Thứ Năm, 30 tháng 6, 2022

Phan Thúy Hà - từ xóm Trùa đến cây bút “phi hư cấu” nổi tiếng

 Phan Thúy Hà - từ xóm Trùa đến cây bút “phi hư cấu” nổi tiếng

Nguyễn Khắc Phê

Tôi chú ý đến Phan Thúy Hà, khi 3 cuốn truyện “phi hư cấu” của cô nổi đình đám trong giới truyền thông: Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Gia đình đều do NXB Phụ nữ cấp phép, trong đó cuốn Đừng kể tên tôi đã tái bản lần thứ 4.

3 cuốn sách của Phan Thúy Hà: 'Đừng kể tên tôi', 'Tôi là con gái của cha tôi', 'Gia đình' - do NXB Phụ nữ ấn hành

ẢNH: N.K.P

Khi biết quê Phan Thúy Hà ở Hương Khê là nơi tôi đã qua lại nhiều lần trong những năm chiến đấu trên đường 12A, tôi đã “kết bạn” với cô qua Facebook. Hai “bác cháu” đã “trò chuyện” với nhau nhiều lần, mong có dịp gặp để hiểu thêm cuộc đời cây bút trẻ đồng hương.

Mấy năm qua, dư luận hầu như chỉ bàn đến 3 tác phẩm Đừng kể tên tôi, Tôi là con gái của cha tôi, Gia đình, nhưng Phan Thúy Hà còn cuốn thứ tư - Qua khỏi dốc là nhà (NXB Kim Đồng, 2018) cũng thuộc dòng “phi hư cấu” mà gần như là “Tự truyện”, lại bị “chìm” so với 3 cuốn kể trên, mặc dù có bạn đọc rành về văn chương cho rằng, cuốn này về một số mặt còn hay hơn 3 cuốn kia!

Có thể xem Qua khỏi dốc là nhà là “chân dung tự họa” không chỉ của bản thân và gia đình Phan Thúy Hà mà của cả một làng quê đúng là “vùng sâu vùng xa”, trong đó có xóm Trùa, xã Phúc Đồng, huyện Hương Khê. Vào dịp ra Hà Nội dự Đại hội Nhà văn, hai bác cháu lần đầu gặp nhau. Như đã hẹn, Phan Thúy Hà mang đến tặng tôi cuốn Qua khỏi dốc là nhà.

Bìa cuốn sách Qua khỏi dốc là nhà (NXB Kim Đồng)

Ảnh: N.K.P

Tôi đã đọc cuốn sách suốt trên chuyến tàu vô Huế và ước chi tất cả các học sinh cấp 2 và cấp 3 được đọc tác phẩm này. Ở đây có vấn đề thị hiếu và tâm lý độc giả hiện nay do Qua khỏi dốc là nhà không thuộc dòng sách “ăn khách” trên thị trường - chỉ là chuyện những đứa trẻ cùng gia đình vật lộn với cuộc mưu sinh ở một vùng đất gian khó. Tác giả sinh năm 1979, bố đang học Đại học Tổng hợp Sử Hà Nội thì đi bộ đội, mẹ học Trường Sư phạm năm 1972 rồi trở thành cô giáo. Năm anh chị em lớn lên chủ yếu trong thời bao cấp thiếu thốn đủ thứ sau chiến tranh. Không có những sự kiện lớn, mâu thuẫn “địch - ta” hay những cuộc đấu gay cấn với các quan tham và tệ nạn xã hội; cuốn sách gồm toàn những chuyện rất bình thường, thậm chí là nhỏ nhặt trong đời sống hàng ngày. Chuyện khó khăn thời bao cấp thì cũng đã có không ít sách nói đến.

Chính là với một đề tài “chẳng có chi lạ” như vậy, Phan Thúy Hà đã chứng tỏ khả năng quan sát, lựa chọn chi tiết và thể hiện bằng một bút pháp riêng - giản dị, kiệm lời mà rất gợi cảm. Chuyện hai chị em tranh nhau ngủ với bà, nỗi đau khi người bạn phải bỏ học, tình cảnh mẹ con đi bán nón, bán chè suốt buổi không ai mua, chuyện nữ sinh “tuổi mới lớn” bỡ ngỡ trước dấu hiệu giới tính… Cả đến chuyện con chó mực nhà chị Vân cũng làm bạn đọc thổn thức: khi gia đình chị dời vô Nam sinh sống, nhà dỡ rồi, nó vẫn về nằm trên nền đất cũ, chỉ khi sinh con, nó mới đến “tạm trú” bên thềm nhà Phan Thúy Hà; sau đó mất tích, ai ngờ nó ra nằm trên mảnh ruộng cũ nhà chị Vân cho đến chết! Còn nhà Hà có con bê, do vô ý để nó bị cảm, bụng trướng mà tưởng nó ăn no, “suốt đêm bò mẹ rống lên cầu người cứu con mà không ai biết”; khi nó chết, Huân (em trai Phan Thúy Hà) “ôm bê khóc nức nở… Người ta đến nhà làm thịt con bê. Huân bỏ học, ngồi ở thềm cửa khóc bê hời hời…”.

Cuốn sách Qua khỏi dốc là nhà không chia chương hồi, thường là những đoạn văn ngắn, nhưng cũng có những “đoạn” nhiều tình tiết như trong một truyện ngắn. Hình như Phan Thúy Hà không mấy bận tâm đến thể loại, mà chủ yếu tìm cách diễn đạt tốt nhất cảm xúc của mình trước những cảnh đời, những số phận từng in dấu sâu đậm trong cuộc đời mình.

Nhà văn Phan Thúy Hà

Ảnh: NVCC

Tôi đọc cuốn sách khi mì tôm cứu trợ tràn ngập các tỉnh miền Trung, nên câu chuyện dân xóm Trùa lần đầu được ăn mì tôm như là truyện cổ tích và hấp dẫn như… khi chị em Phan Thúy Hà được ăn mì tôm. Nhà có mì tôm nhờ o Liên ở thị trấn mua về tặng bà. “Một gói mì tôm, bà và 5 đứa cháu chia nhau. Còn bốn gói bà vùi trong thóc khỏi chuột gặm… Một đêm… mở mắt thấy bà đang mở cánh cửa sập. Bà bảo nghe loạt xoạt, đoán có chuột mò mì tôm…”. Rồi đêm khác, nghe tiếng loạt xoạt, Hà thấy bà chui trong sập ra, bẻ nửa gói mì, còn nửa gói lại. “Bà thấy nhọc trong người…”. Thế là bà cháu nhen lửa để bà bồi dưỡng mì tôm. “Thìa cuối cùng, bà nhường cho mình. Ăn xong, hai bà cháu cười tươi. Bà lên giường ngủ ngon…”. Cô giáo ốm, “cả lớp góp tiền mua mì tôm tới thăm. Cô bảo lớp trưởng bóc hết ra mời các bạn. Mình đến lớp đem theo gói bột nêm bóc ra từ bao mì… Từng đứa xòe bàn tay ra chia đều liếm láp…”. Đọc chuyện thật mà như… bịa; thấy tội tội thương cảm một thời mà cũng ấm áp tình người một thời.

Ngày chiếc ti vi đầu tiên xuất hiện ở xóm Trùa cũng lắm “chuyện lạ” như thế. Phấn là “trưởng toán” trẻ con giỏi tìm cách đi xem nhờ ti vi nhà hàng xóm. Nhưng người xóm Trùa thời nghèo khó ấy luôn giữ nếp sống “đói cho sạch, rách cho thơm”, mà có lẽ nhà Phấn là tiêu biểu. Cha Phấn vác cày ra đồng, thấy một lá tre rụng, “cũng thả cày vào nhà lấy chổi vơ sạch. Uống một bát nước chè ở nhà Phấn cũng ngon hơn vì từng cái bát được đánh sạch bong… Phấn bảo vì mình nghèo nên phải sạch sẽ khỏi bị khinh… Mẹ của Phấn đi đâu ai mời cũng bảo ăn no ở nhà rồi. Bụng đói cồn cào, nhưng đi qua sân nhà người ta đang ăn cơm, mẹ Phấn cũng bẻ cái tăm ngậm miệng vờ như vừa ăn xong…”.

Phấn phải bỏ học từ nhỏ, trong lao động, Hà xem Phấn như “sư phụ”; mỗi khi đi chặt củi, “gánh củi hắn to, đẹp, nuột nà. Gánh củi mình xộc xệch, rườm rà. Làm xong trước, hắn đi chặt giúp mình… Mình mở đùm cơm ra, chia hắn một nửa. Hắn bảo mình ăn từ từ để cảm nhận cho hết cái ngon…”. Phấn còn “dạy” cho Hà muốn được các em nể trọng thì phải làm gương, bảo chúng quét nhà một lần không nghe thì mình quét, ba lần như thế, chúng phải hiểu... Vậy mà một ngày Phan Thúy Hà vô “đôộng” đi củi về, nghe tin Phấn nhảy giếng tự tử! “Tại sao mày chết?”, câu hỏi day dứt Hà mãi cho đến khi xóm Trùa nhiều nhà có ti vi, có điện “chẳng phải vừa xem vừa hồi hộp canh chừng bình ắc quy…”. Không dễ lý giải mọi điều trong cuộc sống, nhất là ở những vùng heo hút như xóm Trùa. Ví như nhà bác Chắt bỗng dưng bị vu “có thuốc độc” khi có đứa cháu ốm nặng “do ăn cơm nhà cậu Chắt”; thế là “một câu chuyện li kỳ rùng rợn được dựng lên… mỗi người lại thêm thắt tình tiết”; đến nỗi bác phải bỏ quê hương vô Nam. “Giờ phút ra đi, vác bao đồ lên vai, bác gục xuống bậc thềm nhà, khóc rống lên như một đứa trẻ”. Ở nơi xa quê, bác đột nhiên thành người mất trí!...

Dân xóm Trùa cũng có gia đình vô Nam, gặp điều kiện sinh sống dễ dàng, trở nên sung túc hơn. “Dốc quê nhà bây giờ cũng đã khác… Xe chở đất đi đắp đường…”. Cuộc sống khởi sắc, Phan Thúy Hà đậu một lúc 3 trường đại học, em trai được chọn Trường năng khiếu cấp Bộ ở Vinh…, nhưng tác phẩm của Phan Thúy Hà ghi lại nhiều câu chuyện xưa “khiến ta nghẹn giọng, vì nỗi buồn nặng như đất, mạnh mẽ và khô rốc ở trong đó” (Lời bình của nhà văn Lê Minh Hà) không chỉ để nhắc nhở thế hệ hôm nay phải biết trân quý cuộc sống đang không ngừng đổi mới mà còn lay động chốn sâu lắng hơn trong tâm hồn con người. Cuộc sống xô bồ, xu hướng chạy theo vật chất ngày một “lên ngôi” hiện nay rất dễ làm người ta xem nhẹ giá trị tinh thần, những tình cảm bà - cháu, mẹ - con, anh - em… cả tình thương, nỗi nhớ với con dốc, gốc cây, con chó, con bê từng chung sống với mình. Tất cả, đã được Phan Thúy Hà thể hiện một cách thật chân thực và cảm động. Con người hơn các loại sinh vật khác chính là ở đó! Và cuộc sống, tiện nghi giàu sang đến mấy cũng vẫn có cảnh đời bất hạnh, những lúc gặp chuyện đau buồn.

Vậy nên, đọc tác phẩm Phan Thúy Hà, nhà văn Lê Minh Hà bình luận: “Bạn sẽ được nhận vào mình một cảm giác rất đau và rất đẹp, là cảm thông được với con người”.

Còn Phan Thúy Hà đã viết trong những trang cuối tác phẩm Qua khỏi dốc là nhà:

Người mua lại khu vườn nhà bác Chắt kêu xe tới xúc đất bán đi. Bác Chắt không trở lại. Bác không còn quê hương. Bác mất trí nhớ. Bác không biết buồn.

Một mình bước lặng giữa lối Động Am. Trưa hè tháng tư đàn bướm rợn ngợp trên những lối đi không dấu chân người… Những chiếc xe chở con dốc đi. Chở đi khúc tuổi thơ thân thương khó nhọc…”.

Từ xóm Trùa vùng núi Hương Khê xa xôi, từ tuổi thơ gian khó và giàu kỷ niệm như thế, Phan Thúy Hà đã trở thành cây bút được rất nhiều nhà văn tên tuổi cả ba miền nể trọng.

Thứ Hai, 20 tháng 6, 2022

Quan tâm đến khả năng biết






Hồ Anh Thái

Thiên hạ đã viết về Đức Phật suốt 2.500 năm nay, nhưng triết luận một cách độc đáo mà thuyết phục như Osho thì quả là hiếm có.

Osho là nhà hiền triết ở Ấn Độ hiện đại. Trong chuyên luận này, ông đi từ phản biện để dẫn đến tính “không thể bác bỏ” của Phật giáo: “Thật khó thấy Phật giáo hấp dẫn. Chỉ những người hiếm hoi vô cùng thông minh mới có thể bị nó hấp dẫn. Nó không thể trở thành một tôn giáo đại chúng. Khi nó trở thành một tôn giáo đại chúng, nó chỉ trở thành như vậy khi đánh mất tất cả tính nguyên sơ để thỏa hiệp với đám đông.

Ở Ấn Độ, Phật giáo biến mất bởi vì những người theo Đức Phật yêu cầu nó phải thuần khiết. Có những người nghĩ rằng bởi vì các triết gia và nhà huyền môn Hindu bác bỏ đạo Phật nên đạo Phật mới biến mất khỏi Ấn Độ. Điều đó là sai. Không thể bác bỏ nó. Chưa bao giờ có ai bác bỏ nó. Không có khả năng bác bỏ vì ngay từ đầu nó đã không dựa trên logic.

Nếu điều gì đó dựa trên logic, bạn có thể phá hủy nó bằng logic. Nếu điều gì đó dựa vào luận chứng logic, bạn có thể bác bỏ nó. Phật giáo không hề dựa trên logic. Nó dựa trên kinh nghiệm, nó mang tính hiện sinh. Nó không tin tưởng vào bất kỳ lý thuyết siêu hình nào thì làm sao bạn có thể bác bỏ nó? Nó không bao giờ xác nhận bất cứ điều gì về bất cứ khái niệm nào. Nó chỉ đơn giản là mô tả kinh nghiệm sâu thẳm nhất. Nó không có triết lý cho nên các triết gia không thể bác bỏ nó.

Nhưng đúng là Phật giáo đã biến mất khỏi Ấn Độ. Lý do cơ bản của sự biến mất đó là Đức Phật và những người theo ông yêu cầu nó phải thuần khiết. Chính yêu cầu về tính thuần khiết này trở thành một cái hố ngăn cách không thể san lấp. Đám đông không thể hiểu nó, chỉ những người hiếm hoi, một nhóm rất có văn hóa, thông minh, quý tộc, một số ít được lựa chọn mới có thể hiểu những gì Đức Phật ngụ ý. Những ai thấu hiểu nó thì trong chính sự thấu hiểu đó, họ đã được chuyển hóa. Còn với đám đông thì nó là vô nghĩa. Nó mất chỗ đứng của mình đối với đám đông.

Ở Trung Quốc, nó thành công. Ở Tây Tạng, ở Sri Lanka, ở Myanmar, ở Thái Lan, ở Nhật Bản, nó thành công - nhờ những nhà truyền giáo. Khi thấy những điều xảy ra ở Ấn Độ, những nhà truyền giáo Phật giáo đi ra khỏi đất nước này đã trở nên rất thỏa hiệp. Họ đã thỏa hiệp. Họ bắt đầu nói bằng ngôn ngữ khẳng định. Họ bắt đầu nói về thành tựu, phúc lạc, thiên đường, từ cửa sau họ mang vào mọi thứ mà Đức Phật từng từ chối. Một lần nữa đám đông thấy hạnh phúc. Cả nước Trung Quốc, cả châu Á ngoại trừ Ấn Độ đã cải đạo sang Phật giáo. Ở Ấn Độ, người ta chỉ cố gắng trao thông điệp thuần khiết, không có sự thỏa hiệp, điều đó là không thể. Ở Trung Quốc, đạo Phật trở thành một tôn giáo đại chúng nhưng khi đó, nó đã mất đi chân lý của mình.

… Ngay khi một tôn giáo được tổ chức, nó sẽ chết, bởi vì bạn chỉ có thể tổ chức một tôn giáo khi bạn thỏa hiệp với đám đông. Bạn chỉ có thể tổ chức một tôn giáo khi bạn thuận theo khao khát của đại chúng. Bạn chỉ có thể tổ chức một tôn giáo khi bạn sẵn sàng biến nó thành chính trị và sẵn sàng đánh mất tính tôn giáo của nó.

Chỉ có thể tổ chức một tôn giáo khi nó không còn là một tôn giáo thực sự. Nói cách khác, không thể tổ chức một tôn giáo như một tôn giáo. Khi được tổ chức, nó không còn là tôn giáo. Một tôn giáo thực sự về cơ bản sẽ luôn vô tổ chức, sẽ luôn hỗn loạn một chút, sẽ luôn lộn xộn một chút, bởi vì tôn giáo thực sự là tự do” (trang 236 - 241).

Osho sinh ra trong gia đình theo đạo Hindu nhưng không khẳng định mình là người tôn giáo. Ở vị trí ấy, Osho có quyền nhìn nhận khách quan về các tôn giáo: “Loài người đã tạo ra thượng đế bằng chính hình ảnh của mình. Đó là một sáng tạo của con người. Thượng đế không phải là một phát hiện mà là một phát minh. Và thượng đế không phải là sự thật, nó là sự dối trá vĩ đại nhất.

Đó là lý do tại sao tôi nói Phật giáo không phải là một tôn giáo theo nghĩa thông thường của từ này. Một tôn giáo không có thượng đế, bạn mường tượng được không? Lần đầu tiên các học giả phương Tây biết về Phật giáo, họ đã bị sốc. Họ không thể hiểu nổi việc một tôn giáo có thể tồn tại mà không có thượng đế. Họ chỉ biết Do Thái giáo, Thiên Chúa giáo và Hồi giáo. Tất cả ba tôn giáo này đều ở trên một con đường rất non nớt so với Phật giáo.

Phật giáo là một tôn giáo trưởng thành. Phật giáo là tôn giáo của một tâm trí trưởng thành. Phật giáo hoàn toàn không trẻ con chút nào và nó không ủng hộ bất kỳ khao khát trẻ con nào trong bạn. Nó tàn nhẫn. Để tôi nhắc lại: chưa bao giờ có ai từ bi hơn Đức Phật, nhưng tôn giáo của ông thì rất tàn nhẫn.

Trên thực tế, bằng sự tàn nhẫn đó, ông thể hiện lòng từ bi của mình. ông ấy sẽ không cho phép bạn níu bám vào bất cứ dối trá nào” (trang 246).

… “Đức Phật là cá nhân gây choáng váng nhất trong lịch sử loài người. Cả đời ông chỉ nỗ lực làm một việc là đánh gãy tất cả các cột chống. Ông không nói phải tin vào điều gì. Ông là một người nghi ngờ và tôn giáo của ông cũng là tôn giáo của sự nghi ngờ. Ông không nói “tin tưởng đi”, ông nói “hoài nghi đi” (trang 248 - 249).

“Một khi bên trong bạn sự sống vốn đã phong phú, bạn sẽ không tìm kiếm giàu sang, bạn sẽ không tìm kiếm quyền lực. Các nhà tâm lý học đã nhận thức được rằng khi con người bắt đầu bị mất năng lực tình dục, họ bắt đầu tìm kiếm các biểu tượng thể hiện tình dục để bù vào. Nếu một người bị mất năng lực tình dục thì anh ta có thể tìm cách có được chiếc xe hơi lớn nhất, đó là biểu tượng thể hiện sức mạnh trong tình dục.

… Các nhà tâm lý học thấy rằng những người có một mặc cảm thấp kém nào đó luôn luôn trở nên tham vọng. Trên thực tế, hầu như không ai tham gia vào hoạt động chính trị trừ khi anh ta bắt rễ sâu trong một mặc cảm thấp kém. Các chính trị gia về cơ bản là những người mang trong mình những mặc cảm thấp kém. Họ phải chứng tỏ sự ưu trội của mình theo cách nào đó, nếu không, họ sẽ không thể sống với mặc cảm thấp kém của mình” (trang 285 - 286).

Hiểu biết và có kiến thức là hai khái niệm khác nhau, Osho khẳng định: “Đức Phật không tích lũy kiến thức. Người trí tuệ không quan tâm nhiều đến đến thông tin hay kiến thức. Người trí tuệ quan tâm nhiều đến khả năng biết. điều người ấy quan tâm là việc biết chứ không phải kiến thức.

Việc biết cho bạn sự thấu hiểu, kiến thức chỉ cho bạn cảm giác am hiểu mà thiếu đi sự thấu hiểu thực sự. Kiến thức là giả, nó lừa bịp. Nó chỉ cho bạn cảm giác rằng bạn biết, nhưng bạn hoàn toàn chẳng biết gì. Bạn có thể tích lũy thật nhiều kiến thức nếu muốn. Bạn có thể viết sách, bạn có thể có bằng cấp, bạn có thể có những tấm bằng tiến sĩ hay thạc sĩ nhưng vẫn nguyên là con người dốt nát, ngốc nghếch mà bạn vốn thế. Những bằng cấp đó không thay đổi bạn, chúng không thể thay đổi bạn. Trên thực tế, sự ngốc nghếch của bạn trở nên mạnh mẽ hơn, giờ đây nó đã có bằng cấp. Nó đã có thể chứng tỏ mình thông qua bằng cấp. Nó không thể chứng tỏ mình thông qua cuộc sống, nhưng thông qua bằng cấp thì được. Nó chẳng thể chứng tỏ bất cứ điều gì qua bất cứ cách nào khác, nhưng nó sẽ đem theo bằng cấp, chứng chỉ, sự thừa nhận từ xã hội. Người ta nghĩ rằng bạn biết, và bạn cũng nghĩ rằng bạn biết.

Bạn đã thấy điều này chưa? Những người được cho là rất uyên bác cũng dốt nát như bất cứ ai, đôi khi còn dốt nát hơn. Thật hiếm có những người trí tuệ trong thế giới học thuật, rất hiếm. Tôi đã từng sống giữa thế giới học thuật và tôi nói vậy thông qua trải nghiệm của chính mình. Tôi đã thấy những nông dân trí tuệ nhưng chưa thấy những giáo sư trí tuệ. Tôi đã thấy những tiều phu trí tuệ nhưng chưa thấy những giáo sư trí tuệ. Tại sao? Có điều gì sai ở những người này?

Một điều sai: họ có thể dựa vào kiến thức. họ không cần trở thành người biết, họ có thể trông cậy vào kiến thức. Họ đã tìm được một phương cách gián tiếp.

… Khi bạn có thể có kiến thức theo cách gián tiếp, sao phải bận tâm? Bạn chỉ cần ngồi trên chiếc ghế của mình. Bạn đến thư viện hay trường đại học là có thể thu thập thông tin. Bạn có thể dựng nên một chồng thông tin và ngồi lên đỉnh.

Thông qua kiến thức, trí nhớ của bạn trở nên ngày một lớn, nhưng trí tuệ của bạn thì không. Đôi khi cũng có trường hợp, bạn không biết nhiều, bạn không quá uyên thâm thì bạn sẽ phải trở nên trí tuệ.

Tôi đã nghe…

Một phụ nữ mua được một hộp hoa quả nhưng bà ta không mở được hộp. Bà ta vội vàng lao vào phòng làm việc để xem một cuốn sách dạy nấu ăn. Đến khi tìm thấy đúng trang và chỉ dẫn, bà ta hối hả quay lại để mở hộp thì người hầu đã mở nó ra rồi.

Bà ta hỏi: “Làm sao mà anh mở được?”

Người hầu trả lời: “Thưa bà, nếu bà không biết đọc, bà sẽ phải dùng đến trí óc”.

Phải, chuyện xảy ra như thế đấy. Đó là lý do tại sao những người nông dân, thợ làm vườn hay tiều phu thất học lại trí tuệ hơn, xung quanh họ tỏa ra một sự tươi mới nào đó. Họ không biết đọc, cho nên họ phải dùng đến trí óc. Con người phải sống và dùng đến trí não của mình” (trang 15 - 18).



_______

* Đức Phật - cuộc đời và giáo huấn, chuyên luận của Osho, Lê Xuân Khoa dịch, Thái Hà Books và NXB Hà Nội 2019.

Thứ Sáu, 17 tháng 6, 2022

Lớp lớp sự thật & nghệ thuật truyện “phi hư cấu” của Phan Thúy Hà

 

Lớp lớp sự thật & nghệ thuật truyện “phi hư cấu” của Phan Thúy Hà

Nguyễn Khắc Phê


Phan Thuý Hà là một tác giả mới nổi lên gần đây với bốn cuốn sách “phi hư cấu” đang được nhiều bạn tìm đọc – “Đừng kể tên tôi” đã in lần thứ 4, “Tôi là con gái của cha tôi” vừa tái bản và “Gia đình” mới xuất bản đầu năm 2020 nghe đâu đã bán gần hết; cuốn thứ tư “Qua khỏi dốc là nhà” do NXB Kim Đồng in năm 1918, gần như là tự truyện tuổi thơ của Phan Thuý Hà. Cả ba cuốn trước đều do NXB Phụ nữ cấp phép với gần 1000 trang in và không ghi thể loại. “Phi hư cấu” chỉ là thuật ngữ để các nhà phê bình xếp chung những cuốn sách chủ yếu tái hiện sự thật cuộc sống, không có sự “bịa đặt”, tưởng tượng (hư cấu) của người viết (nói vui một chút, cũng tương tự như gọi chung gà, vịt, ngan… là “gia cầm”!) chứ sách của Phan Thúy Hà không “đồng dạng” với hàng loạt cuốn được xếp vào “phi hư cấu” được dư luận chú ý những năm gần đây.


SỰ THẬT ĐƯỢC CHUYÊN CHỞ TRONG SÁCH PHAN THÚY HÀ LÀ GÌ?

Đã nói đến sách “phi hư cấu” thì đây là điều trước tiên cần quan tâm. Chúng ta đều biết, nhiều cuốn “Truyện ký”, “Ký sự” hay “Ghi chép” của các nhà văn đã xuất bản trước đây cũng là truyện “người thật việc thật” nhưng thủ pháp, mục đích và cả vị thế của tác giả khác xa Phan Thúy Hà. Ví như hai tập ký sự về Cồn Cỏ của nhà văn Nguyễn Khải và Hồ Phương, cũng có nhiều trang viết được hình thành từ lời kể của nhân vật nhưng đây là những con người anh hùng tiêu biểu cho một hòn đảo anh hùng và được miêu tả bởi những vị khách Trung ương, những nhà văn tên tuổi, nhằm cổ vũ, nêu gương tinh thần dũng cảm quên mình cứu nước. Tôi nhắc hai cuốn sách này vì cuốn sách đầu tay của tôi – tập ký sự “Vì sự sống con đường” (1968) viết về cuộc chiến đấu bảo đảm giao thông đoạn đường dưới chân đèo Mụ Giạ, lúc đó được xem là “Cồn Cỏ trên đất liền” – cũng là những tấm gương anh hùng, “máu có thể đổ nhưng đường không thể tắc”. Tôi không có uy danh như hai nhà văn Nguyễn Khải, Hồ Phương, nhưng lại có ưu thế là “người trong cuộc”; tuy vậy, do mục đích viết là nêu gương, cổ võ tinh thần chiến đấu, nên âm hưởng chính là ngợi ca, ít nói đến những mất mát đau thương. Bây giờ nhìn lại, những cuốn sách như thế là cần thiết, không chỉ có ích cho cuộc chiến đấu đang lúc gay go mà hình ảnh những chiến sĩ quên mình vì nghĩa lớn vẫn là tấm gương cho hậu thế noi theo vì cuộc sống luôn cần những con người có tinh thần cao cả, dám dấn thân vào nơi đầu sóng ngọn gió. Nhưng mặt khác, những cuốn sách như thế chưa thể hiện được toàn bộ sự thật cuộc chiến đấu cũng là sự thật lịch sử. “Nói có sách, mách có chứng”, chính là cuốn sách của tôi, mặc dù tác giả là “người trong cuộc”, nhưng đã “bỏ qua” không miêu tả đến tận cùng những tổn thất bi thương trong trận chiến khốc liệt nhất giai đoạn đó, khi tiểu đoàn pháo cao xạ mang tên Nguyễn Viết Xuân phải đối đầu với 200 lượt phản lực Mỹ tiến đánh hai chiếc cầu lớn nhất đường 12A tại trọng điểm Ca Tang ngày 16/4/1965 mà say sưa ca ngợi gương chính trị viên Đậu Trọng Vĩnh: “Anh người cao to, lại đứng ở chỗ cao nhưng mặc máy bay trút bom đạn xối xả xung quanh vẫn không cúi đầu, thỉnh thoảng lại hô lớn: “Noi gương Nguyễn Viết Xuân! Nhắm thẳng quân thù mà bắn!” và anh đã chiến đấu như anh Xuân. Một loạt rốc-két nổ gần công sự, mảnh đạn cắt đứt cánh tay phải của anh. Anh bị thương nặng rồi, máu chảy đầm đìa, nhưng anh vẫn đứng đấy, tay trái còn lại của anh vẫn lấy hướng địch bay để khẩu đội tiếp tục bắn!...”.

Sau này, một bạn văn là cựu chiến binh, đọc cuốn sách này, mặc dù rất xúc động trước sự hy sinh của các chiến sĩ giữ đường 12A, đã nói nhỏ với tôi: “Bị cắt đứt một cánh tay thì làm sao có thể đứng chỉ hướng địch bay? Không cần chi tiết này, anh Vĩnh và đồng đội của anh vẫn rất anh hùng rồi!”.

Nguyễn Khắc Phê trở lại cầu Ca Tang

Thú thật, tôi viết câu trên theo lời kể của một nữ công nhân nổi tiếng một thời vì đã lao lên chuyển đạn giúp bộ đội pháo trận đó và chính cô cũng nghe người khác nói lại! Như vậy, sự thật chỉ có một, nhưng qua “truyền khẩu” rồi thể hiện lên trang giấy, rất có thể biến thể (nói theo ngôn ngữ sân khấu là biến thành những lớp diễn khác nhau). Ở đây, xin được “mở ngoặc” nói thêm về cụm từ “Người trong cuộc” rất dễ ngộ nhận. Như tôi, từng tự hào là “người trong cuộc” đối với mặt trận giao thông ở Trường Sơn và Quảng Bình thời chống Mỹ, nhưng thực ra tôi chỉ biết một phạm vi nhỏ thôi. Vì thế, trận chiến có thể nói là thảm khốc suốt 4 giờ bên cầu Ca Tang hơn nửa thế kỷ trước, tôi chỉ viết theo lời kể lại và cũng chỉ một góc nhỏ. Cũng vì không tận mắt chứng kiến (và tất nhiên vì tránh chuyện bi thương lúc cuộc chiến đấu đang gây chết chóc hàng ngày!), trong cuốn sách của mình vừa nhắc đến, tôi đã “bỏ qua” không viết về sự kiện bi thảm tám Thanh niên Xung phong đại đội 757 Lệ Thủy bị bom trúng hầm bên đoạn đường gần La Trọng từ giữa năm 1965, nghĩa là trước rất xa các sự kiện tương tự ở “Hang Tám Cô” đường 20 cũng như ở Đồng Lộc và Truông Bồn, được giới truyền thông và hàng triệu người biết đến, hàng năm được tưởng niệm trân trọng, trong khi tám Thanh niên Xung phong Lệ Thủy hầu như không được ai nhắc đến, cũng như hàng vạn liệt sĩ trong nhiều, rất nhiều trận chiến khốc liệt khác! (Mãi cách đây mấy năm, tôi mới viết về sự hy sinh thầm lặng của tám Thanh niên Xung phong này trên một tờ báo…).

Có lẽ sẽ có bạn trách tôi lạc đề “dài dòng” về những chuyện hy sinh từ hơn nửa thế kỷ trước như thế. Xin thưa: Tháng 7 này với ngày 27/7 và Lễ “Xá tội vong nhân” thì nhắc đến những người đã khuất là phải đạo; và chính ba cuốn sách của Phan Thúy Hà chủ yếu cũng kể về những cái chết vô cùng đau thương; hơn nữa, những điều tôi “dài dòng” ở trên là bằng chứng, nhân chứng rằng sách Phan Thúy Hà là sự “bổ sung lịch sử” cần thiết như một nhà phê bình đã viết. Mặt khác, nó cũng chứng tỏ những cây bút thế hệ Phan Thúy Hà dám tìm cách viết khác những người đi trước (không như tôi, khi chưa bắt tay viết tập ký sự về đường 12A đã hăng hái thầm nhủ “sẽ viết một cuốn sách như ông Nguyễn Khải đã viết về Cồn Cỏ!”).

Quả là Phan Thúy Hà đã theo một phương cách có lẽ chưa có tiền lệ ở Việt Nam: tác giả ghi lại chân thực theo lời kể của người trong cuộc – thực sự là “người trong cuộc”. Vẫn là theo “lời kể”, nhưng cô không ngại vất vả và cả nguy hiểm, tìm đến những nhân chứng tự mình trải nghiệm, hoặc tận mắt chứng kiến. Do đó, trên những trang sách của cô, có rất nhiều chi tiết chân thực “không ai có thể hư cấu đến độ khốc liệt như vậy được” như nhà văn Trần Huy Quang đã nhận xét. Khác với nhiều cuốn sách “phi hư cấu” trước đây, Phan Thúy Hà không “bận tâm” đến diễn tiến các sự kiện lớn, không bình luận chuyện “thắng-thua” – nếu dùng thuật ngữ hậu hiện đại, tuy không thật chính xác lắm, thì cô không màng đến các “đại tự sự” – mà chỉ theo đuổi số phận từng con người, hầu hết là những con người trong “góc khuất” của lịch sử.

Trong ba cuốn sách vừa xuất bản, Phan Thúy Hà đã tìm gặp và ghi lại cho chúng ta biết ít nhất 100 người, 100 số phận khác nhau, đối cực nhau ở nhiều miền đất nước – đó là nói “tròn” cho… đẹp, chứ trong 65 bài viết được ghi lại, nhiều bài có đến vài, thậm chí 5-6 câu chuyện; có chuyện chỉ mươi dòng, nhưng cũng có chuyện dài mấy chục trang, như là một tiểu thuyết bị nén chặt. Không thể và không nên thuật lại cả trăm câu chuyện trong ba cuốn sách của Phan Thúy Hà, nhưng qua một vài trích dẫn các chi tiết – mà như có người đã viết “trong văn chương, chi tiết nhỏ làm nên tác phẩm lớn” – bạn đọc cũng có thể hình dung phần nào “cốt cách” những trang sách của Phan Thúy Hà.

Đây là một chi tiết trong chuyện “Những ngày ở A Lưới” (Sách “Đừng kể tên tôi”) do ông Lê Quốc Tuyển, đại đội 20, trung đoàn 9, sư đoàn 968 (hiện sống tại thị trấn Hương Khê - Hà Tĩnh), kể: “…Trung đoàn 9 mất sức chiến đấu, lệnh trên đem trung đoàn 8 đang ở ngoài Quảng Bình vào thay ở địa bàn Tây Huế. Nghe tin đó, ba thằng còn lại ở điểm cao yên tâm chờ đợi. Chờ bảy ngày rồi vẫn không thấy trung đoàn 8 vào… Tôi nói với đại đội trưởng, mấy người phải đưa liệt sĩ này ra… Địch phát hiện ra nã súng liên tục. Lại quay vào. Thấy ba người vẫn chưa đưa được liệt sĩ ra… Đầu ngoi lên là trúng đạn ngay lập tức… Tôi nằm sau liệt sĩ. Hai tay nắm chặt vào xác và dùng đầu ủi ra từng mi li mét…”. Như tôi được biết, chưa có sách báo nào tả cảnh lấy liệt sĩ gian nan và kỳ lạ như thế.

Cũng lại chuyện… chết chóc, lần này ở chiến trường Gia Lai, trích từ bài “Bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính?” trong cuốn sách vừa nhắc đến, theo lời kể của ông Nguyễn Doanh Văn (xin lược bớt phần địa chỉ cụ thể): “…Lưỡi rụt nên bác diễn đạt chậm. Đi lại cũng chậm chạp, Không gian di chuyển của bác là trong ngôi nhà… Nói làm gì. Nói cho ai nghe. Nói cho ai tin. Sự việc qua lâu rồi. Mà tôi cũng sắp gần đất xa trời rồi… Những câu này tôi nghe nhiều mấy hôm nay… Họ không muốn nói gì nữa. Bởi họ đã phải im lặng quá lâu rồi. Bởi vì họ từng nói. Nói từng lời đau đớn ruột gan. Nhưng người ta không tin… Cần chứng minh là giấy tờ. Giấy tờ? Tôi vứt hết đi rồi. Mang được cái xác về. Ai biết có ngày giấy tờ quan trọng hơn xác người… Bàn tay này đã thu nhặt bao nhiêu xác lính?... Ba năm, đếm làm sao hết người đã chết. Đơn vị phân công mỗi người phải mang ba hoặc năm bộ hài cốt tập kết về nghĩa trang sư đoàn… Đào bới lên. Bốc. Một cái dao găm. Và hai bàn tay. Róc hết phần thịt. Lấy xương đi… Chúng tôi được bồi dưỡng một hộp thịt hộp. Mở ra… Tôi nôn thốc nôn tháo… Nhìn đâu cũng thấy thịt đồng đội mình vừa róc ra… Năm 1976, tôi thân tàn ma dại trở về. Ba lần bà ấy sẩy thai. Lần thứ tư sinh đứa con không có miệng… Lần sinh thứ năm là đứa con thiếu một ngón tay, thiếu một ngón chân. Vậy đấy! Có gì hay đâu mà cô muốn nghe. Tôi không có thành tích gì để kể…”.

Tôi đã phải lược một số chi tiết dễ gây sốc cho bạn đọc mà phần trích vẫn dài. Vì đoạn trích không chỉ có chuyện chết chóc mà còn gửi gắm bao điều đáng suy ngẫm với người đang sống hôm nay, lại thể hiện rõ phong cách văn ghi chép của Phan Thúy Hà mà tôi sẽ phân tích ở phần sau. Có lẽ cũng cần nói thêm là 25 bài trong cuốn “Đừng kể tên tôi” không chỉ toàn kể chuyện chết chóc; ví như “Chuyện của bốn người” do ông Nguyễn Đình Lập kể là một… chuyện tình “tay tư” vui vẻ và rất cảm động, mặc dù lúc kể lại chuyện ngày xưa, họ cũng nói đến hơn mười cái chết xung quanh! Vắn tắt chuyện tình đặc biệt này một chút, tạo “không khí” để bạn đọc “giải lao”: Bà Tiến chờ ông Lập 12 năm, vừa lấy chồng thì ông Lập từ Tây Nguyên về; thế là bà Tiến sang khóc lóc bày tỏ “em muốn quay lại với anh có được không?”. Còn đây là lời ông Lập: “Tôi rối bời. Chồng của em cũng là bộ đội. Tôi là một đảng viên đạo đức sáng ngời suốt tám năm qua… Tôi tiếc đứt gan đứt ruột em có biết không? Tôi càng nói, Tiến càng khóc. – Thôi, giờ chỉ còn cách này cho đỡ tiếc em ạ. Em sinh con em, anh sinh con anh rồi sau này ta gả chồng gả vợ cho chúng nó. Ta không lấy được nhau thì các con của chúng ta lấy nhau…”. Người vợ mới của ông Lập là bà Mậu; bà cũng 6 năm đợi chồng. Chồng cũ của bà là thầy Liêu dạy văn cấp hai, hy sinh ở Kontum năm 1972… Câu chuyện tình dang dở mà thật đẹp – đẹp vì tình nghĩa thủy chung và anh hùng nữa, cho đến tận hôm nay. Khi Phan Thúy Hà hỏi ông Liên (chồng cô Tiến): – “Nếu chiến tranh lại xảy ra, bác có cho các con mình ra trận không?” – “Có chứ!” – “Nhưng bác đã trải qua những năm tháng như vậy. Nằm viện triền miên vì những bệnh nặng. Mỗi tháng chỉ dựa vào một triệu sáu tiền bệnh binh.” – “Phải chấp nhận. Giặc đến là đánh. Không đánh để mất nước à…”.

Câu trả lời của ông già 81 tuổi mang đầy tật bệnh, gần như “vô danh” trong lịch sử cho chúng hiểu thêm vì sao Việt Nam đã chiến thắng…

NHỮNG TRANG SÁCH THỨC TỈNH CON NGƯỜI – NHÀ VĂN THÌ PHẢI VIẾT CHUYỆN “NHẠY CẢM”

Nghe đâu có người e ngại sách của Phan Thúy Hà toàn là chuyện “nhạy cảm”. Ô hay! Nhà văn thì phải viết chuyện “nhạy cảm” chứ! Còn viết những điều xơ cứng, sáo mòn hay tình yêu lăng nhăng thì chỉ tốn giấy và tốn công người đọc. “Tôi đứng về phe nước mắt” là một phát ngôn nổi tiếng của Dương Tường mà báo chí vừa nhắc. Nhưng không chỉ nhà văn - dịch giả Dương Tường nói thế. Maxim Gorky – bậc thầy của nền văn học Nga Xô viết – là nhà văn của “những người cùng khổ”, của lớp người “dưới đáy”. Phần lớn kiệt tác của nhân loại là những câu chuyện khổ đau của con giờ nơi trần thế. Ở Việt Nam, “Truyện Kiều” là một bằng chứng hiển nhiên.

Trở lại những cuốn sách của Phan Thúy Hà. Những câu chuyện bi thương không chỉ “bổ sung” các “góc khuất” của lịch sử, mà còn giúp bạn đọc hiểu lịch sử sâu sắc hơn, sinh động hơn, thấy rõ hơn cái giá của cuộc sống hòa bình hôm nay, trách nhiệm của người đang sống… Nói những điều này, có lẽ không thích hợp với cách lập ngôn của Phan Thúy Hà, nhưng về một mặt nào đó vẫn cần thiết…

Cuốn “Tôi là con gái của cha tôi” gồm 21 bài viết về thân phận của những người lính Việt Nam Cộng hòa và cuốn “Gia đình” gồm 19 bài viết những gia đình tan nát trong thảm kịch “Cải cách ruộng đất” còn “nhạy cảm” hơn nữa! Bản thân tác giả – một cô gái sinh năm 1979, sinh ra ở quê hương Xô Viết, có thân phụ là lính “Việt cộng” – có thể do “thấm nhuần” quan niệm tránh né những điều “nhạy cảm” của một số người, một số cơ quan mà cô có dịp giao tiếp, cũng trăn trở, vật vã, tự vấn nhiều lần khi bắt tay thực hiện cuốn “Tôi là con gái của cha tôi”. Trong bài “Đến Huế” ở cuốn sách vừa dẫn, Phan Thúy Hà viết: “Lý do nào thôi thúc tôi phải vậy. Không có lý do nào hết. Hoặc ý nghĩ của mình, tôi chưa đọc được ra bằng lời, chưa gõ ra được bằng chữ. Ý nghĩ mạnh mẽ đó đang đến điều khiển tôi…”. Thực ra, trước đó, cô đã “tham vấn” nhà văn Xuân Đài, nhà thơ Ngô Minh và “Tin nhắn trả lời: Bác có quen mấy người, nhưng không biết họ có chịu nghe con cháu Việt cộng không?...”. Lại có một người là giáo viên dạy văn cấp 3 từng mua cuốn “Đừng kể tên tôi” đã khuyến khích Hà nên viết tiếp cuốn thứ hai về những người lính phía bên kia. Phải! Muốn hiểu đúng cuộc chiến thì phải biết cả hai phía, như một bàn cờ chỉ sống động khi có cả hai bên. Nhưng vì một cách nghĩ đã thành nếp, đã quen thuộc với không ít người, trong chuyến vào Huế tháng 6/2018 như là một thử nghiệm, khi chưa có một địa chỉ cụ thể nào, cô đã vấp. Một người Huế mà qua “Facebook anh thể hiện là một người tận tâm với lịch sử, am hiểu và cởi mở” đã nhắn cho cô: “Việc bé muốn gặp những người lính cộng hòa là không tưởng. Họ bên nội bên ngoại tôi có sáu người đi lính. Họ không kể gì đâu! Nỗi đau họ nén lại và không bao giờ họ nói ra, nếu có nói, họ chỉ nói với đồng đội, chứ không bao giờ nói với người trẻ! Xin lỗi bé nhé!”. Và thực tế đã chứng nghiệm khi cô tìm đến một khu “gia binh” ngày xưa trong Thành Nội, vừa gặp bác trai chủ nhà, nghe ông thốt lộ: “Bác ba năm rưỡi ở Quảng Trị cháu ạ” và bác-cháu chỉ mới đối đáp hai câu: – “Sau đó bác có phải đi học tập?” – “Không, bác là hạ sĩ quan”... thì bà vợ đẩy cô ra khỏi cửa: “Thôi thôi, cô đi ra khỏi nhà tôi. Nhà tôi không phải là nơi nói chuyện chính trị…”. Bà còn làm căng nữa, nhưng bác trai tỏ ý thông cảm, nên rút cuộc, trước khi chia tay, sợ bị bác gái đuổi đi nữa, cô nói nhanh: “Bác ơi, bác có biết không, bác là tên giặc đầu tiên cháu được nhìn thấy ngoài đời. Từ trước tới nay, cháu chỉ biết qua phim, sách, báo… Hôm nay cháu đã nhìn thấy bác, gần sát bác thế này!”. Mắt mọng nước, cô đã ôm bác chào từ biệt. “Bác cũng ôm lại tôi. Trước sự sửng sốt của bác gái và cô con gái.”

Vẫn chưa hết phản ứng. Khi cô chở hai đứa con trên chiếc hon-đa thuê về khách sạn, “Con trai lớn ngồi sau xe tức giận đấm lưng mẹ. Sao mẹ lại như thế. Tại sao mẹ phải thế. Mẹ đừng nghĩ bọn con cần phải biết. Bọn con không cần. Dừng xe bên cầu Trường Tiền, mẹ và con giàn giụa nước mắt.” Cho dù vậy, bốn tháng sau cô lại vào Huế và gặp được một hoàn cảnh khác: trong gia đình, có người ở cả hai phía. Trong khi ông ngoại và hai cậu đi lính ngụy thì mẹ, một cậu và hai dì đi theo cách mạng. “Có lần ông ngoại ngồi trên máy bay kêu gọi chiêu hồi, cậu khi đó đang nằm dưới hầm chờ lệnh bắn máy bay”...

Thế là Phan Thúy Hà đã “chạm” được tầng vỉa “kho tàng” mà mình cảm thấy cần khai thác. Nhưng cô vẫn không thôi tự vấn: “Tại sao tôi mang vác vào mình công việc này. Một công việc chẳng cần thiết cho ai.” Cả nhân vật có người thân ở hai bên chiến tuyến cũng nghi ngại hỏi cô: – “Em định viết về đề tài đó thật à?” – “Vâng ạ” – “Mục đích em viết cuốn thứ hai này để làm gì?”. Tôi lúng túng trả lời: – “Vì em cảm thấy cuốn trước mình viết chưa xong…” – “Sao em cảm thấy chưa xong?... Em muốn biết thêm điều gì ở cuốn thứ hai? Cuốn sách em viết sẽ cần cho ai?” Những câu hỏi dồn dập khiến tôi ngợp. Tại sao tôi phải trả lời…”.

Mấy lần Hà đến Huế, tôi chưa quen biết cô, mặc dù là “đồng hương” (Hà quê Hương Khê, huyện giáp giới với Hương Sơn quê tôi); hơn nữa, thời chiến tranh, có khi tôi đã qua lại trước nhà cô nhiều lần, do đây là đoạn phía dưới của đường 12A. Tôi dẫn câu chuyện ở Huế hơi dài một chút vì nó cho chúng ta thấy một vấn đề xã hội hệ trọng đã bị “bao bọc” hàng mấy thập kỷ, coi như là êm thấm, hoặc là điều cho qua, nhưng thật ra cũng gần như một quả bom nổ chậm, khiến “con gái của cha tôi” – một lính Việt cộng – vẫn mãi đắn đo khi tiến đến tháo “ngòi nổ”. Cho tới khi sách ra đời và có dư luận, tôi tin là cô đã tìm được câu trả lời cho những trăn trở, thắc mắc, có lẽ không chỉ của tác giả. Phải! Chắc chắn là Hà đã tìm được câu trả lời sau những chặng đường dài đến nhiều vùng đất xa xôi, hẻo lánh mà cô chưa hề đặt chân tới. Cứ hình dung “thân gái dặm trường” đơn độc trên những lối mòn ngoắt ngoéo giữa các vùng đất hoang vu xa lạ ở Đồng Nai, Bình Phước, Bến Tre…, dù biết Hà đã về “đích” an toàn, tôi vẫn hồi hộp, thót tim… Bao nhiêu là cạm bẫy, rồi những kẻ nghiện ma túy, lêu lổng hám gái và cần tiền tiêu xài. Chỉ một cú ngã, hay một cái gạt tay là đủ “tiêu diệt” “con bé” đang liều thân “mang vác” sứ mệnh khổ ải có khác chi chúa Giê-su! Phải! Con gái của lính Việt cộng đất Xô Viết đã cho Hà bản lĩnh dám đương đầu và đi về “đích” bình yên trước sự hâm mộ của bao người.

Tôi bỗng nhớ Lỗ Tấn từng nói đại ý: “Người ta đi mãi thì thành đường.” Tôi hiểu “đường” ở đây cũng là “đạo” – đạo lý làm người. Hình như Hà không ưa nói những điều “đao to búa lớn”, cô bảo tôi: “Cháu chỉ đi thăm, xem đời sống họ thế nào và viết lại, chia sẻ với mọi người…”. Ừ, nghĩ tới một lớp người gần như bị quên lãng, nghe họ tâm sự rồi chia sẻ với mọi người cảnh đời của họ cũng là đạo lý “người trong một nước phải thương nhau cùng.” Chiến tranh đã qua gần nửa thế kỷ rồi! Biết bao nhiêu gia đình Việt-Mỹ đã trở thành “thông gia”, không ít con cháu các “Việt cộng” cỡ lớn đang học hành, mua nhà và có thể sẽ định cư nơi đất nước cờ hoa thì vì sao ta lại không thể trò chuyện thân ái, tìm hiểu cảnh đời của bao nhiêu đồng bào mình đang phải sống trong những hoàn cảnh “khác thường”?...

Không thể và có khi không cần trích dẫn nhiều những cảnh đời cơ cực của những con người thuộc lớp “dưới đáy” này. Chỉ trích vài dòng từ bài “Tiếng hát người thương binh” ghi lại lời kể một người lính cụt chân dẫn vợ con tìm đất sống ở Bình Tuy, Bà Rịa…:

“…Xuống ga Suối Kiết… Chú đi vào một chòi lá, xin người công nhân chỗ nấu cơm. Ăn một bữa no rồi chết. Chứ cách này sống sao nổi. Chú lấy hai lon gạo ra nấu hết… Bắt đầu ăn thì có người đi vào… Nhìn anh ta xơ xác. Chắc anh cũng đói. Thôi, trong hoàn cảnh mình cũng lạc loài, anh ngồi đây ăn miếng cơm cho vui. Anh ta bẻ cây làm đũa ngồi xuống đút cơm… Chú có nghề làm bánh mì. Hy vọng về thị trấn La Gi xin được một công việc… Vé xe giá 10 đồng… Tôi chỉ có 8 đồng. Họ không bán… Phải liều thôi… Đến giữa đường họ soát vé. Chú nói lời xin lỗi, xin họ thương cảm nhận 8 đồng… Họ nói những lời sỉ nhục và bắt phải xuống ngay. Chú nghĩ cuộc đời mình đến đây là tận cùng rồi. Chú kéo hai con lại sát cửa, ôm con vào lòng và nói với vợ, em lại gần đây với anh. Tôi xin các anh một lời cuối cùng… Thương giùm tôi. Đạp một cái, vợ chồng con cái rơi xuống là xong!... Đằng nào cũng phải chết!...”.

Vậy mà anh vẫn sống. Trong tình cảnh “tận cùng”, con người vẫn biết xin lỗi, biết chia sẻ miếng cơm cuối cùng cho đồng bào lỡ bước, biết âu yếm vợ con trong lòng trước khi chết thì không thể chết. Người chủ lò bánh mì thoạt đầu kinh sợ trước thân hình như người… hủi của anh, nhưng đôi tay tài hoa làm thử những chiếc bánh mì tuyệt đẹp đã cứu cả nhà anh. Khi Hà gặp được anh thì vợ anh đã có mảnh vườn nhỏ, còn anh – sau thời gian kỳ công học đờn với một “cựu binh” sư đoàn 5 cũng cụt chân – hai người đem tiếng hát phục vụ đồng bào trên những chuyến xe, quanh khu chợ, nhà ga cho vơi nỗi nhọc nhằn vì cơm áo. “Cuộc sống cứ như thế này trôi đi là vui rồi. Chú không nghĩ gì hơn… Chú ráng làm thêm năm năm nữa là về quê với vợ…”. Sau bao nỗi trần ai, sau khi phải chôn một đứa con vì không có tiền chạy chữa, người “cựu binh” sư đoàn 23 thản nhiên nói với Hà như vậy.

Như vậy, những câu chuyện trong “Tôi là con gái của cha tôi” không chỉ có sự thua thiệt, nỗi thống khổ của một lớp người mà còn lấp lánh những đốm sáng. Đó là sự từ tâm, là bản lĩnh, là sức sống kỳ lạ của con người vượt lên bất hạnh. Hơn thế, còn có cả những tấm gương đáng gọi là anh hùng. Bạn không tin ư? Xin hãy đọc câu chuyện “Bà mẹ Cam Lộ”. Đó là mẹ của “lính ngụy” (một người là địa phương quân, một là lính dù) nhưng lại có người con đi tập kết, có chồng tham gia chống Pháp từ 1942, rồi làm xã đội trưởng, chính trị viên huyện Cam Lộ, hy sinh năm 1967. Mẹ là cơ sở nuôi giấu cán bộ, tiếp tế cho cách mạng, bất chấp bị bắt, tra tấn không biết bao lần!

“… Tôi sờ lên mười ngón tay mẹ không thể duỗi thẳng ra được nữa. Mười ngón tay mẹ co quắp suốt đời vì bị chích điện. Mảng da sau lưng mẹ chảy máu. Một bên mông bị lở loét lên giòi. Mẹ không khai… Mẹ thành người tàn tật suốt đời.”

Một lần, sau khi mẹ bị bắt, tra tấn dã man, người con là lính địa phương quân nhắn cho anh là lính dù Sài Gòn. Anh tức tốc bay ra, “tay cầm quả lựu đạn xông vào Ban Hai hét lên: Tại sao bắt mẹ tôi? Tại sao đánh mẹ tôi?... Anh em tôi đi lính cho ai?...”. Nhưng đến đầu năm 1971, anh bị mìn gãy xương sống tại chiến trường Campuchia. “Anh bị liệt. Chỉ còn một cánh tay phải cử động được… Ngày 1 tháng 5, vợ anh đưa anh từ Sài Gòn về… Một buổi trưa, chị đi cày về thấy chồng đã chết. Anh đã dùng cánh tay còn cử động được cầm cây dao kết thúc số phận mình. Cục sắt nguội là mẹ đổ gục bên anh…” .

Hết chữ để bình luận! Chỉ bổ sung chi tiết ngoài lề: Đọc sách của Phan Thúy Hà xong, tôi nhắn cho một bạn đồng hương (với cả tôi và Phan Thúy Hà) là cựu lãnh đạo Hội Nhà báo Việt Nam, nhờ anh nói với anh Phan Quang, khi biết anh sắp đến thăm vị nhà báo - nhà văn-dịch giả 91 tuổi vẫn in sách đều đều, trong đó có mấy cuốn cũng thuộc loại “phi hư cấu”, rằng: “Có cô gái vừa viết về bà mẹ “lính ngụy” thừa tiêu chuẩn phong anh hùng ở ngay quê anh đó! Không biết anh còn sức đọc không?”. Sách “phi hư cấu” của “lão làng” Phan Quang cũng nhiều chuyện nhân vật có thật, nhưng phần lớn là hình ảnh cao cả, tốt đẹp. Nói sự thật nhiều “lớp” là vì vậy. Sách Phan Thúy Hà dù phong phú mấy cũng vẫn chỉ mới là “một góc” sự thật. Ai chưa thỏa mãn, xin mời viết bổ sung những “góc” khác. Lại nói thêm chút nữa: Tôi nói đến “tiêu chuẩn” vì tôi đã trực tiếp làm hồ sơ cho hai anh hùng trong chiến tranh là Nguyễn Thị Kim Huế (Đại đội TNXP 759 anh hùng) và Võ Xuân Khuể (lái ca nô Phà sông Gianh). Nói ra điều này không phải để “khoe” mà để làm chứng rằng, không phải tôi viết theo cảm tính hay… quá ưu ái tác giả “đồng hương”!

Sợ bài dài quá, chứ trong “Tôi là con gái của cha tôi” còn một phụ nữ cũng rất… anh hùng, từ một phương diện khác. Chị là vợ “chú Châm” lính nhảy dù, bị thương vào chỗ kín bên sông Thạch Hãn 1973, hiện ở Bến Tre. “Trong một cái lán có hai con người sống chung với bốn con bò… Tôi không tin nổi những gì mình nhìn thấy đây là sự thật…”. Kỳ lạ hơn là chú nói “quen rồi”! Và mặc dù “cô chú chưa khi nào làm việc đó”, cô vẫn thủy chung chăm sóc chú. Nhưng cô đã khóc khi tiễn Hà…

Cũng không nên “bỏ qua” trường hợp ông Phạm Văn Nhân (bài “Tôi không mệt”) trải qua nhiều binh chủng, ngày 20/2/1975 khi được lệnh dẫn trung đội tiến chiếm một ngọn đồi ở Tây Nam Huế, sau khi lệnh cho đồng ngũ rút lui khỏi một bãi mìn thì mìn nổ khiến ông mất 1/3 cánh tay, 1/3 chân phải, bàn tay trái còn ba ngón. Vậy mà “từ năm 1995 đến nay, ông đã xuất bản 30 đầu sách về kỹ năng sống cho tuổi thanh thiếu niên, 9 cuốn tài liệu cho phong trào Hướng đạo”. Mặc dù vợ ông mất khi vừa qua tuổi bốn mươi, rồi con trai mất vì tai biến; ông phải nuôi hai cháu nội, nhưng ông nói: “Tôi sống thực tế, không mơ mộng, không ước gì, không giá như. Tôi vẫn lên mạng học tiếng Anh mỗi ngày… Tôi không mệt!”. Tác giả viết những dòng rất “vô tư”, nhưng tôi thì chỉ muốn thốt lên: Ôi chao! Là số phận và nghị lực một con người!

 

Vợ chồng chú Châm trong căn nhà giữa “cánh đồng hoang”. 

Tác giả cho biết, nay chú Châm đã mất! Lại phải thốt lên: Ôi chao là một kiếp người!


CHUYỆN “NHẠY CẢM” TRONG CUỐN “GIA ĐÌNH”

… Những câu chuyện trong cuốn “Gia đình” gọi là “nhạy cảm”, chẳng qua do… thói quen, chứ hàng chục cuốn tiểu thuyết có đề cập đến “Cải cách” đã xuất bản mấy chục năm qua còn có những cảnh “ác liệt” và bi thảm hơn nhiều. Nhưng cái khác của Phan Thúy Hà là cô ghi lại cảnh thật, người thật, có địa chỉ rõ ràng, làm bạn đọc dễ xúc động, thậm chí là phẫn uất trước những sự phi lý đến cùng cực. Một cây bút hình như chưa nhiều người biết là Lê Thanh Trường, trên Facebook gần đây thì nhận xét:

“… Chỉ có chi tiết diễn biến. Không có bức tranh phông nền của thời đại sục sôi cách mạng, chỉ có những thân người tả tơi. Rách nát, sợ hãi, đói khát, chết dúi, trốn chạy. Rất ít nước mắt. Không có căm thù. Những tình tiết cá nhân hóa tới nơi tới chốn, lại tập họp trong một cuốn sách mang cùng một giọng kể – không phải là giọng kể của tác giả, cũng không phải là giọng kể của nhân vật – giọng kể đó bật lên từ sự thật.”

Như câu chuyện số 16 do cô Cao Thị Thúy Hằng kể về người cha là ông Cao Xuân Khuê, cháu nội nhà văn - nhà văn hoá Cao Xuân Dục – người từng hết lòng giúp đỡ gia đình cụ Nguyễn Sinh Sắc khi gia đình cụ Phó bảng gặp khó khăn. Ông Khuê bị bắn khi mới 36 tuổi! Mà đau đớn và phi lý đến cùng cực vì ông đâu phải địa chủ, ác bá hay phản động. Ngược lại, ông tham gia Việt Minh từ 1944, đến năm 1949-1950 đã là cán bộ quân đội cấp tỉnh ở Nghệ An và Quảng Bình.

“Cha được minh oan, mẹ đi tìm cha… Người ta nói rằng khi lấp sơ sài lắm, có lẽ biển đã cuốn đi. Một buổi chiều năm 1974 có hai cha con… thấy giữa một bãi có nước sôi lên… Họ đào lên được một bộ xương… Mẹ đã nhận ra đó là hài cốt của cha. Nhờ vào hộp sọ và chiếc răng vàng. Hộp sọ có một lỗ đạn từ dưới cổ họng xuyên lên não. Mẹ nói rằng khi đó người ta cố tình không bắn vào người cha. Ba phát đạn không trúng. Một du kích đã đến sát mặt cha, ấn súng từ cổ xuyên thẳng lên não”.

Trong câu chuyện đau đớn này vẫn lấp lánh tình người. Có ba du kích không chịu bắn vào ông Khuê. Trong “Gia đình”, bên cạnh những nỗi cay đắng khôn cùng còn nhiều biểu hiện của lòng tốt, tình nhân ái. Về sự kiện “Cải cách”, lại hầu hết là chuyện ở Nghệ Tĩnh, có thể nói tôi cũng là “người trong cuộc”, nên xin trích dẫn ý kiến của một số bạn đọc khác, với cái nhìn khách quan, hẳn có lợi hơn. Bạn trẻ Hương Quỳnh ở TP. Hồ Chí Minh, đã viết trên Facebook của mình:

“Nhưng trong tăm tối lại vẫn có những lấp lánh, trong đau đớn vẫn có dịu mát, trong khi bị đày đoạ vào kiếp “con” thì tình người vẫn quằn quại tìm cách tồn tại. Phan Thuý Hà bảo rằng đó mới là những thôi thúc cô cầm bút, và với người đọc thì đó chính là những nâng đỡ để có thể đọc tiếp sau những chấn động từ sự thật. Ký ức những đứa trẻ ngày ấy vẫn ghi nhớ củ khoai luộc ném qua hàng rào, nắm cơm giấu trên kè vách. Lời dặn dò của người cha, người mẹ trong tột cùng đớn đau, mất mát vẫn ghi ơn người đã lén cởi trói, người đã bưng một chén nước, người bỏ chạy từ chối nói lời trái với lương tâm, vẫn đinh ninh ngày mai sự thật được soi tỏ, lẽ phải được minh định. Câu chuyện của những người già hôm nay cũng vậy, đã tự mình vươn dậy sau cuộc bể dâu, vẫn trưởng thành, vẫn thành đạt, vẫn yêu thương, họ không thốt một lời oán than, trách móc. Chấp nhận số phận gia đình mình là một phần của khúc quanh lịch sử lạc vào bóng tối, giọt nước mắt hôm nay chiêu tuyết cuộc đời. “Con người sinh ra để sống lương thiện, không phải để hận thù”, nhân vật kể câu chuyện số 3 nói vậy.”

Lại xin dẫn thêm một đoạn của anh Lê Thanh Trường, để thấy “Gia đình”, tuy là chuyện buồn “ngày xưa”, vẫn rất có ích cho cuộc đời hôm nay:

“… Mặc dù nhiều nạn nhân cho đến giờ phút này vẫn còn run rẩy, vẫn không dám kể lại cho con cháu những tai kiếp của gia đình, nhưng chính sự tồn tại của họ – có không ít thành đạt nữa – đã biểu thị cho sức sống tự nhiên và mầm mống tư cách mà họ được huân dưỡng trong quãng thiếu thời ngắn ngủi. Những cuộc đời mang nặng ký ức oan khiên và tình thương nhớ người thân đã mất, họ không biết mình là những biểu trưng có thể sờ chạm được của một khái niệm: văn hóa. Nhìn ở góc độ đó, cuốn sách dường như đã bênh vực không chỉ sự bền vững của các giá trị nhân tính và gia đình, mà còn là sự di truyền lạ lùng của văn hóa. Cái hột mầm đó chưa bao giờ bị đập nát, nó chỉ cần được giữ gìn và gieo lại trên đất đai thích hợp.

Ý tưởng đó khi đọc “Gia đình”, thực sự là niềm an ủi cho ngày hôm nay. Có biết bao nhiêu hột giống cần om giữ cho một ngày mai làm xanh lại đám tro tàn.”

Tôi mượn vài đoạn trích trên đây thay vì thêm một lời cảm ơn Phan Thúy Hà. Nói là “thêm” vì mấy ngày qua, một nhà văn từng viết tiểu thuyết lịch sử thành công và con trai một bộ trưởng danh tiếng thời cụ Hồ mới lập quốc, sau khi đọc sách của Hà, đã nói với tôi: “Cảm ơn Hà nhiều lắm!...”.

ĐÔI ĐIỀU VỀ NGHỆ THUẬT VIẾT TRUYỆN “PHI HƯ CẤU” CỦA PHAN THÚY HÀ

Với sách “phi hư cấu”, hình như nhiều người cho điều quan trọng nhất là có bao nhiêu sự thật và tác giả trung thành với sự thật như thế nào. Ba cuốn sách của Phan Thúy Hà được chú ý vì chất chứa lớp lớp sự thật; nhưng không chỉ có thế. Được biết, tác giả từng làm biên tập viên văn học ở một nhà xuất bản chục năm, nên hẳn đã cân nhắc, lựa chọn cách viết cẩn thận làm sao để có thể truyền tải một cách hữu hiệu nhất các nội dung của sách.

Tác giả Lê Minh Hà, trên Facebook của mình thì nhận xét văn của Phan Thúy Hà “Giản dị tận cùng…lặn vào trong ký ức cùng người kể, không tô vẽ, không nống lên, không bình luận. Rất hay, vì rất đau”.

Còn nhà phê bình Đặng Tiến đánh giá cao chỉ với một dòng vắn tắt: “Văn của chị ấy đã tẩy trắng các biện pháp tu từ, lối viết nơi chị đạt tới “độ không” …”

Bạn đọc đã thấy phần nào những điều đó thể hiện trên các đoạn trích dẫn ở trên. Tôi đồng tình với hai ý kiến vừa dẫn, nhưng có lẽ vẫn cần bổ sung. Chữ “giản dị” có lẽ chưa làm bật nổi phong cách của Phan Thúy Hà. Rất nhiều người có cách viết giản dị. Có lẽ chỉ riêng Hà đã chọn lối viết những câu vắn tắt, nhiều khi cụt lủn, sai ngữ pháp, nhưng lại gần đúng nhất với cách kể chuyện nhiều đứt gãy của nhân vật, đúng cả với tâm tư chán chường, đang muốn quên đi của người kể. Những đoạn văn như thế khiến bạn đọc phải tưởng tượng, hình dung tình cảnh nhân vật và những điều họ không tiện nói ra. Và như thế, nói theo thuật ngữ văn chương, bạn đọc đã trở thành “đồng tác giả”; tác phẩm trở nên phong phú hơn, nhiều tầng hơn. Nhìn ở góc độ tâm lý, tác giả đã tiết chế cảm xúc của mình; khi đó, cảm xúc ẩn sau những câu cụt, trần trụi sẽ bùng lên, đọng lại lâu trong trái tim người đọc.

Quả là nhiều câu văn của Phan Thúy Hà “đã tẩy trắng các biện pháp tu từ, lối viết nơi chị đạt tới “độ không”…”; nhưng không phải trang nào cũng thế. Tác giả không ngần ngại bộc lộ cảm xúc, như sau khi bị “đuổi” khỏi căn nhà trong khu “gia binh” Thành Nội Huế: “… Mẹ và con giàn giụa nước mắt.” Trong truyện “Những cây dừa lão” về cuộc đời vợ chồng “chú Châm”, phép “tu từ” của tác giả là đặt những cảnh tương phản cạnh nhau để làm nổi bật sự trớ trêu của số phận; sau khi tả cảnh hai người sống chung với bốn con bò, vợ chồng thì “chưa khi nào làm việc đó”, tác giả buông một câu: “Ngôi nhà của cô chú giữa cánh đồng nhìn từ xa thanh bình yên ả.” Tuy vậy, liền sau đó, cô viết: “…Qua không biết bao nhiêu là cây cầu, tôi mới dừng lại được. Tôi gục mặt xuống bàn tay. Tôi khóc nấc lên.”

Tác giả không ngại bộc lộ cảm xúc. Và nỗi xúc động lập tức truyền sang độc giả. Vì họ biết tác giả không “diễn” qua cách miêu tả không thể chân thực hơn.

Với một tác giả chưa có nhiều kinh nghiệm trong “trường văn trận bút” và có khi ban đầu Phan Thúy Hà không hề có ý định “làm văn” khi bắt tay viết bộ sách “phi hư cấu” này, nên không khó chỉ ra những điều chưa làm bạn đọc vừa ý. Chân thật là phẩm chất vượt trội trong sách của Phan Thúy Hà, nhưng đôi chỗ lại trở thành nhược điểm, khi tác giả thật thà kể lại những việc không cần thiết, không gắn mấy với số phận nhân vật, khiến bạn đọc cảm thấy dài dòng, như đoạn đầu truyện “Những cây dừa lão”. Truyện số 1 (“Người bên sông Ngàn Sâu” – tập “Đừng kể tên tôi”) dài đến 100 trang, cũng có không ít đoạn kể những điều mà nhiều cuốn sách khác đã nói đến. Có thể tác giả tôn trọng lời người kể và… tiếc, không đành bỏ bớt những dòng chữ mà phải công phu mới có được. Và cũng có thể với một ông già trên 80 tuổi đã qua “chinh chiến” như tôi thì cảm thấy không mới, không cần thiết, nhưng với tác giả, với lớp trẻ hôm nay vẫn hấp dẫn và quan trọng. Nói cho công bằng, hình như người viết nào cũng “phạm” cái “lỗi” này. Đến như lão nhà văn Tô Hoài thầy tôi, trong cuốn sách “phi hư cấu” kể chuyện làm cán bộ khu phố, cũng có không ít đoạn tẻ nhạt mà tôi gọi vui là cỡ như thầy, mới dám “độn” vào…

Ba cuốn sách “phi hư cấu” của Phan Thúy Hà có đặc điểm mà tôi tạm gọi là “dây chuyền” – người này mách tác giả nên tìm đến người nọ; rồi người đọc cuốn này cuốn khác, gọi cho tác giả: “Tôi cũng có chuyện muốn kể với cô…”. Đại thể như vậy. Đó là niềm vui không đo đếm được của tác giả. Nhưng cũng là trách nhiệm. Và từ đó, chúng ta hy vọng sẽ được đọc tiếp những cuốn sách khác đầy ắp sự thật có sức làm thức tỉnh lương tri con người của Phan Thúy Hà. Với các nhà văn, bộ ba sách “phi hư cấu” của cô gái vừa chạm tuổi bốn mươi bên sông Ngàn Sâu là lời nhắc nhở rằng cuộc sống phong phú và số phận chìm nổi của ngàn vạn con người sống thầm lặng khắp nơi trên đất nước đang trông chờ các cây bút giàu tâm huyết tìm đến…

N.K.P.

Thứ Năm, 16 tháng 6, 2022

Cái nước mình nó thế

 

Hoàng Ngọc Hiến – Cái nước mình nó thế

Phạm Thị Hoài và Trương Hồng Quang thực hiện

Sinh thời, nhà nghiên cứu và giảng dạy văn học Hoàng Ngọc Hiến là một trong những trí thức phê phán giàu ảnh hưởng tại Việt Nam. Ông nổi tiếng với khái niệm „văn học phải đạo“ để chỉ nền văn học chính thống xã hội chủ nghĩa. Ông cũng được coi là người phát hiện và ủng hộ Nguyễn Huy Thiệp, định hướng rõ rệt cho phong trào văn học thời Đổi Mới. Mười lăm năm trước, năm 2004, diễn đàn talawas mà tôi là người phụ trách chính có một cuộc phỏng vấn với Giáo sư Hoàng Ngọc Hiến nhân một lần ông ghé thăm Berlin. Tuy nhiên, ở phút cuối, ông đã đề nghị talawas hủy đăng bài, vì thời điểm chưa thích hợp. Ông qua đời đầu năm 2011. Trước đó không lâu, talawas cũng ngừng hoạt động. Nay tôi chính thức công bố toàn văn bài phỏng vấn dài gần một vạn chữ này trên trang lưu trữ cá nhân pro&contra của mình. Một số trích đoạn cũng đồng thời được đăng trên tuần báo Trẻ.

Phạm Thị Hoài

GS Hoàng Ngọc Hiến 2004. Ảnh của talawas.

talawas: Thưa ông Hoàng Ngọc Hiến, cách đây 17 năm, bài viết „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ của ông là khởi đầu của cuộc tranh luận về Nguyễn Huy Thiệp mà giai đoạn căng thẳng nhất diễn ra khoảng một năm sau đó, liên quan đến chùm truyện ngắn Kiếm sắcVàng lửa – Phẩm tiết. Mới đây, trong bài viết “Ngẫu hứng qua mây gió” đăng trên tạp chí Văn nghệ Quân đội [1], Trần Đăng Khoa có nhắc đến cuộc tranh luận này. Điều đặc biệt ở bài viết này là việc đặt lại vấn đề, nói đúng hơn là sự xét lại những giá trị tưởng chừng đã được công nhận trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp ở giai đoạn Đổi mới, đồng thời cũng là sự xét lại những quan niệm tưởng chừng đã đạt tới sự đồng thuận cao trong giới nghiên cứu và trong công luận văn học. Ông đánh giá như thế nào về việc này?

Hoàng Ngọc Hiến: Bài này tôi chưa đọc. Hoa thủy tiên tôi cũng chưa đọc, tôi dạo này lười kinh khủng, tôi chỉ đọc cái Mổ nhà văn. Tôi nghĩ chỉ đọc Mổ nhà văn là đủ. Tôi có nghe tin, Trần Đăng Khoa giải thích với mọi người rằng mình viết bài này hoàn toàn vì yêu mến Nguyễn Huy Thiệp.

talawas: Trần Đăng Khoa luôn yêu mến cả thế gian.

Hoàng Ngọc Hiến: Chắc thấy mọi người phản ứng quá thì cậu ấy thanh minh như thế. Về bài tựa mà tôi viết cho cuốn sách của Thiệp: Lúc ấy Thiệp đã nổi tiếng, đã in Không có vua trên báo Văn nghệ. Nguyễn Khải có nói rằng tinh hoa của Thiệp đã trút hết ra Tướng về hưu, không còn gì mà viết nữa. Nhưng khoảng hai tháng sau Tướng về hưu, Thiệp ra tiếp Không có vua, mà theo tôi Không có vua có nhiều mặt còn hơn Tướng về hưu. Lúc đó Thiệp đã có mười mấy truyện đăng báo, đang nổi như cồn, nên Thiệp nghĩ đến chuyện ra tuyển tập. Lúc đó hoạ sĩ Hồng Hưng bỏ tiền ra thuê đánh máy bản thảo cho Thiệp. Thiệp đưa đi mấy nhà xuất bản đều bị từ chối. Tôi cảm thấy giới xuất bản trong chuyện này rất tinh, nó đánh hơi thấy một người nguy hiểm, nó từ chối. Thiệp kể lại với tôi rằng, Thiệp đến Nhà Xuất bản Hội Nhà văn, lúc đó hình như còn tên là Nhà Xuất bản Tác phẩm Mới. Người phụ trách mảng văn xuôi ở đó là bà Xuân Quỳnh. Người ta bảo, Xuân Quỳnh không bao giờ đến nhà xuất bản. Thế là Thiệp mang bản thảo đến nhà riêng của Xuân Quỳnh. Thiệp tả lại cho tôi thế này: Vào ngõ, lên một cái hành lang dài, dọc hành lang có bốn, năm cái vòi nước, Xuân Quỳnh đang ngồi quay mặt vào tường giặt quần áo. Người ta chỉ cho Thiệp, bà đang ngồi giặt quần áo, đấy là Xuân Quỳnh. Thiệp đến đứng sau lưng Xuân Quỳnh, bảo: „Thưa chị, em đến nhà xuất bản, họ bảo chị nhận bản thảo ở nhà. Em đến để đưa chị.“ Xuân Quỳnh không quay lại, bảo: „Tôi chỉ nhận bản thảo ở nhà xuất bản, không nhận bản thảo ở nhà.“ Thiệp ra về, Xuân Quỳnh chắc chắn không biết ai đứng sau lưng mình lúc đó.

Dịp ấy tôi có việc đi công tác Campuchia một năm hai lần, đi Campuchia thì phải ghé Thành phố Hồ Chí Minh, tôi bảo Thiệp: “Cậu đưa tớ bản thảo, đem vào Thành phố Hồ Chí Minh, trong ấy thoáng hơn.” Ở Thành phố Hồ Chí Minh, tôi đưa bản thảo của Thiệp cho Nguyễn Duy và Thu Bồn, cả hai đều đồng ý ngay. Tôi đi công tác về, trở lại Hà Nội, chờ mãi không thấy hồi âm. Hai tháng sau tôi lại có dịp đi Campuchia nữa, lại gặp Nguyễn Duy và Thu Bồn, nhưng cả hai đều quên, không nhớ gì đến bản thảo này nữa. Hỏi thì họ thú thật rằng đã quên. Nhưng Nguyễn Duy sau đó có đặt điều kiện là sẽ in Thiệp nếu có lời giới thiệu của tôi. Đi công tác Campuchia về, trong một tuần trước khi sang trường Gorki tu nghiệp, tôi viết bài tựa „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ cho tuyển tập của Thiệp. Như vậy bài đó ra đời trong một hoàn cảnh rất cụ thể, không có bài đó thì Nguyễn Duy không in tuyển tập của Thiệp. Tôi buộc phải viết, chứ không phải vì thấy rằng đó là một hiện tượng văn học quan trọng.

talawas: Nhưng sau đó ông có thấy đây là một hiện tượng văn học quan trọng không?

Hoàng Ngọc Hiến: Có, sau đấy nó thành một hiện tượng quan trọng. Nhân đây tôi muốn nói, không phải chỉ trong lĩnh vực phê bình văn học, mà trong mọi lĩnh vực liên quan đến việc đi tìm cái Thật, cái Đẹp, tôi càng ngày càng nghiệm ra câu nói của Évariste Galois, một nhà toán học Pháp thế kỉ 19, chết rất trẻ: „Chúng ta không đi đến chân lí, chúng ta chỉ va chạm vào chân lí.“ Trong công việc phê bình văn học của tôi, ở trường hợp bài „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ và một số bài khác, hình như tôi đã chạm được vào chân lí, chạm một chút.

talawas: Mà lúc ấy không biết mình đang chạm?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng, lúc ấy không biết.

talawas: Nhưng những cú chạm may mắn ấy không dành cho tất cả mọi người.

Hoàng Ngọc Hiến: Thì đúng rồi. Mà ở chính tôi, không phải lúc nào nó cũng xảy ra.

talawas: Trường hợp của hai chữ “phải đạo” cũng như vậy sao? Có người nói rằng, chỉ để lại hai chữ „phải đạo“ là Hoàng Ngọc Hiến đã có thể hài lòng với sự nghiệp của mình.

Hoàng Ngọc Hiến:  Đúng thế, hai chữ “phải đạo” cũng ra đời trong một hoàn cảnh rất ngẫu nhiên. Dạo đó cuốn Cha và con của Nguyễn Minh Châu được giải thưởng văn học. Hôm ấy tôi cũng đến thư viện làm việc như mọi ngày (tôi nổi tiếng là người chăm đi thư viện, nhưng có gì đâu, đơn giản là nhà chật quá, không có chỗ làm việc thì phải ra thư viện), lúc ra sân đi dạo một lát thì gặp Hà Minh Đức. Hà Minh Đức hỏi tôi nghĩ như thế nào về cuốn sách ấy. Tôi nói, hai cha con trong cuốn sách ấy (cha là trung đoàn trưởng, con hình như là sĩ quan) trò chuyện với nhau. Trong thực tế, tôi đã nghe những bố con trò chuyện với nhau theo kiểu như vậy, tức cuốn sách ấy không bịa đặt. Nhưng người ta trò chuyện với nhau theo kiểu như vậy là vì phải đạo. Đấy là lần đầu tiên tôi dùng chữ này. Tôi cố tìm một chữ cho đúng với cuốn sách của Nguyễn Minh Châu, cuối cùng bật ra hai chữ „phải đạo“. Cũng ngẫu nhiên thôi, trong lúc đi dạo ngoài sân thư viện.

talawas: Và một lần nữa lại chạm vào chân lí?

Hoàng Ngọc Hiến: Vâng. Ngẫu nhiên. Thực ra chân lí định trước là một thứ rất nguy hiểm. Chân lí theo kiểu một cái đích, bắt mình phải đi đến nó, là rất nguy hiểm. Triết gia François Jullien, người mà gần đây tôi dịch khá nhiều, có nói rằng: Đạo phương Tây bao giờ cũng đặt ra một cái đích. Cái đích đó có thể là một Thượng đế, một đấng toàn thiện toàn năng, nhưng cái đạo của phương Đông thì thường không có đích, mà nếu có đích thì cái đích của nó là sự thay đổi chính bản thân nó. Tôi nghĩ cũng có thể đặt ra một cái đích nào đó, và trong lúc mình toàn tâm toàn ý đi tới nó thì rất có thể thỉnh thoảng chạm được vào chân lí, chứ vấn đề không phải là nắm được cái đích. Đích là ảo tưởng, nhưng trong lúc đi đến ảo tưởng thì bất chợt mình có thể chạm vào chân lí. Hai trường hợp vừa nêu, bài „Tôi không chúc bạn thuận buồm xuôi gió“ và khái niệm „phải đạo“ là những kết quả bất chợt như vậy.

talawas: Sau cú „ngộ” bất chợt ở sân thư viện, ông liền viết bài về „Hiện thực phải đạo“?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, phải một thời gian sau, năm 1979. Bài viết xong thì đem đăng, đơn giản thế thôi, không nghĩ nó sẽ gây chuyện om sòm đến thế. Bài ra xong, Chế Lan Viên có nói: Bài „Hiện thực phải đạo“ của tôi đi đến đâu là chia rẽ thành hai phe, một phe ủng hộ nhiệt liệt, một phe đả kích và mạt sát. Hình như Tố Hữu phản đối quyết liệt, nên đón ý Tố Hữu, người ta bố trí người để viết bài đập lại. Lúc đầu nhờ Lưu Quý Kỳ, nhưng Lưu Quý Kỳ không viết, thế là đến Tô Hoài, tiếp theo là Chế Lan Viên và hai ba người nữa, đăng trên Văn nghệ.

talawas: Ông Tô Hoài phản bác thế nào?

Hoàng Ngọc Hiến: Tô Hoài viết đại loại là Hoàng Ngọc Hiến đã quên mất đường cấm chỉ, đã vượt qua đường cấm chỉ.

talawas: Như vậy cũng có thể hiểu là một lời khen?

Hoàng Ngọc Hiến: Không, ông ấy phê, nhưng phê theo kiểu tinh tế.

talawas: Còn bài của ông Chế Lan Viên?

Hoàng Ngọc Hiến: Bài của Chế Lan Viên tên là “Thư gửi chị Kim Nga”, Kim Nga tức là “nước Nga mới”.

talawas: Theo ông Bùi Minh Quốc, trong bài “Làng văn một thời, và…”, Lê Kim Nga là tên thật của bà Vũ Thị Thường, vợ ông Chế Lan Viên.

Hoàng Ngọc Hiến: Thế à? Mọi người lại đoán rằng chữ đó ám chỉ việc Hoàng Ngọc Hiến đem tư tưởng xét lại từ nước Nga mới về Việt Nam. Nhưng màn kịch đươc chờ đợi nhất là cuộc họp toàn quốc của Ban Tuyên huấn Trung ương, mời đại diện của tất cả các tỉnh, các trường, các viện, do Trần Độ chủ trì, có Lê Đức Thọ dự từ đầu chí cuối, vào tháng Hai, tháng Ba năm 80.

talawas: Tức sau vụ “Đề dẫn” [2]?