa hợp nhị Thánh”, niên đại thế kỷ XVIII
Theo truyền tích Trung Hoa, vào đời nhà Đường có hai nhà sư tên Hàn Sơn và Thập Đắc là bạn đồng tu  tại chùa Quốc Thanh. Sau một thời gian xa cách, Thập Đắc đi đến Tô Châu tìm Hàn Sơn. Nghe tin bạn đến, Hàn Sơn vội bẻ một cành hoa sen đang nở làm vật đón bạn. Gặp nhau hai người vô cùng hoan hỷ, Hàn Sơn lấy hoa sen phủi bụi trên áo cho Thập Đắc. Thập Đắc mở bình bát mới khất thực được mời Hàn Sơn cùng ăn. Về sau hai người cùng về ẩn tu ở Hàn Sơn tự, thường cứu giúp, hóa độ quần chúng. Do cảm niệm ân đức của Hàn Sơn và Thập Đắc cùng phong thái tự tại giải thoát nên dân gian thường vẽ hình ảnh Hàn Sơn  tay cầm hoa sen, Thập Đắc tay cầm bát cơm ngụ ý sự chia sẻ và hòa hợp. Đến đời Ung Chính nhà Thanh, vua Ung Chính hạ chiếu phong Hàn Sơn là Hòa Thánh, Thập Đắc là Hợp Thánh, cho nên bức họa thường đề là “Hòa hợp nhị Thánh”.

Trương Lương dâng giày

Trương Lương nhờ nhẫn nại dâng dép 3 lần cho Ông Tiên Huỳnh Thạch Công mà được trao sách quí. Nhờ học sách nầy mà Trương Lương làm Quân Sư cho Hán Lưu Bang.