Hiển thị các bài đăng có nhãn HUẾ. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn HUẾ. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 21 tháng 3, 2024

Bộ ảnh hiếm ngày xưa của lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng)

Bộ ảnh hiếm ngày xưa của lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng)

– Lăng có cảnh quan đẹp nhất ở đế đô Huế


Lăng vua Minh Mạng (Hiếu Lăng) là nơi yên nghỉ của vua Minh Mạng (1791-1841), vị vua thứ hai của triều Nguyễn. Công trình này được đánh giá là lăng vua triều Nguyễn có cảnh quan đẹp nhất.

Trong 13 đời vua triều Nguyễn, thời vua Minh Mạng trị vì đất nước được đánh giá là giai đoạn thịnh vượng, hùng mạnh nhất. Trong hai mươi năm trị vì, vua đã thay đổi nhiều việc, từ đối nội, đối ngoại cho đến những cải cách kinh tế chính trị xã hội. Với 142 người con, vua Minh Mạng được xem là vị vua có nhiều con nhất sử Việt.

Năm 1820, vua Minh Mạng lên ngôi, chỉ 7 năm sau đó nhà vua đã tính tới việc xây lăng tẩm cho chính mình.

Quan Địa lý Lê Văn Đức đã chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng, cách trung tâm thành phố Huế 12 km.

Địa điểm đã được đề xuất từ năm 1827, và phải mất ròng rã gần 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.

Vua Minh Mạng cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.

Thứ Tư, 9 tháng 1, 2019

Cửu Vị Thần Công


Cửu Vị Thần Công 
Hai bên Quảng trường Ngọ Môn ở Huế, có 9 khẩu đại bác cổ bằng đồng rất lớn, bên phải 5 khẩu có tên là: Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ. Bên trái 4 khẩu có tên là: Xuân, Hạ, Thu, Đông. Đó là 9 khẩu súng thần công mà người Huế thường gọi với một cái tên sang trọng là “Cửu Vị Thần Công”. Trên súng có ghi tước vị do Vua Minh Mạng phong cho súng: Thống lĩnh quân đội, uy dũng ngang hàng với thần linh, vô địch tướng quân, niên hiệu 15 Gia Long, ngày tháng tốt Bính Tý… Đến Xuân Tân Mão này, “Cửu Vị Thần Công” có lịch sử đúng 207 năm và có nhiều huyền thoại linh thiêng đáng được kể lại.



Sử Gia Long chép rằng: Sau khi thắng Tây Sơn (1801), năm sau lên ngôi vua, Gia Long đã cho thu về tất cả các đồ vật bằng đồng chiếm được đúc thành 9 khẩu đại bác, tượng trưng cho sức mạnh và sự trường tồn của triều đại Nguyễn. Ngày khởi đúc là mùa Xuân Qúy Hợi (31-1-1803 ), đến cuối tháng 12-1804 các thợ đúc đồng Huế báo tin hoàn thành công việc đúc và họ chỉ còn hoàn thiện, chạm khắc trên súng! Chín khẩu súng được đúc cùng một lúc. “Cửu Vị Thần Công” được đặt tên theo 4 mùa và ngũ hành. Thứ tự tên và khối lượng các khẩu: Xuân 17.700kg ; Hạ 17.200kg; Thu 18.400kg; Đông 17.800kg; Mộc 17.100kg; Hỏa 17.200kg; Thổ 17.800kg; Kim 17.600kg; Thủy 17.200kg. Chưa có tài liệu nào giải thích tại sao khối lượng các khẩu súng lại không giống nhau. Chiều dài súng đồng nhất là 5,10m; đường kính nòng là 0,22m; đường kính ngoài nòng đoạn giữa là 0,54m; đế súng dài 2,75m; cao 0,73m; bánh xe đường kính 0,62m…


Bốn khẩu có tên Xuân, Hạ, Thu, Đông


-----------

Năm khẩu trong Cửu vị thần công có tên Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ




Theo giáo sư H.Lebris trong tập Những người bạn Cố đô Huế (bản dịch tiếng Việt của NXB Thuận Hóa, 1997), việc đúc súng thần công đặt dưới quyền giám sát của Đô Thống chế Nguyễn Văn Khiêm (Khiếm Hòa hầu) và Chánh quản cơ Hoàng Văn Cẩn, phó quản cơ Ích Văn Hiếu (Hiếu Thuận Hầu ), Phan Tấn Cẩn, Tham tri Bộ Công (Cẩn Tín hầu). Vua ban cho 4 vị tướng chỉ huy đúc súng các chức hầu có ý nghĩa: Khiếm hòa, cẩn thận, hiếu thuận, cẩn tín. Đại bác Thần công có mâm xoay nòng như pháo hiện đại. Ở trên súng có ghi rõ cách bắn như sau: Muốn bắn phải nạp 4 lớp thuốc súng. Lớp đầu 30 cân thuốc súng cộng 40 cân đất; lớp thứ hai 30 cân thuốc súng cộng 105 cân đất; lớp ba: 40 cân thuốc súng cộng 120 cân đất; lớp cuối cùng 20 cân thuốc súng để bắn trái đạn. Muốn bắn mạnh hơn thì gia tăng thuốc súng lớp thứ tư, tối đa 30 cân sẽ đạt mức công phá mạnh nhất.




Giáo sư H.Lebris cho biết: Súng này rất lợi hại cho người bắn! Cho đến thời Tự Đức, súng vẫn chưa một lần xung trận để bảo vệ Hoàng thành, mà chỉ dùng để bắn các phát súng lệnh ở Kinh Đô khi diễn ra lễ cung đình như Mừng Khánh Thọ vua, Lễ, Tết hay Tế Nam Giao… “Cửu Vị Thần Công” được trang trí rất đẹp, có thếp vàng trên súng. Người ta chạm một con rồng đang đè lên một con rồng khác buộc nó phải chạy trốn. Ngày xưa súng được đặt ở Tả Xưởng Tướng Quân (ở bên trái Ngọ Môn), chứ không phải đặt chia ra hai bên như bây giờ.


Xung quanh Cửu Vị Thần Công có nhiều huyền thoại thiêng liêng. Ngày xưa dân kinh đô Huế ai đi qua trước súng phải ngả nón cúi chào như chào một vị Thần. Tương truyền, cửu vị có thể hòa giải cho các gia đình li hôn, phù hộ cho các nhà an khang, thịnh vượng. Sử cũ chép rằng: Vua Tự Đức một hôm định đưa Cửu Vị Thần Công ra chiến trường. Quan quân đã cột ngựa rất mạnh để kéo, nhưng súng không hề nhúc nhích. Vua nổi giận viết bức thư với lời lẽ kiên quyết, cho quan triều đem đọc trước súng Thần Công: “Nếu Ngài không chịu tham chiến thì đích thân Trẫm sẽ đến phạt trượng và Ngài sẽ mất hết chức tước”. Sau khi tuyên đọc thư Hoàng Thượng, tự nhiên ngựa kéo súng bỗng rất nhẹ nhàng. Có nhà thơ dân gian đã viết thơ buồn về Cửu Vị Thần Công, đại ý: Hỡi Thần Công, lẽ nào Ngài chịu để đánh bại dễ dàng? Không! Ngài chỉ ngủ dưỡng sức để thức dậy biểu dương sức mạnh. Thật ra dưới triều Tự Đức cũng có đúc 9 khẩu súng Thần Công khác giống với “Cửu Vị Thần Công” nhưng nhỏ hơn chút ít đặt ở bên phải Ngọ Môn. 9 khẩu súng này được điều vào tham chiến ở Gia Định, Sơn Trà (Đà Nẵng), Thuận An (Huế). Còn các khẩu đúc thời Gia Long vẫn đặt ở chỗ cũ Tả Xưởng Tướng Quân cho đến bây giờ, chưa một lần phát hỏa đánh quân xâm lược...






Cửu Vị Thần Công đến nay vẫn uy nghi trước kinh thành Huế, là một phần Di sản thế giới thu hút khách du lịch, là chứng tích lịch sử một thời, đồng thời tượng trưng cho tài nghệ đúc đồng điêu luyện của người Việt Nam đầu thế kỷ XIX.
Ngô Minh
____

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2018

VĨNH ẤM VIÊN



Nội thất từ đường.
VĨNH ẤM VIÊN.
Ở Huế, Kim Long là một địa danh đặc biệt, vì nơi đây vốn là Trung tâm Đàng Trong thời chúa Nguyễn Phúc Lan, sau này là nơi lập phủ đệ của công hầu, khanh tướng nhà Nguyễn. Vì là vùng quý tộc nên con gái rất đẹp, và đương nhiên là rất thanh nhã như câu ca ai cũng thuộc: 
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, trẫm nhớ, trẫm liều trẫm đi”
Và quả thật, nhiều vị vua có phi tần người làng Kim Long như Thành Thái, Hàm Nghi, Đồng Khánh, Duy Tân...
Sông Hương trong mưa, nhìn từ Tam quan Vĩnh Ấm Viên.
Trong rất nhiều phủ đệ ở Kim Long, một trong những phủ nổi tiếng nhất là Vĩnh Ấm Viên, trong đó có từ đường thờ Trưởng Công chúa Diên Phước. Cổng tam quan cổ kính của Từ đường ngay sát bờ sông Hương, ai đi thuyền hay đi đường bộ lên chùa Thiên Mụ đều ngang qua di tích này.
Tam quan nhìn ra sông Hương.
Công chúa Diên Phước là con gái đầu của vua Thiệu Trị, mẹ là Từ Dụ Hoàng thái hậu, dưới bà có hai em là vua Tự Đức và một em gái mất sớm năm 3 tuổi.
Năm 1846, Công chúa được gả cho Đô úy Nguyễn Văn Ninh, con của Chưởng phủ sự Thái bảo Hoằng Trung hầu Nguyễn Văn Trọng. Vua cha cho xây nhà để Công chúa và Phò mã về ở. Công chúa còn được vua Thiệu Trị ban sách bạc, tự tay vua viết… Công chúa sống hạnh phúc với chồng được có hai năm thì mất ở tuổi 24. Mấy năm sau chồng bà cũng qua đời.
Vua Tự Đức rất thương xót chị, đã sai bộ Công xây dựng lại ngôi nhà thành Từ đường thờ Trưởng Công chúa Diên Phước. Vua nhiều lần đến đây dự lễ cúng giỗ chị và để lại mấy bài thơ bày tỏ lòng thương xót. Một lần đi thuyền qua phủ, vua viết: “Nuốt lệ dùng dằng ngoảnh đầu trông lại/ Khốn vì gió thổi thuyền đi quá nhanh”… Và sự kiện Công chúa qua đời được vua Tự Đức ghi trong bia đặt tại Khiêm Lăng.

Diên Phước Trưởng Công chúa từ.

Hiện nay trong khuôn viên của di tích quý giá này, có quán cà phê Vĩnh Ấm Viên do con cháu của Công chúa kinh doanh. Cũng là cà phê, nhưng đến Vĩnh Ấm Viên, ta còn được đắm mình trong không gian văn hóa, lịch sử như thế, nhất là được trò chuyện với những người gốc Huế.




Hôm trước, tôi may mắn được chủ nhà mở cửa Từ đường cho vào thăm nơi thờ Trưởng Công chúa Diên Phước, ngôi nhà được Nhật Bản giúp trùng tu như nguyên trạng cách đây mấy năm.


Chủ Nhật, 11 tháng 11, 2012

Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn, Huế


Cửu Đỉnh của nhà Nguyễn là chín cái đỉnh đồng với chức năng là trọng khí, là báu vật tượng trưng cho đế nghiệp của triều Nguyễn. Mỗi đỉnh có một tên riêng ứng với một thuỵ hiệu của mỗi vị hoàng đế triều Nguyễn.


Chín chiếc đỉnh lần lượt được đặt ở sân của Thế Miếu, sát với Hiển Lâm Các. Cao đỉnh được đặt ở trên đường thần đạo chạy từ Miếu Môn qua Hiển Lâm Các đến gian giữa của Thế Miếu - nơi đặt án và khám thờ vua Nguyễn Thế Tổ. Cao đỉnh kê ở chính giữa trong số Cửu Đỉnh và là đỉnh duy nhất được nhích về phía trước 3 mét với hàm ý tôn vinh vị vua sáng lập triều đại.
Lấy Cao đỉnh làm chuẩn, bên trái lần lượt là Nhân đỉnh, Anh đỉnh, Thuần đỉnh, Dụ đỉnh; bên phải lần lượt là Chương đỉnh, Nghị đỉnh, Tuyên đỉnh, Huyền đỉnh.
Cửu Đỉnh gắn liền với con số 9, một con số thiêng liêng theo quan niệm phương Đông, tượng trưng cho Trời, cho sự hoàn thiện tuyệt đối, cho quyền uy và sức mạnh của người đứng đầu thiên hạ.
Con số 9 cũng kết thúc một vòng lịch đại tương ứng với cửu tộc. Khởi đầu từ CAO tức thế hệ khai sáng và kết thúc ở HUYỀN là thế hệ sau cùng, khép kín một chu kỳ để đi vào cõi vĩnh hằng. Từ CAO đến HUYỀN trong hệ thống thế thứ lịch đại, mỗi thế hệ tượng trưng cho một đức tính tốt: CAO, tức người khởi dựng, tượng trưng cho sự vĩ đại, NHÂN là lòng tốt, tượng trưng đức, CHƯƠNG là sự gương mẫu, là ánh sáng, ANH là tài giỏi vinh hạnh, hiển đạt, NGHỊ là ý chí kiên cường, cương nghị, THUẦN là sự hoàn thiện, phong phú, TUYÊN là sự hài hòa, tinh thông, DỤ là nền tảng sự thịnh vượng và HUYỀN ứng với nơi sâu thẳm.
Cửu Đỉnh được vua Minh Mạng ra lệnh đúc vào năm 1835 và khánh thành vào năm 1837.
Nhìn chung, cả chín chiếc đỉnh đều có dáng giống nhau: bầu tròn, cổ thắt, miệng loe, trên miệng có hai quai, dưới bầu có ba chân.

Đặc điểm hình thể Cửu Đỉnh:
Tên đỉnh
Khối lượng (kg)
Chiều cao toàn bộ (m)
Chiều cao đến miệng (m)
Chiều cao chân (m)
Chiều cao quai
Chu vi thânbầu (m)
Chu vi cổ (m)
Chu vi miệng (m)
Đường kính miệng (m)
Chiều rộng quai (m)
Cao đỉnh
2601,4
2,5
2,02
1,05
0,48
5,07
3,01
4,275
1,38
0,48
Nhân đỉnh
2152,6
2,31
1,84
0,87
0,42
5,04
3,19
4,285
1,365
0,56
Chươngđỉnh
2079
2,27
1,86
0,95
0,41
5,035
3,51
4,245
1,35
0,5
Anh đỉnh
2595,7
2,25
1,83
0,94
0,42
5,055
3,54
4,28
1,37
0,51
Nghị đỉnh
2595,7
2,31
1,9
0,89
0,41
5,08
3,53
4,28
1,37
0,54
Thuần đỉnh
1950,3
2,325
1,9
0,85
0,425
5,047
3,52
4,26
1,365
0,51
Tuyên đỉnh
2066,4
2,35
1,91
0,93
0,54
5,06
3,52
4,28
1,37
0,61
Dụ đỉnh
2017,9
2,337
1,91
0,96
0,427
5,1
3,61
4,325
1,38
0,44
Huyền đỉnh
1935
2,31
1,9
0,95
0,41
5,05
3,57
4,43
1,9

Nguyên liệu đúc Cửu Đỉnh là đồng và kẽm, có thể thêm chì, thiếc…Tổng khối lượng đồng để đúc chín đỉnh khoảng 22T. Cửu Đỉnh có khối hình lớn, phức tạp, cần độ bền vững tuyệt đối nên được đúc liền khối. Phần quai được đúc riêng rồi hàn gắn vào miệng đỉnh. Để đúc mỗi chiếc đỉnh, người ta cần phải có đến 60 lò nấu đồng, mỗi lò chỉ nấu được từ 30–40 kg đồng.
Cửu Đỉnh đúc xong vào tháng 5 âm lịch năm 1836. Vua Minh Mạng xuống lệnh chọn thợ khéo chạm khắc các hình trang trí chạm nổi vào mỗi đỉnh.

Hoa sen khắc trên Nhân đỉnh
Tổng cộng có 162 tấm họa tiết chạm nổi tinh xảo trên bàu của tất cả 9 chiếc đỉnh, mỗi đỉnh gồm 18 tấm, chia làm ba tầng, mỗi tầng có sáu hình xen kẽ với 6 mảng trống, trong đó tầng trên và tầng dưới bố trí lệch đi một khoảng so với tầng giữa. Mảng hình chính ở mặt trước thuộc tầng giữa được khắc tên đỉnh với lối chữ chân phương, từng nét mạch lạc, khối chữ vuông vức. Tất cả các loại cảnh vật đều được chọn lọc và sắp xếp theo số 9. 9 vì tinh tú và hiện tượng thiên nhiên trong vũ trụ là Mặt Trời, Mặt Trăng, Gió, Sét, Mây, Mưa, Ngũ tinh, Bắc Đẩu, Nam Đẩu; 9 ngọn núi lớn là Thiên Tôn, Ngự Bình, Thương Sơn, Hồng Lĩnh, Tản Viên, Duệ Sơn, Đại Lãnh, Hải Vân, Đèo Ngang; 9 sông lớn là Bến Nghé, sông Hương, sông Gianh, sông Mã, sông Lô, Bạch Đằng, Thạch Hãn, sông Lam, sông Hồng; 9 con sông đào và sông khác là kênh Vĩnh Tế, sông Vĩnh Điện, sông Lợi Nông, sông Vệ, sông Phổ Lợi, sông Thao, sông Cửu An, sông Ngân Hà. Rồi 9 loài chim, 9 loài cây lương thực, 9 loại rau củ, 9 loài hoa, 9 loại cây lấy quả, 9 loại dược liệu quý, 9 loại cây thân gỗ, 9 loại vũ khí chiến trận, 9 loại thuyền bè, xe cộ, cờ. Tất cả những hình chạm ấy hòa quyện với nhau tạo nên một bức tranh thiên nhiên sông núi đất trời Việt Nam hoành tráng, có thể coi là bách khoa thư về cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19.

Cây Ngô đồng khắc trên Nhân đỉnh
Công việc chạm nổi mất khá nhiều thời gian, 8 tháng sau khi đúc xong, Cửu Đỉnh mới chính thức hoàn thành.
Hình chạm khắc đèo Hải Vân.
Hình chạm khắc cây Lúa nếp.
Thống kê các hình chạm nổi trên Cửu Đỉnh:
Cao đỉnh
Nhân đỉnh

Chương
đỉnh

Anh đỉnh
Nghị đỉnh
Thuần
đỉnh
Tuyên
đỉnh
Dụ đỉnh
Huyền
đỉnh
Tầng trên
Rồng (long)
Ngô đồng
Hoa nhài
(mạt lỵ hoa)
Ve sầu
(trách thiền)
Cây mai mơ (mai)
Cây đào đất
(xích ti đào)
Yến sào
(yến oa)
Ngành Thông(tùng)
Hoa Ngọc Lan
(ngũ diệp lan)
Trĩ
Công
(khổng tước)
Gà trống
(kê)
Hạc
(khôi hạc)
Sâu dừa hay còn gọi là con đuông
(hồ gia tử)
Vàng anh
(hoàng oanh)
Vẹt
(anh vũ)
Yểng -
 chim nhồng
(tần cát liễu)
Chim ông già (thọ nhi điểu, hoặc thốc thu hoặc dang sen)
Hoa tử vi
(tử vi hoa)
Hoa sen
(liênhoa,liêntử)
Kiệu
(giới)
Hoa hồng
(mai khối hoa)
Hảiđường
(hảiđường hoa)
Hoa quỳ
(thục quỳ hoa)
hoa sóitrắng (trân châuhoa)
Dâm bụt
(thuấn hoa hoặc mộccận)
Cây bông
(miên hoặc mộc khoáng)
Hành
(thông)
Bòn bon
(nam trân)
Đậu xanh
(lục đậu)
Nghệ
(uất kim)
Đậu ván
(biển đậu)
Đậu tương
(hoàng đậu)
Lạc
(địa đậu)
Đậu trắng (bạch đậu)
Sâm namhay còn gọi là sâm ta (nam sâm)
Lúa tẻ
(canh)
Lúa nếp
(nhu)
Cây mày cháy
(đậu khấu)
Cau
(tân lang)
Quế
Hương nhu
Bách
(trắc bách)
Trầu không
(phù lưu)
Tỏi
(toán)
Mít
(ba la mật)
Kỳ nam
Xoài
(yêm la)
Tô hạp
(tô hợp)
Hoàng đàn
Sa nhân
Nhãn-
longnhãn

(đường lê)
Vải
(lệ chi)
Tầng giữa
Cao đỉnh
Nhân đỉnh
Chương đỉnh
Anh đỉnh
Nghị đỉnh
Thuần đỉnh
Tuyên đỉnh
Dụ đỉnh
Huyền đỉnh
Núi Thiên Tôn (Thiên Tôn sơn)
Núi Ngự Bình (Ngự Bình sơn)
Núi Kim Phụng (Thương sơn)
Núi Hồng Lĩnh (Hồng sơn)
Cửa quan Quảng Bình
Núi Tản Viên (Tản Viên sơn)
Núi Đại Lãnh (Đại Lĩnh sơn)
Cửa Hàn (Đà Nẵng hải khẩu)
Đèo Ngang
(Hoành sơn)
Sông Bến Nghé
Sông Hương
Sông Gianh(Linh giang)
Sông Lô (Lô hà)
Sông Bạch Đằng
Sông Thạch Hãn
Sông Lam
Sông Vệ
Sông Thao
Mặt Trời(nhật)
Mặt Trăng(nguyệt)
Sao Thủy,Sao Kim,Sao Hỏa,Sao Mộc,Sao Thổ(ngũ tinh)
Sao Bắc Đẩu (Bắc Đẩu)
Sao Nam Đẩu (Nam Đẩu)
Gió
(phong)
Mây
(vân)
Sét
(lôi)
Mưa
 (vũ)
Kênh Vĩnh Tế
Sông Phổ Lợi
Sông Lợi Nông
Sông Mã
Sông Cửu An
Sông Vĩnh Định
Sông Hồng
Sông Vĩnh Điện
Sông Tiền, Sông Hậu
Biển Đông(Đông hải)
Biển Nam (Nam hải)
Biển Tây (Tây hải)
Ngân Hà
(Ngân Hán)
Cửa Thuận An
(Thuận An hải khẩu)
Cửa Cần Giờ
(Cần Giờ hải khẩu)
Núi Duệ (Duệ sơn)
Đèo Hải Vân
(Hải Vân quan)
Cầu vồng
(hồng)
Tầng dưới
Lim
(thiết mộc)
Hẹ (cửu)
Gỗ huống (thuận mộc)
Kiền kiền
(tử mộc)
Cải
Sao
(nam mộc)
Gừng
(khương)
Tía tô
(tử tô)
Cây sơn ta
(tất mộc)
Trạnh (miết)
Đồi mồi
(đại mại)
Rùa thiêng (linh quy)
Trăn
(nhiêm xà)
Cá lục hoa (lục hoa ngư)
Nghêu
(bạng cáp)
Rùa biển (ngoan)
Cá úc (thạch thủ ngư)
Cà cuống (quế đố)
Hổ (hổ)
Báo
(báo)
Tê giác
(tê)
Ngựa
 (mã)
Voi
(tượng)
Bò tót
(ly ngưu)
Lợn (thỉ)
Dê (dương)
Con sơn mã (hươu?)
Đại bác(đại pháo)
Pháo luân xa (luân xa pháo)
Súng bắn chim (điểu thương)
Đạn bươm bướm (hồ điệp tử)
Giáo dài (trường thương)
Bài đao (bài đao)
Cung (nỏ)
Cái phạng (phác đao)
Ống phun lửa (hỏa phún đồng)
Thuyền nhiều dây (đa sách thuyền)
Thuyền lầu (lâu thuyền)
Thuyền mông đồng (mông đồng thuyền)
Cờ hiệu (kỳ)
Thuyền đi biển (hải đạo thuyền)
Thuyền nhỏ (đỉnh)
Lê thuyền
(lê thuyền)
Ô thuyền
(ô thuyền)
Xe (xa)
Trầm hương
Cá voi(nhân ngư)
Cá sấu(ngạc ngư)
Dâu trắng hay dâu ta (tang)
Uyên ương
Cá rô
(quá sơn ngư)
Sam (hậu)
Sò huyết
(khôi cáp)
Rắn lớn (mãng xà)

Trải qua hơn 170 năm biến động, Cửu Đỉnh vẫn không hề thay đổi vị trí, còn lại nguyên vẹn cho tới ngày nay.
Cửu Đỉnh có thể coi là những tác phẩm mỹ thuật rất tinh tế của những nghệ nhân tài hoa, là sự kết hợp điêu luyện giữa nghệ thuật đúc và chạm nổi đồ đồng của Việt Nam, giữa văn hoá dân gian và văn hoá bác học, là bách khoa thư về cuộc sống con người Việt Nam hồi nửa đầu thế kỉ 19, là biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống nhất và ước mơ mãi vững bền của người Việt Nam.
Cửu Đỉnh là di sản văn hóa quý hiếm của văn hóa Huế nói riêng, Việt Nam nói chung.



Xem thêm video giới thiệu Cửu Đỉnh

Nguồn: Bảo vật Cửu Đỉnh; 
Blog thegioicuaaha.