Chủ Nhật, 30 tháng 4, 2023

hồi mở đầu của cuốn sách




Đoạn mở đầu của truyện, vừa thể hiện sự chân tình, "Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết/ Cay đắng mười năm khéo lạ lùng." của tác giả vừa độc đáo, thể hiện tầm vóc của tác phẩm. Tiểu thuyết cổ điển thường sử dụng cách kể chuyện tuyến tính chứ không phức tạp, nhiều biến thể như tiểu thuyết hiện đại.

"Hồi thứ nhất này là hồi mở đầu của cuốn sách.

Người làm sách xin nói: “Trải qua quãng đời mộng ảo, nên có ý giấu những việc thực, mượn chuyện “Hòn đá thiêng” mà viết ra bộ Thạch đầu ký này; vì vậy tôi đặt nhân vật của tôi là Chân Sĩ Ẩn.... Trong sách chép việc gì? Người nào? Người làm sách lại xin nói: “Nay tôi đã sống cuộc đời gió bụi, không làm nên trò trống gì. Chợt nghĩ đến những người con gái ngày trước cùng sống với tôi, so sánh kỹ lưỡng, thấy sự hiểu biết và việc làm của họ đều hơn tôi. Tôi đường đường là bậc tu mi, lại chịu kém bạn quần thoa, thực rất đáng thẹn! Bây giờ hối cũng vô ích, biết làm thế nào! Tôi nghĩ trước kia được ơn trời, nhờ tổ, mặc đẹp, ăn ngon, mà phụ công nuôi dạy của cha mẹ, trái lời răn bảo của thầy bạn, đến nỗi ngày nay một nghề không thành, nửa đời long đong, nên muốn đem những chuyện đó chép thành một bộ sách bày tỏ với mọi người. Tôi biết rằng mang tội rất nhiều. Nhưng trong khuê các còn biết bao người tài giỏi, tôi không thể nhất thiết mượn cớ ngu dại muốn che giấu lỗi mình, để cho họ bị mai một. Cho nên, đám cỏ lều tranh, giường tre bếp đất, cùng cảnh gió sớm trăng chiều, sân hoa thềm liễu, đều thúc giục tôi thực hiện lòng mong ước dúng bút mực viết ra lời. Dù tôi học ít, hạ bút không viết nên văn, tôi cũng chẳng ngại gì mượn lời nôm na thêu dệt bày tỏ ra đây câu chuyện để mua vui cho mọi người. Vì vậy tôi lại đặt nhân vật là Giả Vũ Thôn...”. 

Đó là đầu đề và ý chính của hồi này. Mở đầu cuốn truyện, thấy câu phong trần mơ người đẹp, chắc ai cũng biết người viết sách vốn chỉ ghi chép những chuyện bạn bè, tình tứ trong khuê các, chứ không có ý chửi đời. Tuy có một vài chỗ nói đến nhân tình thế thái, nhưng đó là bất đắc dĩ, mong độc giả nhớ cho.

Lẵng dẵng trên đời khéo khổ công,
Tiệc tùng rốt cuộc chỉ là không.
Muôn trò mừng tủi đều hư ảo,
Một giấc xưa nay rõ viển vông.
Vạt thắm nào riêng người đẫm lệ,
Tình ngây còn vướng hận ôm lòng.
Xem ra chữ chữ toàn bằng huyết,
Cay đắng mười năm khéo lạ lùng.

Độc giả! Các bạn bảo sách này do đâu mà ra? Nói nguồn gốc nó thì dáng như hoang đường; nhưng xem kỹ rất thú vị."


Lưu Đán Trạch vẽ Hồng Lâu Mộng




Lưu Đán Trạch vẽ Hồng Lâu Mộng



Sự phát triển của hội họa cổ điển Trung Quốc, luôn luôn và chưa bao giờ tách rời bối cảnh văn hóa theo từng thời đại, đồng thời mang tính kế thừa và phát huy rất cao, mà trong đó 3 yếu tố Thi – Thư – Họa như một sự đồng nhất trong một chỉnh thể nghệ thuật, tương hỗ và làm nổi bật nhau lên. Xuất phát từ điểm này, thấm đẫm trong mình rất nhiều dòng chay văn học, đặc biệt ấn tượng với tuyển phẩm văn chương “Hồng Lâu Mộng”, Lưu Đán Trạch đã lấy họa để vẽ lại và làm nổi bật lên những nhân vật trong kiệt tác văn học này.



Thành tựu nghệ thuật của một họa gia, một nghệ sỹ được đánh gia từ nhiều khía cạnh, trong đó có phông văn hóa cũng là một thước đo nói lên được nhiều điều xuyên suốt tư tưởng, ý đồ sáng tác nghệ thuật của tác giả. Là một họa gia, nhưng cũng là một nhà thơ, ông quan niệm “thi cao ư họa”, nhưng dưới cây bút lông của mình khi vẽ nên những bức tranh, ta lại thấy điều đó như hòa làm một, trong thơ có họa mà trong họa hình như có cả nguồn thơ.
































Giả Tích Xuân





Sử Tương Vân














Giả Xảo Thư
















Đọc thêm
Kim Lăng thập nhị thoa

Những ca khúc trong phim 'Hồng lâu mộng'

 Những ca khúc trong phim 'Hồng lâu mộng'



Nhắc đến Hồng lâu mộng, khán giả nhớ đến nàng Đại Ngọc mong manh, nhớ đến nàng Phượng “ớt” sắc sảo, và không thể nào quên những ca khúc sâu lắng, được sử dụng xuyên suốt bộ phim.


Đại đa số các bài hát được sử dụng trong Hồng lâu mộng đều được phổ lời dựa trên các bài thơ mà tác giả Tào Tuyết Cần đã viết. Nhưng quan trọng hơn cả, người viết nhạc và làm nhạc Vương Lập Bình đã thổi vào hồn thơ những nốt nhạc đầy tình ý và tâm huyết. Thơ và nhạc, dù được viết cách nhau hàng thế kỷ, vẫn như có thể hòa vào làm một. Các bài hát như Táng hoa ngâm, Uổng ngưng mi, Chung thân ngộ… đã trở thành những ca khúc kinh điển gắn với Hồng lâu mộng. Sau này, nhiều phiên bản khác của Hồng lâu mộng không thể có được âm nhạc đạt đúng chất của tác phẩm như thế.




Khúc mở đầu

Cách đây gần 30 năm, Hồng lâu mộng 1987 đến với khán giả và ngay lập tức gây ấn tượng mạnh bởi khúc nhạc mở đầu không lời. Đoạn nhạc Hồng lâu mộng dẫn khúc được tấu lên, lồng trong hình ảnh hòn đá chông chênh giữa đất trời, gợi cho người xem về nỗi cô đơn, chống vắng, bấp bênh và tàn lụi giữa cuộc đời. Đó cũng là tinh thần chung bao trùm lên toàn bộ tác phẩm Hồng lâu mộng.



Uổng ngưng mi

Uổng ngưng mi (Hoài công biết nhau) là ca khúc dành riêng cho hai nhân vật chính Bảo Ngọc và Đại Ngọc, nhạc Vương Lập Bình, lời thơ của Tào Tuyết Cần.

Cũng giống như nhiều ca khúc khác của Hồng lâu mộng, Uổng ngưng mi mang nỗi buồn mênh mang, da diết, nói về đôi tình nhân lỡ làng hữu duyên, vô phận. “Một bên hoa nở vườn tiên, một bên ngọc đẹp không hoen ố màu. Bảo rằng chẳng có duyên đâu, thì sao lại được gặp nhau kiếp này? Bảo rằng sẵn có duyên may, thì sao sau lại đổi thay lời nguyền?...” là những ca từ nói về mối tình của Bảo Ngọc – Đại Ngọc. Những tưởng cặp đôi thanh mai trúc mã sẽ nên duyên cầm sắt, nhưng vì những âm mưu toan tính, những áp đặt của lề lối phong kiến, mà kết thúc trong bi kịch.




Táng hoa ngâm

Táng hoa ngâm (Khúc hát chôn hoa) là ca khúc được sử dụng trong đoạn phim Đại Ngọc chôn hoa, khóc thương hoa – một trong những cảnh quay đắt giá nhất của Hồng lâu mộng.

Lời nhạc, ý thơ nhẹ nhàng, buồn mang mác khiến người xem không khỏi ngậm ngùi, thương những cánh hoa tàn, thương nàng Đại Ngọc mong manh, và cả phận nữ nhi long đong trong xã hội phong kiến. “Chôn hoa ai bảo mộng mơ, sau này ta chết ai là người chôn”… mang một sức ám ảnh lớn, khiến nhiều năm khán giả vẫn không thể quên được bài hát này.

Nhà soạn nhạc cho biết, trong số các ca khúc mà ông đã sáng tác cho Hồng lâu mộng, Táng hoa ngâm đã lấy đi của ông 1 năm 9 tháng để suy nghĩ, viết nhạc, làm bản phối và là ca khúc ông tâm đắc nhất.



Thông minh lụy

Thông minh lụy (Cái lụy thông minh) là ca khúc được phổ lời dựa trên bài thơ cùng tên mà Tào Tuyết Cần đã viết, nói về tính cách và số phận của nàng Vương Hy Phượng trong phủ nhà họ Giả.

Sắc sảo, thông minh, tài cán, nàng là hạng quần thoa nhi nữ mà không kém gì trang hải hán nam tử. Nhưng cuối cùng, trong vòng xoáy của xã hội phong kiến, nàng vẫn phải chịu một kết cục thương đau. Người đời tự hỏi, nếu nàng không thông minh như thế, liệu số phận của nàng sẽ ấm êm hơn?

“Việc đời tính rất thông minh; việc mình, mình tính phận mình vẫn sai… Vừa vui vẻ đã âu sầu, đời người biến đổi biết đâu mà lường…” lồng trong điệu nhạc buồn nhưng có phần mạnh mẽ hơn những ca khúc khác của Hồng lâu mộng, đã phần nào khắc họa rõ hơn tính cách, con người và số phận của nàng Phượng “ớt”.



Tình Văn ca

Tình Văn ca là ca khúc dành riêng cho nàng a hoàn sắc sảo, thông minh, sống trong bùn lầy, bị người đời hãm hại mà vẫn sáng mãi một tấm tình thanh bạch. Ca khúc có giai điệu trẻ trung, vui tươi hơn so với những bài hát khác, trong khi lời ca là bài thơ viết dành riêng cho nàng Tình Văn: “Trăng trong khó gặp, mây đẹp dễ tan; Lòng sao cao quý, phận lại hèn…”





Phân cốt nhục

Phân cốt nhục (Cốt nhục phân ly) là ca khúc làm nền cho cuộc đời của nàng tiểu thư khuê các Thám Xuân. Trong số các tiểu thư nhà họ Giả, Thám Xuân là cô gái thông thạo văn thơ, sâu sắc và cá tính, nhưng luôn mặc cảm với phận làm con vợ lẽ. Sau này, Thám Xuân bị gả đi lấy chồng xa, phục vụ những mục đích chính trị của thời phong kiến, vĩnh viễn không được gặp lại gia đình.

Phân cốt nhục được tấu lên trong trường đoạn Thám Xuân mặc áo tân nương, cúi lậy cha mẹ, lên thuyền đi xa, lòng đầy ai oán biết rằng đây sẽ là lần ra đi không có sự trở về trong cuộc đời nàng.



Hồng đậu từ

 

Hồng đậu từ 紅豆詞 • Lời hát về đậu đỏ

  


滿


滿


--

便

 

Hồng đậu từ

Trích bất tận, tương tư huyết lệ phao hồng đậu
Khai bất hoàn, xuân liễu xuân hoa mãn hoạch lâu
Thuỵ bất ổn, sa song phong vũ hoàng hôn hậu
Vong bất liễu, tân sầu dữ cựu sầu
Yến bất há, ngọc lạp kim ba ế mãn hầu
Chiếu bất tận, lăng hoa kính lý hình dung sấu
Triển bất khai để my đầu
Nhai bất minh để canh lậu
Nha!
Kháp tiện tự: già bất trú để thanh sơn ẩn ẩn
Lưu bất đoạn để lục thuỷ du du.

 

Dịch nghĩa

Nhỏ không dứt, dòng huyết lệ tương tư rơi xuống như những hạt đậu đỏ
Nở không trọn, liễu xuân, hoa xuân khắp chốn lầu son
Ngủ không yên, mưa gió bên ngoài màn song sau buổi hoàng hôn
Quên chẳng được, sầu mới lẫn sầu cũ
Nuốt chẳng trôi, những gạo ngọc miệng vàng nghẹn đầy cổ họng (ko nuốt được)
Soi chẳng hết, hình dung gầy võ trong gương hoa ấu
Đầu mày giương chẳng mở
Canh khuya cứ lần lữa không sáng
A!
Vừa đúng như: non xanh thấp thoáng không ngăn lại được
Nước biếc mênh mang trôi đi không ngừng


Đậu đỏ (hồng đậu) là hình ảnh quen thuộc trong thơ ca Trung Quốc, dùng để chỉ nỗi nhớ nhau. Thơ Tương tư của Vương Duy:
Hồng đậu sinh nam quốc,
Xuân lai phát kỷ chi,
Nguyện quân đa thái biệt,
Thử vật tối tương ti (tư).

Bài này của Giả Bảo Ngọc, nằm trong hồi 28.


Bản dịch của nhóm Vũ Bội Hoàng

Bao giờ hết, giọt lệ tương tư rơi đỏ ngòm,
Bao giờ nở, xuân về hoa liễu trước lầu son,
Nằm trằn trọc, song the, mưa gió buổi hoàng hôn.
Nghĩ vẩn vơ, mối sầu mới cũ cùng đổ dồn!
Nuốt không trôi, rượu vàng gạo ngọc nào biết ngon,
Soi không rõ, đứng trước gương lăng mặt héo hon!
Nét ngài cau cau lại,
Giọt đồng hồ dồn dập hơn.
Chao ôi!
Nào khác gì: trôi đi, nước biếc dòng man mác,
Dừng lại, non xanh bóng chập chờn.



             
 (Hồng Đậu Khúc)
                        .
 曹雪芹
                          
Tào Tuyết Cần

滴 不 尽 相 思 血 泪 抛  
Trích bất tận tương tư huyết lệ, phao hồng đậu.
不 完 春 柳 春 花 满 画  
Khai bất hoàn xuân liễu xuân hoa mãn họa lâu
睡 不 稳 纱 窗 风 雨 昏  
 Thụy bất ổn sa song phong vũ hoàng hôn hậu.
忘 不 了 新 愁 与 旧 愁 
 Vong bất liễu tân sầu   dữ   cựu  sầu.
咽 不 下 玉 粒 金 莼 噎 满  
  Yết  bất   hạ  ngọc  lạp  kim thuần ế  mãn hầu.
照 不 见 菱 花 镜 里 形  容  
Chiếu bất kiến lăng hoa kính lý hình dung sấu
展 不 开 的 眉  捱 不 明 的 更 漏 呀 
  Triển bất khai đích mi đầu   nhai bất minh đích cánh lậu nha!
恰 便 似 遮 不 住 的 青 山 隐  
  Kháp tiện tự   già  bất   trú  đích thanh sơn  ẩn  ẩn.
流 不 断 的 绿 水 悠  
Lưu bất đoạn đích lục  thủy sầu  sầu
.绿 水 悠 悠 绿 水 悠  
Lục thủy sầu  sàu,  lục thủy sầu  sầu.

Dịch nghĩa: 

                    Lời thơ: Tào Tuyết Cần

  Huyết lệ tương tư nhỏ hoài không dứt, đậu đỏ vứt rồi
  Nở chưa đều khắp, liễu xuân, hoa xuân  đầy lầu vẽ.
  Giấc ngủ không thành, cửa sổ buông màn, gió mưa hoàng hôn theo đến.
  Chưa  nguôi được sầu cũ lại chất chồng thêm sầu mới.
  Dẫu hạt ngọc vàng ròng nuốt cũng không trôi , nghẹn đầy ứ họng.
  Soi vào mặt kính không thấy rõ hình dung tiều tụy.
  Mắt mở không ra, chịu mờ thêm ánh lệ.
  Dịp may không giữ lại, bóng non xanh mờ ẩn.
  Dòng nước biếc buồn buồn trôi chảy mãi.
  Nước biếc sầu  dâng, nước biếc sầu dâng!

               

Dịch thơ:

Vì lượng nghĩa trong mỗi câu quá nhiều, có câu không thể dịch rút ngắn thành một câu nên chúng tôi tạm phân câu và dịch thành thơ Việt như sau:

                               Bài ca đậu đỏ

      Lệ máu tương tư cứ nhỏ hoài.
        Đậu hồng đã bỏ, biết còn ai?

        Hoa xuân tơ liễu bên lầu vẽ
         Như biết lòng người, chưa nở sai.

         Giấc ngủ không yên, cửa kín màn
            Hoàng hôn chậm đến, gió mưa chan.

       Sầu chưa nguôi được thêm sầu mới.
        Rượu ngọc cơm vàng  chả thiết ăn.

      Soi gương nào thấy rõ hình mình.
            Tiều tụy gầy hao, nỗi khổ tình.

      Mắt mở không ra, mờ ánh lệ.

       Dịp may mờ ẩn bóng non xanh.

      Nước biếc đẫm sầu trôi chảy mãi.

     Sầu dâng ! nước biếc tiếp sầu dâng !


                               * HOÀNG NGUYÊN CHƯƠNG dịch
                                    
*Chú thích:

  1)      Nguyên tác Hồng đậu khúc là lời thơ của Tào Tuyết Cần  trong tác phẩm Hông lâu mộng được Vương Lập Bình phổ nhạc  để hát theo nội dung phim. Đây là bài ca mà Giả Bảo Ngọc (nhân vật chính trong HLM) đã hát lên trong một buổi tiệc để nhớ người yêu là Lâm Đại Ngọc.

  2)      Hồng đậu: Đậu hồng, Việt nam ta chỉ gọi đậu đỏ, là hình ảnh tượng trưng cho lòng nhớ nhau (cho sự tương tư của nam nữ). Theo phong tục ở  đất Giang Nam khi người ta xa nhau, họ thường cài đậu hồng trên tóc để tỏ lòng nhớ nhau. Khi đậu hồng bị vứt bỏ là biểu hiện lòng không còn nhớ nhau nữa. Đây là hình ảnh đã trở thành  ẩn dụ trong văn họcTrung Quốc, xuất hiện từ thời nhà Đường.




Thanh văn khúc 晴雯曲- hồng lâu mộng


Thứ Sáu, 28 tháng 4, 2023

Trưng bày sách Dương Thu Hương


Tranh Tào Linh

Trưng bày sách Dương Thu Hương

Nhị Linh

Mỗi thời có một lời mời, và mỗi thời có một nhân vật của nó. Giờ đây nhìn lại, mới thấy rõ tại sao đầu thập niên 80, Dương Thu Hương lại thu hút đến thế.

Tôi cố gắng lắm cũng chỉ đọc được mấy tác giả hồi ấy làm mưa làm gió trên văn đàn được dăm chục trang, cùng lắm trăm trang. Toàn nói những cái gỉ cái gì. Ví dụ Nguyễn Mạnh Tuấn Đứng trước biển, Nguyễn Khắc Phê Những cánh cửa đã mở, và nhất là một nhà văn sau này thấy nhiều người ca ngợi nhưng nuốt không trôi, là Ngô Ngọc Bội.

Bên trong cái vẻ cũ kỹ của văn chương, Dương Thu Hương thật ra rất khác.

Mãi rồi cũng tìm được hai quyển này, có thể coi là mở màn cho sự nghiệp của Dương Thu Hương:


Quyển bên trái in năm 1981, chắc hẳn không lâu sau khi Dương Thu Hương vào học Khóa 1 Trường Viết văn Nguyễn Du.

Hóa ra hai quyển này có thể coi là một, quyển Chân dung người hàng xóm in năm 1985 có nội dung gần như hoàn toàn tương tự Những bông bần ly.

Truyện ngắn "Miền cỏ tơ" mở đầu cả hai tập. Có mấy truyện rất nổi tiếng như "Chân dung người hàng xóm" (bối cảnh chiến tranh biên giới Việt-Trung) hay "Những bông bần ly", nhưng tôi thấy "Thợ làm móng tay" thật là xuất sắc và đặc trưng cho cái nhìn con người của Dương Thu Hương.

Rồi quãng giữa những năm 1980, Dương Thu Hương là ngôi sao của văn chương Việt Nam:



Những quyển sách này, ngày trước có quyển tôi tìm được ở hàng đồng nát ve chai 😅 Bây giờ cũng chưa lục ra được tập truyện ngắn xuất sắc nhất của Dương Thu Hương, Chuyện tình kể trước lúc rạng đông.

"Cái nhìn con người" của Dương Thu Hương ra sao? Theo tôi, cách nhìn nhận con người đã đi theo hai bước, chuyển từ tô hồng hiện thực, con người tuyệt đẹp hoặc có khuyết điểm nhưng có thể sửa chữa, sang đến con người tủn mủn, ti tiện ở bản chất trong văn chương Dương Thu Hương. Và sang đến Nguyễn Huy Thiệp là giải quyết xong xuôi: con người là cái thứ khốn nạn, bẩn thỉu.

Truyện ngắn Dương Thu Hương một thời oanh liệt. Còn tiểu thuyết thì sao?



Giữa truyện ngắn và tiểu thuyết, tiểu thuyết Dương Thu Hương hụt hơi hơn hẳn, và giữa hai cuốn tiểu thuyết của thời kỳ ấy, Những thiên đường mù xuất sắc hơn hẳn Bên kia bờ ảo vọng. Tôi mới đọc lại Bên kia bờ ảo vọng, thấy một câu chuyện vô cùng khiên cưỡng, thậm chí dường như Dương Thu Hương còn không mấy hiểu "cuộc sống vợ chồng".

Và không lâu sau đó, lại có thêm một giọng nói nữa😇



Nếu các bạn muốn đọc nhiều về Dương Thu Hương, hãy clik vào đây.



Quầng Trăng Lơ


Thứ Năm, 27 tháng 4, 2023

Chất lượng sáng tác gần đây của Dương Thu Hương



Chất lượng sáng tác gần đây của Dương Thu Hương


Vương Trí Nhàn

CƠN LỐC RỰC RỠ

Được viết ra liên tục trong khoảng mươi năm gần đây, các truyện ngắn của Dương Thu Hương thường miêu tả đời sống qua trường hợp của những con người ở lứa tuổi khoảng 30-40.

Thời thanh niên sôi nổi của họ đã trôi qua trong chiến tranh.



Từ các đơn vị quân đội, thanh niên xung phong chiến đấu ở chiến trường trở về (hoặc không đi đâu xa, nhưng nếm trải mọi vất vả ngay trên quê hương hậu phương), họ có nhiều chỗ giống nhau, chẳng hạn bề ngoài không còn cái vẻ trẻ trung mau mắn như trước nữa.

"Làn da mầu hồng tươi tắn xưa kia đã sạm lại, xanh mét. Cặp môi đỏ mọng cũng nhợt nhạt khô đi. Mái tóc dày đen nhánh giờ thưa hẳn…". – Nhân vật chính trong Một bờ cây đỏ thắm như vậy, mà nhiều nhân vật khác cũng vậy.

Chỉ riêng có những ao ước, những hy vọng ở họ là vẫn còn, nếu không nói là có phần mãnh liệt hơn bao giờ hết!

Sự đi rộng biết nhiều lại giúp cho họ hiểu rằng lẽ ra, họ có thể rất sung sướng. Có điều thực tế cuộc sống không một chiều thuận lợi như trong mộng tưởng. Trước mặt họ bao nhiêu vấn đề phải nhận thức lại. Khi căm ghét, khi hờn dỗi, khi tê tái vì những mất mát đã qua, khi hào hứng lấy lại cái hãnh diện chính đáng trước quãng đời trước đây của mình – những tình cảm ấy nối tiếp nhau mà đều ở sắc độ gay gắt.

Ta cũng không nên quên rằng Dương Thu Hương là một cây bút phụ nữ.

Ở một số tác giả nào đó, chất phụ nữ thường bộc lộ ở vẻ dịu dàng đôn hậu trong con mắt nhìn đời, những kín đáo ý nhị trong cách biểu hiện. Dương Thu Hương trình diện với một mỹ cảm hoàn toàn khác.

Mở đầu thiên truyện Một bờ cây đỏ thắm là hình ảnh một cô gái đang chạy.

"Bao giờ nó cũng chạy từ đỉnh con dốc xuống phố. Nó chạy như một mũi tên bay. Quần áo gió bạt ngược về phía sau, mái tóc gió đánh tung như đám cỏ rối, chiếc khăn màu lơ quàng cổ phất phới bay… Màu hoa phượng rung rinh trên bầu trời. Nó giống như một cơn lốc rực rỡ".

Mười hai năm sau, cô gái được mệnh danh là đồ quỷ đó vẫn giữ được "tiếng cười như tiếng chuông… lanh lảnh, giòn giã, chói chang".

Nhân vật nữ ấy thật đã mang đủ cốt cách văn chương của Dương Thu Hương. Lấy ham hố quyết liệt làm động lực, trong quá đáng tìm thấy sự quân bình, – văn Dương Thu Hương hiện nay có những đoạn sắc sảo đến tàn nhẫn, nhưng cũng nhiều ý tưởng tha thiết khiến người dửng dưng cũng phải nao lòng.

Ưu thế của một cây bút phụ nữ sử dụng đến đâu thì vừa, đến đâu là lạm dụng – câu hỏi ấy có lúc người đọc thấy phải đặt ra. Bởi lẽ ở đây, biết bao ẩn ức chôn chặt đáy lòng, biết bao dồn nén, người khác không dám nói ra, tác giả đã nói ra bằng hết.

Điều có phần chắc chắn hơn là dù không hoàn toàn tán thành cách nhìn đời sống của Dương Thu Hương, người ta vẫn muốn đọc văn Dương Thu Hương.

Sự nồng nhiệt trong say mê yêu ghét và những nhạy cảm trong quan sát đã giúp cho ngòi bút đi đến cùng trong phạm vi mà tác giả muốn biểu hiện.

"Tài năng là một sự ám ảnh, là ngọn sóng điên cuồng cũng như cơn gió định mệnh nó cuốn ta đến một mục tiêu nhất định… Mỗi nhà văn là một con bệnh, một con bệnh trầm trọng."

Đấy là cách mô tả của nhà văn L. Leonov (1899-1994) về một loại người viết văn hiện đại (cố nhiên không phải ai cũng vậy). Trong chừng mực nào đó, Dương Thu Hương chính là kiểu người cầm bút vừa khít với nhận xét ấy của nhà văn Xô-viết.


ĐỜI SỐNG TINH THẦN CON NGƯỜI HẬU CHIẾN

Những bông bần ly, một trong những thiên truyện được viết sớm nhất và thuộc loại hay nhất của Dương Thu Hương có một cốt truyện khá đơn giản.

Men theo những vui buồn chợt đến trong lòng nhân vật Ngân qua chuyến đi từ một tỉnh miền Bắc vào Tây Nguyên bốc mộ cho người em trai và một người bạn, tác giả khéo léo giới thiệu cảnh ngộ éo le của Ngân, tình yêu nồng nàn của chị hôm qua với một chiến sĩ và cuộc sống khó chịu bên người chồng lãnh đạm và vô vị của chị hôm nay.

Chuyến đi do vậy đóng vai trò một thứ nhân tố khẳng định thêm những nhận thức nẩy nở dần trong tâm trí Ngân.

Sau chiến tranh, mỗi chúng ta đã giàu có thêm lên nhưng cũng đã mất mát bao nhiêu trong tình cảm. Có cả những sai lầm nó sẽ đeo đẳng theo mãi chúng ta và không bao giờ ta gỡ ra nổi.

Cuộc sống mơ mộng chấm dứt, nhưng biết làm sao, đôi lúc chỉ còn an ủi là những người đã nằm xuống sẽ có lúc trở về, nâng đỡ chúng ta trong những đoạn đường sắp tới.

Cùng mạch cảm hứng với Những bông bần ly trong những năm khoảng từ 1975 đến 1980, Dương Thu Hương còn viết nhiều truyện ngắn mà dấu vết của một cuộc sống từ chiến tranh chuyển sang hoà bình in khá đậm.

Miền cỏ tơ phác ra cảnh nương tựa vào nhau hàn gắn lại hạnh phúc giữa những con người cùng có những thất thiệt sau cuộc chiến.

Loài hoa biến sắc giống như một sự tự xác định. Phải qua việc tiếp xúc thực sự với một cô gái ở cái tình thế sống nhờ vào túi tiền người khác, một cô gái từng là thanh niên xung phong mới thoát ra khỏi cảm giác tự ti và những thèm muốn dậy lên trong lòng khi trở về thành phố.

Trong Ban mai yên ả (sang tập Chân dung người hàng xóm in ở Nxb Văn học được đổi thành Buổi sáng yên tĩnh), nhân vật chính còn tìm cách trở về với xã hội bằng cách bắt tay cụ thể hơn vào công việc hoà nhập với đời sống bình thường ở hậu phương hôm qua.

Nhưng trước mắt anh bao nhiêu là khốn khó.

Lối sống tỉnh lẻ tuỳ tiện, lười biếng, thái độ dửng dưng vô trách nhiệm đã ăn thành nếp ở một vài người có chức có quyền, những cái đó như một thứ keo đặc vây bủa lấy anh, khiến những ý định tốt lành sẵn có ở anh khi trở về không sao có thể thực hiện. Chỉ muốn sống cho lương thiện thôi, anh đã buộc phải làm phiền bao nhiêu người và thái độ bướng bỉnh của anh gây cho họ nhiều bực bội.

Đến đây, câu chuyện đã vượt qua phạm vi những người trở về để đứng ra nhìn thẳng vào đời sống của cả xã hội hậu chiến.

Hướng khai thác thường thấy ở Dương Thu Hương là tìm cách xé tuột cái vẻ bề ngoài nếu không dễ thương thì cũng coi được, để khơi thẳng vào những gì thuộc về thực chất của các hiện tượng cũng như các mối quan hệ.

Trong thiên truyện vừa dẫn (Ban mai yên ả), nhân vật hoạ sĩ Đàm Tiến tưởng là tốt bụng, thậm chí là một nghệ sĩ có tài nữa, hoá ra là một kẻ sống cẩu thả, lười biếng, thờ ơ với mọi người chung quanh, gọi là ăn bám cũng không có gì quá đáng.

Cả Loài hoa biến sắc lẫn Ngôi nhà trên cát, Chuyện nghe thấy mà không nhìn thấy lẫn Một khúc ca buồn đều có những cảnh sống bề ngoài tưởng là đầm ấm dễ chịu, mà thực ra, đủ vẻ nhếch nhác khốn nạn.

Khi cần khai thác một đề tài thời sự như trong Chân dung người hàng xóm, Dương Thu Hương cũng vẫn trung thành với cách viết của mình; toàn bộ thiên truyện giống như một động tác “lật tẩy”: Đấy! Con người ta hôm nay mới thế mà mai đã như thế, như thế…

Một mô-típ thường được tác giả láy đi láy lại: giữa ước ao của con người thời trẻ và thực tế cuộc sống người ta phải sống thường là cả một khoảng cách xa vời, không sao lấp đầy nổi.

Mà tai vạ không phải ai đâu mang lại, ma đưa lối quỷ đưa đường, tai hoạ thường do ta tự chuốc lấy, mọi tai ương đều do chính ta lựa chọn, không thể trách ai khác (Ngôi nhà trên cát, Chuyện một nữ diễn viên).

Một mô-típ nữa cũng được tác giả ưa thích: Nhu cầu thường xuyên về hạnh phúc của con người và những đau đớn ê chề người ta thường gặp trong công cuộc truy tìm hạnh phúc.

Trong nhiều thiên truyện, qua miệng mọi người, cả đàn ông cũng như đàn bà, luôn luôn thấy vang lên cái câu hỏi nhức nhối: hạnh phúc là gì? Tai ương và hạnh phúc, làm sao để biết chính xác cái gì sẽ đến với mình?

Ở truyện này người chồng biết điều, đứng dắn, lấy phải người vợ tham lam, học đòi. Ở truyện kia, người đàn bà nhạy cảm tinh tế phải sống suốt đời với hạng đàn ông tầm thường, đo lọ nước mắm đếm củ dưa hành, hoặc tàn ác, vụ lợi. Ở một thiên truyện khác, đứa con khôn lớn, gặp lúc bố mẹ đổ đốn.

Mà ở thời này, những bộ mặt xấu xa ấy có nhợt nhạt để cho người ta bỏ qua đâu, luôn luôn nó hiện ra quá quắt, quái gở đến phát sợ!

Có thể rất lâu, ngươì ta vẫn sống yên ổn bên nó, song, chớ vội mừng. Khi đã phát hiện ra nó một lần rồi thì cay đắng, ngán ngẩm vô cùng, tưởng không sức đâu mà chịu đựng nữa!

Theo cách miêu tả của Dương Thu Hương, có những người càng giàu có lên và đắp điếm thêm ít tri thức vào đầu, càng tầm thường hơn trong nhân cách. Dù có lừa được hết cả thiên hạ, họ cũng không lừa nổi những người thân trong gia đình. Hoá ra hạnh phúc không phải ở tất cả những tiện nghi người ta bon chen để có bằng được, hạnh phúc là ở sự tương hợp giữa người với người, giữa con người và hoàn cảnh, và – trên một phương diện khác – ở tầm sâu của nhận thức và tầm cao của nhân cách.

Nhưng đã mấy người có được cả những phẩm chất tuyệt vời lẫn những may mắn hiếm có ấy.

Biết bao người trong khi ráng sức đắp xây cho hạnh phúc, thực ra lại củng cố cái nhà ngục của đời mình và khi nghĩ lại, đã quá muộn.

Trong sự nhạy cảm với bất hạnh, toàn bộ sức mạnh trong ngòi bút phụ nữ ở Dương Thu Hương được dịp bộc lộ và người ta có cảm tưởng ít khi trong văn học ta, nhu cầu hạnh phúc được diễn tả một cách ráo riết đến thế.

Một điều cũng thấy rất rõ là mặc dù trước sau, vẫn một chủ đề ấy, song, mỗi khi chạm tới người và việc, Dương Thu Hương đều có được sự say mê và truyền được nỗi say mê ấy sang người đọc. Dù đã nhiều lần khắc hoạ những bộ mặt khác nhau của bất hạnh song tác giả đã tìm ra cách để có thể nói mãi và chúng ta còn muốn nghe chị nói thêm.

Tại sao? Người bất hạnh chung quanh ta còn nhiều? Có thể.

Nhưng có lẽ cái chính là ước ao hạnh phúc trong tác giả, trong các nhân vật trong chính chúng ta, nỗi ao ước đó thật khôn cùng.

Nghĩ tới nó, lòng ta đã thổn thức!

Mặc dù bao lần thất bại đi nữa, song ý muốn vươn tới hạnh phúc ở mỗi chúng ta làm sao có thể nguôi giảm!


PHÁ CÁCH, LẬT TẨY, CAY ĐẮNG, TÀN NHẪN

Cùng bắt rễ vào thực tại, song mỗi nhân cách sáng tạo vẫn là một cá tính độc đáo, giống như một thứ cây mang lại cho đời một thứ quả riêng, không giống mọi loại cây khác.

Đào sâu vào mình, trung thành với mình vừa là nhu cầu tồn tại, vừa là niềm vui.

Từ tác phẩm này sang tác phẩm khác, người ta cứ thế đi mãi theo phương hướng đã lựa chọn, ở đó cái hay cái dở cài lẫn vào nhau, tự mình cũng đã nhận ra, nhưng muốn khác đi, đâu có khác nổi.

Những yếu tố đầu tiên liên quan đến sự hình thành bút pháp Dương Thu Hương có lẽ là gắn liền với quá trình vào nghề cụ thể của tác giả.

Cây bút này bắt đầu viết hơi muộn; trước 30 tuổi mới rụt rè gửi những bài thơ của mình từ một tỉnh miền Trung về Hà Nội và chỉ ngoài tuổi 30, mới bắt tay vào cái mạch chính của mình là viết truyện.

Liệu tình yêu văn học của người con gái Kinh Bắc cũ này có gì giống với trạng thái tâm lý mà tác giả Sông Đông êm đềm M. Sholokhov đã mô tả "Khi tình yêu đến muộn màng với một người đàn bà thì nó không nở ra thành một đoá uất kim hương ngoài đồng nội, mà nở thành một thứ hoa dại mọc ở lề đường, có mùi hương ngây ngất, ma quái?"

Chỉ biết quả thật đó là một thứ tình yêu khác thường. Chất “hoa dại mọc lề đường” ở văn xuôi Dương Thu Hương thể hiện ra đủ vẻ.

Đó là một thứ văn khá sặc sỡ, tình ý đôi khi ngả mầu cải lương, câu chữ nhiều chỗ khoa trương bóng lọng (một nhà thơ nhận xét: “nhiều những chữ có lẽ chỉ thơ ca mới dùng, mà cũng chỉ dùng có mức độ, ở đây Dương Thu Hương cân tất”), song nhờ vào những rung cảm thực của tác giả nên các truyện vẫn có khả năng lôi cuốn bạn đọc.

Một trái trăng thu chín mõm mòm

Nảy vừng quế đỏ, đỏ lòm lom.

Trong thơ Hồ Xuân Hương xưa đã có lối diễn tả gắt, đậm, lối viết gần như bóp méo hình tượng và tạo ra những vẻ đẹp khác đời, nếu không muốn nói là thô kệch vậy.

So với tì vị chúng ta, chúng quá "nặng" và chỉ dần dần, ta mới quen nổi.

Trên phương diện tạo hình và rộng hơn, trong mỹ cảm, ở văn xuôi Dương Thu Hương hôm nay, chúng ta cũng bắt gặp những quá đáng tương tự.

Mầu sắc rực rỡ, toàn loại mầu nóng.

Âm thanh thì chói chát, khó quen với lỗ tai.

Trời đất lúc nào cũng lộng gió và như cháy lên với những cánh hoa kim phượng trưa hè.

Còn con người thì nôn nao những khao khát dự định, dù cố ghìm lại, song không ghìm nổi, họ cứ phải kêu to lên những ý nghĩ của mình và chỉ sợ không làm ngay, tất cả sẽ trôi tuột đi mất.

Niềm say mê đô thị mà tác giả có lần lưu ý ta, khi tả tính cách một nhân vật (cô gái xưng tôi trong Những cánh buồm trong thành phố, tập Ban mai yên ả) có lẽ cũng là niềm cảm hứng chính chi phối văn xuôi Dương Thu Hương và bởi lẽ niềm say mê ấy đến với tác giả muộn màng, nên có lúc nó có gây ra những choáng ngợp.

Trên nét lớn, thế giới nghệ thuật ở Dương Thu Hương hiện nay có sự phân cực rõ rệt.

Một đằng là những kỷ niệm thời thơ ấu, một thứ bản giao hưởng đồng quê đầy thi vị, nào những ban mai đánh trâu ra đồng, nào những lần vùi khoai, nướng cá, ăn ngay ngoài bãi cỏ, thiên nhiên con người sống hoà hợp với nhau, đường nét tinh tế như văn Đỗ Chu hồi trước.

Một đằng là sinh hoạt thành phố, những quán ăn đông người, những tiện nghi hiện đại, mốt quần áo, và các bản nhạc mới nhập từ nước ngoài về, tóm lại là cảnh sống gấp gáp, chộn rộn, con người ai cũng nói nhiều, bao nhiêu tiếng nói cùng cất lên thành một mớ âm thanh hỗn độn.

Trước những bất hạnh gặp trên đường đời, các nhân vật của Dương Thu Hương – những nhà báo, nhà thơ, diễn viên, hoạ sĩ (đúng là Dương Thu Hương rất thích tuyển chọn nhân vật từ những người trong cái thế giới nghệ thuật đa dạng này!) – thường nhớ tới những phương trời mơ ước thuở nhỏ, bãi cát ven sông, làn nước mát lạnh, những cảm giác trong sáng hồn nhiên.

Song muốn hay không muốn, tất cả họ – và trước tiên là người đã sáng tạo nên họ, trước tiên là tác giả – đâu có thoát nổi đô thị, càng giãy giụa thì họ càng chìm sâu vào cuộc sống nơi đây, tâm trí họ như mê đi, chân họ bước mãi về phía của tiếng ồn của ánh sáng.

Phải công nhận là niềm say mê đô thị ở Dương Thu Hương quá mức mạnh mẽ. Chỉ quy về cảm hứng đô thị, chúng ta mới hiểu tại sao nhà văn này thường có lối viết rất thô, lối miêu tả đôi khi khá trâng tráo – từ nỗi ghen tị day dứt trong lòng một người con gái trước những người con gái khác xinh đẹp hơn mình, cho đến cảm giác "những bông lúa vàng ướt át và sắc cạnh cọ vào da thịt".

Chỉ quy về cảm hứng đô thị đó, chúng ta cũng mới hiểu tại sao tác giả không ngại trình bày mình qua các trang viết như là một người soi mói không thương tiếc vào những chuyện xấu xa chung quanh, hoặc để cho các nhân vật sẵn sàng sừng sộ với nhau, xỉ vả nhau là "cứt nát hết cả rồi", là "bốc lên mùi cóc chết", và không khí chung quanh đôi khi toàn những khai lợm, tanh tưởi…

Giả sử mọi nhà văn đều viết như thế, có lẽ người đọc sẽ phát rồ.

May thay trong thực tế lại không có cái việc giả sử đó. Trong văn học ta sau 1945 đây là một trong những trường hợp đầu tiên.

Và ta có thể an ủi sở dĩ nảy sinh văn xuôi Dương Thu Hương, đó là do tác giả muốn tạo nên một thứ đối trọng bên cạnh bao nhiêu ngòi bút đôn hậu khoẻ khoắn nhưng cũng lắm khi nhạt nhẽo khác.

Sau khi đọc những Ban mai yên ả, Chân dung người hàng xóm rồi, bạn đọc có muốn trở về những cây bút mực thước ấy thì vẫn còn kịp.

Đỉnh cao của lối nhìn, lối viết đầy thách thức trên đây của Dương Thu Hương là hai truyện ngắn Thợ làm móng taySói con.

Giữa nhân vật Sáng thuở nhỏ thủ dao cùn trong túi và lén tập võ để lo có ngày trả thù cho cha bị Tây giết với chú Sáng hôm nay quỳ mọp bên chân các bà các cô nhiều tiền, cốt kiếm miếng ăn qua ngày (Thợ làm móng tay), quả thật, có cả một trời xa cách.

Đọc xong truyện này, người ta không khỏi xót xa khi nghĩ rằng sao mà trường đời xô đẩy con người theo những nẻo lối đến là trớ trêu, và trong muôn thứ nghề nghiệp của con người, sao lại có những nghề kỳ cục vậy.

Nhưng đến Sói con, người ta còn được chứng kiến một trường hợp vừa thương tâm vừa ghê tởm hơn nữa.

Trong Sói con, sự sụp đổ của mơ ước, sự vô nghĩa của kiếp người hiện ra rõ rệt trong thân hình tàn tạ của một phụ nữ, một cô me Mỹ mới mười bảy tuổi nhưng đã trải qua mọi thứ khoái lạc trong đời để rồi trở về nằm liệt trong một ngõ vắng thân hình loã lồ ruồi bâu gián bò không đủ sức đuổi.

Có thể trong đời sống cũng có một chuyện như thế, nhưng ngòi bút của tác giả ở đây thật đã đi đến những chỗ cùng cực trong cách miêu tả, và nhiều người đọc đã nhận xét là tác giả có phần ác quá.

Có điều, phải nhận, những truyện trên đã bộc lộ đầy đủ cái chất riêng của bút pháp Dương Thu Hương. Ta đã chấp nhận phong cách này, thì hãy để cho nó đi hết sự phát triển vốn có, không dừng lại nửa vời.

Ít ra thì ở Dương Thu Hương cũng khộng có cái lối xuê xoa, thoả hiệp của những cây bút khéo tay.

Còn nếu sau khi đọc xong những Thợ làm móng tay, Sói con, người đọc có thấy ghê sợ hơn trước những cạm bẫy đang mở ra trước cuộc đời mình để lo sống cho tỉnh táo hơn, mực thước hơn, thì đấy cũng đã là một thành tựu mà không phải tác phẩm văn học nào cũng có thể làm được.


VIẾT NHƯ MỘT SỰ VƯỢT THOÁT

Mặc dù còn gặp nhiều khó khăn về giấy mực, in ấn, nhưng đời sống văn học mươi năm gần đây vẫn có sự phát triển vượt bậc về số lượng. Ngoảnh đi ngoảnh lại mới độ vài năm, nhiều cây bút trẻ đã cho in ra đến dăm bảy cuốn sách.

Chỉ hiềm một nỗi chất lượng không phải bao giờ cũng đi liền với số lượng. Sách ra, trong sự hờ hững của đời sống. Lại có không ít trường hợp sự hoan nghênh kia chỉ là tạm thời giả tạo, sớm nở tối tàn, vì tuy có chiều lòng được một lớp công chúng nào đó, nhưng nhìn cho kỹ vẫn không phải là những giá trị chân chính.

Đặt trong hoàn cảnh ấy, mới thấy những thành tựu Dương Thu Hương gặt hái được là đáng quý. Ngòi bút này đang độ viết khoẻ và viết khá đều tay. Bên cạnh những tập truyện ngắn đã in, chị còn là tác giả của tập tiểu thuyết Hành trình ngày thơ ấu kể lại cuộc phiêu lưu của một cô bé mười hai tuổi, vừa ngỗ ngược, vừa tốt bụng, được các bọn đọc nhỏ tuổi rất thú.

Bạn đọc cũng như các đồng nghiệp trong giới viết văn, kể cả những người khó tính bậc nhất đều chú ý và đánh giá khá cao sáng tác của Dương Thu Hương.

Đây có lẽ là tác giả trẻ nhất cùng lúc có mặt trong các tuyển tập truyện ngắn do các nhà xuất bản Văn học, Giáo dục, Tác phẩm mới in ra trong năm 1985. Và nếu tính riêng trong lớp các nhà văn mới xuất hiện mươi năm gần đây, là tác giả duy nhất.

Tại sao dư luận lại đặc biệt chú ý tới Dương Thu Hương như vậy, dù nhiều người cũng biết là thế giới trong văn xuôi tác giả này có phần chật hẹp, và ngòi bút của tác giả còn chông chênh, lắm khi tác phẩm như được viết trong cơn sốt, diễn biến thất thường, kết cấu không thật chặt chẽ, chi tiết sai lầm chắp vá?

Theo tôi hiểu, ở đây có mấy lý do. Phần thì do Dương Thu Hương đã chạm đến cái khu vực nhạy cảm trong mỗi chúng ta là câu chuyện gia đình, những ước ao hạnh phúc. Quan trọng hơn, là lối viết "hết mình" của tác giả.

Về cơ bản đây là một ngòi bút chân thành, thái độ yêu ghét rõ ràng, và luôn luôn cùng vui cùng buồn với mọi sự kiện nói tới trong tác phẩm.

Viết, đối với chị, nhiều khi là một sự giải thoát.

Chúng ta nhớ đoạn mở đầu Sói con:

"Đó là một kỷ niệm khó quên. Bởi nó giống như sự ám ảnh của ngục tù. Đã có những tháng ngày dài, tôi không nhớ tới, nhưng rồi bất chợt, nó lại hiện lên rõ ràng, như vừa mới gặp chiều hôm trước. Và như thế, tim tôi lại quặn thắt lên bởi những nỗi đau lạ lùng. Cuối cùng, tôi viết ra để trốn thoát những dày vò, day dứt…"

Đoạn văn có cái giọng của một thứ tự thú, không những đúng với Sói con mà còn đúng với nhiều thiên truyện khác của cùng tác giả. Tâm trạng của một người buộc phải đi đến cùng trong sự lựa chọn của mình ở đây là điều dễ tạo ra sự thông cảm. Chừng nào còn giữ được cái chân thành của những điều nhất thiết phải nói ra, tác phẩm của Dương Thu Hương còn được nhiều người tìm đọc./.


Nguồn: Vương Trí Nhàn: “Chất lượng những sáng tác gần đây của Dương Thu Hương”, tuần báo “Văn nghệ”, Hà Nội, s. 41 (11.10.1986)