Thứ Hai, 30 tháng 9, 2019

The Pianist Soundtrack

The Pianist là bộ phim hồi ký năm 2002 được đạo diễn bởi Roman Polanski, diễn viên chính Adrien Brody. Phim dựa trên cuốn hồi ký cùng tên của tác giả người Do Thái- Ba Lan, nhạc sĩ Władysław Szpilman. Phim được hợp tác sản xuất giữa rạp chiếu phim Ba Lan, rạp phim Pháp, rạp phim Đức, và rạp phim Anh.
Ngoài việc chiến thắng các giải Oscar cho đạo diễn xuất sắc nhất, nam diễn viên xuất sắc nhất, kịch bản chuyển thể xuất sắc nhất, và được ứng cử cho phim hay nhất, quay phim xuất sắc, thiết kế trang phục và biên tập, bộ phim còn giành được giải Palme d’Or tại liên hoan phim Cannes 2002[1], Giải BAFTA cho phim hay nhất, cho đạo diễn xuất sắc nhất năm 2003, phim còn giành được 7 giải César của Pháp cho hình ảnh đẹp nhất, đạo diễn xuất sắc nhất, và nam diễn viên xuất sắc nhất cho Brody.
Roger Ebert (một nhà phê bình phim người Mỹ từng đoạt giải Pulitzer) nói "Có lẽ chính sự dửng dưng đã phản ánh những gì mà Polansky muốn nói… Bằng cách đưa ra nhân vật Szpilman như một người sống sót nhưng không phải là một kẻ chiến đấu hay một anh hùng-như là một con người mà làm những gì anh ta có thể để cứu sống chính anh ta, nhưng sẽ chết nếu không có sự may mắn to lớn và sự tốt bụng của một vài người không phải Do Thái-Polanski đang phản ánh cảm giác trong sâu thẳm tâm hồn của ông: rằng ông đã sống sót, và mẹ ông đã chết và bỏ lại vết thương không thể lành."
Cùng thưởng thức The Pianist Soundtrack trong phim The Pianist (Nghệ sĩ dương cầm).

1. Phần nhạc nghe lúc bắt đầu bộ phim là Nocturne in C-sharp minor Lento con gran espressione của Chopin.

Nocturne (là từ tiếng Pháp, có nghĩa là “thuộc về ban đêm” dạ khúc, được lấy cảm hứng hoặc có liên tưởng đến đêm. Nocturne lần đầu tiên được sử dụng vào thế kỷ thứ XVIII.




Chopin Nocturne No. 20 perf. by Wladyslaw Szpilman - "The Pianist" - Original Recording

Bản Nocturne No. 20 cung Đô thăng thứ của Chopin được chọn sử dụng làm nhạc nền cho phần đầu và lúc kết thúc của bộ phim cảm động: The Pianist (2002), kể về niềm tin, nghị lực sống mãnh liệt của người nghệ sĩ Do Thái. Trong lúc cùng khổ và tuyệt vọng nhất, chính âm nhạc của nghệ sĩ dương cầm người Do Thái đã xóa tan sự giết chóc, ranh giới quốc gia trong tâm hồn viên sĩ quan phát xít Đức – thay vào đó là sự đồng cảm và lòng nhân ái trong tâm hồn.



The pianist soundtrack 01 - Nocturne in C Sharp Minor







2. Phần nhạc dương cầm mà được nghe từ nhà hàng xóm trong khi Szpilman đang ẩn trốn tại căn hộ là the Mazurka in A Minor, Op. 17, No. 4 của Frederic Chopin.





[OST] The Pianist - Mazurka In A Minor, Op. 17, No. 4





3. Phần dương cầm được nghe trong căn nhà hoang khi Szpilman vừa mới phát hiện ra nơi ẩn nấp trên gác mái là Moonlight Sonata của Beethoven. Bản mà sau đó phát hiện ra rằng chính sĩ quan người Đức Hosenfeld là nghệ sĩ. Một sáng tác của Đức đặt cạnh cùng với một tác phẩm Ba Lan (Chopin) sau sự lựa chọn của Szpilman.






4. Phần dương cầm được chơi khi Szpilman đối mặt với Hosenfeld là Ballade No. 1 in G minor, Op. 23 của Chopin, là phiên bản được rút ngắn. Cả phần đó đầy đủ dài 9-10 phút.



From "The Pianist": Chopin Nocturne C sharp minor (Arjen Seinen).






Cảnh khi tay của Szpilman chơi trên piano đã đóng được cung cấp bởi nghệ sĩ dương cầm cổ điển Ba Lan Janusz Olejniczak (b.1952), người còn biểu diễn trong cả tập album của phim.

Do Polanski muốn bộ phim trở nên thật nhất có thể, bất kì cảnh nào của Brody chơi đều là do chính anh biểu diễn thông qua sự ghi âm được cung cấp bời Janusz Olejniczak. Để phần biểu diễn của Brody giống với trình độ của Wladyslaw Szpilman’s, anh đã phải bỏ ra rất nhiều tháng trước và trong quá trình làm phim luyện tập để những phím đánh trên dương cầm thuyết phục được người xem rằn anh đang chơi.



Krystian Zimerman - Chopin - Ballade No. 1 in G minor, Op. 23



The Pianist Soundtrack - Ballade No.1 in G Minor (Op.23)






5. Phần nhạc vi ô lông xen ở giữa phim chơi bởi Dorota là đoạn mở đầu của Cello Suite No. 1 được viết bởi Bach.





6. Phần giao hưởng nghe ở cuối phim được chơi bởi dàn nhạc là Grande Polonaise brillante, Op. 22 của Chopin

[OST] The Pianist - Grande Polonaise Brillante In E-flat Major, Op. 22





Chopin Grande Polonaise Op 22 Zimerman Rec 1979

Thứ Sáu, 27 tháng 9, 2019

St. Vincent - Bảo mẫu cựu binh


Được bạn giới thiệu, xem Bảo mẫu cựu binh trên Star Movies tới gần 1h sáng. Thấy cái cách dạy bảo trẻ em của ông Vincent MacKenna thật kỳ lạ. Nhà trường, mọi người phê phán và xa lánh. Nhưng đứa trẻ Oliver Bronstein lại thích thú và mến yêu ông. Tôi nghĩ về cách giáo dục cổ điển và kinh viện của ta hiện nay. Thấy hiện tượng: nhà trường dạy trẻ ngoan thì chúng bạo lực. Xã hội tụng ca đạo đức mà thấy toàn lừa đảo với những xót thương...Tạm như vậy, mời bạn tìm xem và đọc bài viết trên FB của bạn Xuân Bình (nhà báo tự do) mà tôi chép về đây. Cảm ơn XB nhiều. Tôi có sửa một số từ mà bạn chú thích và bỏ một số câu. Bình thông cảm nhé. (anhThế)

.....

Tôi thấy…Thánh không thích “muôn năm”
Câu chuyện Thánh Vinh Sơn của người Mỹ thật xa lạ với Việt Nam nơi mà quá nhiều người chỉ biết quỳ mọp trước danh nhân - những kẻ luôn ảo tưởng, tự phong mình là thánh nhân, vĩ nhân, thiên tài. Nơi mà, ... hàng chục triệu người nhìn đâu cũng chỉ thấy hoa vàng, cỏ xanh và lẩm bẩm, lầm bầm : “Muôn năm ...”
Trên poster quảng cáo, người ta viết: He’s one hell of a role model. Bút dịch là: Ông ta là người không hoàn hảo. Dưới đây là bài luận của học sinh Oliver Bronstein (Jaeden Lieberher thủ vai) viết về vị Thánh của mình:
“Thánh là những người mà chúng ta tôn vinh sự tận tâm và cống hiến của họ cho những người khác. Thầy Geraghty nói điều này hồi tháng ba. Về vị thánh hiện đại của mình, cháu chọn một người có nhiều phẩm chất giống với Thánh William của Rochester.
Bề ngoài, vị Thánh của cháu chắc là ứng cử viên không tưởng cho một vị Thánh. Ông ấy không phải là người vui vẻ. Ông ấy không thích ai mà cũng chẳng ai thích ông. Ông cộc cằn, nóng giận, nổi điên và nhiều hối tiếc. Ông uống rượu rất nhiều, ông ấy hút thuốc. Ông ấy đánh bạc, chửi thề, nói dối và lừa gạt. Và ông giành nhiều thời gian với một quý cô bóng đêm.
Đó mới chỉ là cái nhìn đầu tiên. Nếu chú ý kĩ hơn, mọi người sẽ thấy một người khác phía sau những khuyết điểm đó. Ông Vincent MacKenna sinh năm 1946 ở vịnh Sheepshead, là con của thế hệ người Ireland nhập cư đầu tiên. Lớn lên kham khổ ở Brooklyn, ông Vincent học mọi thứ mà trẻ con không nên biết. Đánh nhau, chửi thề và cờ bạc.
Năm 1965, là lính của Trung Đoàn 5 thuộc Lục Quân Mỹ, Vincent cùng với 450 binh sĩ khác tới thung lũng La Drang và bất ngờ bị phục kích bởi 2.000 quân địch. Ở đó, ông đã anh dũng cứu hai sĩ quan bị thương ở chân và đưa họ tới nơi an toàn. Ông được trao tặng huân chương Sao Bạc cho lòng dũng cảm.
Cháu cho rằng cách tốt nhất để nói với mọi người là kể về điều ông đã làm cho cháu.
Khi cháu và mẹ tới đây, bọn cháu không biết ai cả. Và khi không muốn, không bị bắt buộc, MacKenna vẫn giúp đỡ cháu. Ông đã làm thế như một vị Thánh .
Bọn cháu đã thăm Sandy, người vợ 40 năm của ông. Bà vừa mới qua đời. Suốt tám năm sau khi bà không còn nhận ra ông, hằng tuần, Vin vẫn lo việc giặt ủi quần áo của bà . Vì những vị Thánh không bao giờ bỏ cuộc.
Ông dạy cháu chiến đấu, tinh thần cứng cỏi và lòng dũng cảm, cách nói to và rõ ràng. Bởi vì, để mọi người có thể được lắng nghe, Thánh luôn chiến đấu cho bản thân họ và mọi người.
Ông dạy cháu cách cá cược, chơi đua ngựa, xổ số, kèo trên kèo dưới, đó cũng là nguyên nhân chủ yếu khiến cháu bị giám hộ đến năm 18 tuổi. Nhưng trong đó, cháu học cách chấp nhận rủi ro, được ăn cả, ngã về không. Vì trong cuộc sống, đôi khi mọi thứ đều chống lại ta.
Đây là con mèo Felix của ông Vin. Nó ăn đồ ăn ngon trong khi ông ăn cá mòi. Bởi vì Thánh là người biết hy sinh.
Đúng vậy, ông Vincent MacKenna không hoàn mỹ, rất không hoàn mỹ, như mọi vị Thánh khác mà ta học. Vì rốt cục, Thánh là con người, rất con người. DŨNG CẢM, HY SINH, CẢM THÔNG, NHÂN VĂN. Đó là những dấu hiệu của một vị Thánh, và bởi thế ông Vincent MacKenna rất gần gũi với Thánh William của Rochester.
Dựa trên đó, cháu xin giới thiệu người bạn, người giữ trẻ, ông Vincent MacKenna, cho danh hiệu Thánh, và nhân đây tuyên bố ông là Thánh Vincent của vịnh Sheepshead."


Ở tuổi 64, Bill Murray vào vai một ông già khó tính, gắt gỏng sống một mình với chú mèo Felix mặt tịt khó ưa, trong một căn hộ nhỏ cũ kỹ. Thỉnh thoảng, cô “gái nhảy” Daka (Naomi Watts) - một vũ công thoát y làm việc trong các vũ trường đêm ghé qua, “vui vẻ” chốc lát cùng ông, văng tục vài câu trước khi moi được vài đồng đút túi rồi ôm bụng biến mất.
Cuộc sống của Vincent già nua cứ uể oải trôi đi cho đến một ngày hai mẹ con Maggie (Melissa McCarthy) và Oliver (Jaeden Lieberher) chuyển đến, ra mắt hàng xóm mới bằng một vụ va chạm ngay trước cửa nhà. Ông già khó tính Vincent lập tức nghĩ cách kiếm tiền bằng việc trở thành bảo mẫu bất đắc dĩ của cậu bé 12 tuổi. Bộ phim là hành trình trưởng thành và trải nghiệm cuộc sống theo cách rất riêng của hai người bạn đặc biệt này.
Vincent và Oliver là những người bình thường, có một cuộc sống gia đình không toàn vẹn, gặp nhau ở giữa cơn khủng hoảng của cuộc đời. Vincent gần như trắng tay, trót làm cho một “gái làng chơi” mang bầu, thua ngựa, nợ ngân hàng chồng chất. Oliver không có bố, vừa chuyển đến nơi ở mới cùng mẹ, bị các bạn ở trường mới kỳ thị, khinh miệt chỉ vì cậu là người Do Thái.



Ý tưởng tuyệt vời về việc hãy tìm một vị thánh xung quanh đây, trong một ngôi trường đa tôn giáo đã trở thành cái kết tuyệt vời cho bộ phim. 

Mời các bạn xem qua link

Thứ Tư, 25 tháng 9, 2019

Kim Lăng Thập tam thoa


Kim Lăng Thập tam thoa: Hoa trong bão 

Kim Lăng Thập tam thoa đẹp, đẹp đến nao lòng. Tưởng chừng như nhìn từng bối cảnh xuất hiện trong phim, nhận ra trong đó cả những số phận con người đã từng sống và gắn bó, sinh ra và chết đi với nó. 

Những cô gái với những thân phận nhỏ nhoi... 

Lịch sử của Trung Quốc được tái hiện trong phim với khung cảnh thành phố hoang tàn đổ nát, bầu trời bị khuất lấp bởi khói đạn chiến tranh, âm thanh duy nhất lọt vào tai người là tiếng đạn bom và la hét. Tất cả chìm trong sắc màu xanh xám. Những vụn vải đủ màu sắc bị xé vụn vì đạn bom, bay tung lên lẫn giữa khói bụi như những cánh hoa rơi rụng, thấy ô cửa kính màu rực rỡ nhuộm không gian bên trong tu viện thành sắc màu ấm áp,... Nó tạo cho ta một cảm giác gì đó gần như sự an ủi. Thực sự đó là một sự an ủi, một tín hiệu để tin rằng, tương lai phía trước sẽ là một điều gì thực sự tươi sáng.

14 cô gái, người đời gọi họ là gái điếm, khinh rẻ, miệt thị họ,... nhưng họ cũng là những con người, với những thân phận nhỏ nhoi, cũng có những ước mơ và cũng sống với trái tim một con người. Khoảnh khắc khi họ trở về với một mảnh quá khứ trong veo đã đánh mất của chính mình. Và trong Kim Lăng thập tam thoa, họ là con người, với trọn vẹn ý nghĩa hơn bao giờ hết. 


... cũng có những ước mơ và cũng sống với trái tim một con người 


Cái nhìn biết kể chuyện của Christian Bale trong phim 

Cuối phim, khi nhân vật của Bale lái xe trên con đường gập ghềnh với hậu cảnh là mặt trời đằng xa - vầng mặt trời hiếm hoi xuất hiện, bỏ lại sau lưng bầu trời Nam Kinh mịt mờ khói lửa. 


Xem phim

 
===========================
Khi nhắc đến “Kim Lăng thập tam hoa”, ắt hẳn người ta sẽ nhớ ngay đến bộ phim nổi tiếng của Trương Nghệ Mưu với sự tham gia diễn xuất của tài từ Christian Bale, mà quên mất đi câu chuyện đã mang lại bộ phim trên, một câu chuyện về chiến tranh tuyệt đẹp nhưng cũng đầy đau đớn.

Tiểu thuyết của nữ sĩ Nghiêm Ca Linh là một câu chuyện khác về cuộc thảm sát Nam Kinh, một trong những tội ác chiến tranh tồi tệ nhất trong vòng một thế kỷ qua khi hơn 300.000 người dânTrung Quốc đã bị xóa sổ một cách có hệ thống bởi quân xâm lược Nhật Bản vào tháng 12 năm 1937, cùng nhiều người khác bị tra tấn khủng khiếp và bị lạm dụng.

Về phần mình, khi xem các sự kiện ở Nam Kinh từ quan điểm của một cô gái ngây thơ tuổi mười ba, cuốn tiểu thuyết của Nghiêm Ca Linh tưởng chừng đơn giản và không có gì đặc biệt nhưng cuốn sách đã chứng minh sự hiểu quả trong cách chọn đối tượng của nó. Quá trình đánh mất sự ngây thơ của nhân vật diễn ra ngay từ những trang đầu tiên của cuốn sách, cuộc xâm lược Nam Kinh nổ ra ngay lúc Mạnh Thư Quyên đón nhận kỳ kinh nguyệt đầu tiên của mình, nhưng đó cũng là ý nghĩa của ranh giới và những điều cấm kỵ bị phá vỡ, và cô không có điều gì phải lo sợ, cô an toàn nơi vị trí của mình khi chia sẻ chỗ ở với một số cô gái trẻ khác tại một nhà thờ thiên chúa giáo Hoa Kỳ dưới sự bảo vệ của Cha Engelmann, được xem là nơi linh thiêng, không có sự xâm nhập của bọn binh lính Nhật tàn nhẫn và vô nhân đạo khi so với toàn bộ thành phố Nam Kinh hiện đã nằm hoàn toàn trong tay bọn Nhật.

Bản chất của cái thực tế khắc nghiệt mà những cô gái được che chở ấy phải đối mặt được phản ánh rõ nét hơn nữa khi có sự xuất hiện của những vị khách không được chào đón đến với nhà thờ: 3 người lính chiến sĩ và một nhóm những cô gái mại dâm đến tìm kiếm thức ăn và chỗ ở. Mặc dù là một cuốn tiểu thuyết ngắn, nhưng tác giả đã thành công trong việc sử dụng những hoàn cảnh đặc biệt này trong “Kim Lăng thập tam hoa” để miêu tả tính chất đau đớn của sự thức tỉnh trước một thực tế mới mẻ và tàn nhẫn mà chiến tranh đã mang lại cho những công dân Nam Kinh và Trung Quốc nói riêng cũng như toàn thế giới nói chung.

Đơn giản nhưng tinh tế, sử dụng từ ngữ chính xác để miêu tả, Nghiêm Ca Linh cũng đã thành công trong việc tạo ra các nhân vật gần gũi, rất “người”, không phải là khuôn mẫu hay biểu tượng, chọn những chi tiết có giá trị để đi thẳng vào trái tim của người đọc để diễn tả một câu chuyện vô nhân đạo vượt trên sự hiểu biết của con người.

“Kim Lăng thập tam hoa” là một cái nhìn hấp dẫn về cuộc thảm sát từ quan điểm của những người ẩn bên trong dòng chảy của thời gian, sẽ khiến người đọc có cảm giác mình được du hành ngược thời gian để trực tiếp đứng trước cuộc thảm sát. 

Hình ảnh Nghê Ni trong Kim Lăng Thập Tam Thoa

Thứ Hai, 23 tháng 9, 2019

Kẻ bị mất phép thông công

Kẻ bị mất phép thông công 
Hà Nội 1954-1991: Bản án cho một trí thức 

Nguyễn Mạnh Tường


Nguyên văn tiếng Pháp: 

Un Excommunié
Hanoi: 1954-1991: Procès d'un intellectuel
Người dịch: Nguyễn Quốc Vĩ
(Đây là bản đã đăng nhiều kỳ trên Thông Luận:



 Bìa bản tiềng Pháp (Paris 1992) 
  
“Bản thảo cuốn sách này đã được soạn và đánh máy trong một tình thế lén lút và bị cô lập. Vì vậy tôi khiêm tốn gửi lời xin lỗi về những lỗi lầm hay sai trật đến những ai quan tâm đến những suy tư và những bài viết của tôi, và mong muốn cuốn sách này sẽ được phát hành ở Pháp”

N.M.T.

13 Tháng 5 năm 1991



PHẦN MỘT

ĐẠT ĐẾN ĐỈNH VINH QUANG




Vài tháng sau trận Điện Biên Phủ, tôi được lệnh tập trung lên trình diện tại Chiến Khu Việt Bắc. Tôi nghĩ đây cũng là lần tập trung để học chính trị như những lần trước. Cấp lãnh đạo luôn rất quan tâm đến việc giáo dục quần chúng và truyền giảng cho giới trí thức những ý niệm về chủ nghĩa Marxist-Leninist mà họ tự cho rằng chỉ họ mới là những người duy nhất hiểu biết nó. Bằng con bài chủ của mình, những hiểu biết dó, họ cho rằng có thể áp đặt được sự nể trọng họ lên giới trí thức, và cùng lúc, họ có thể thanh toán được nỗi mặc cảm tự ty của mình. Đúng là ngây thơ, nhưng tất cả các ngài đều mang bệnh ngây thơ ấy. Vì thế, tôi đành phải tự chèo chống lấy mình cho qua những giờ dài đăng đẳng để khỏi nghe vài diễn giả cà lăm lải nhải. Họ không thể nào ngăn được tôi trốn trong một góc khuất, ngáp dài nếu không ngủ hay mơ về bất cứ điều nào mà tôi thích. Nhưng cái chiến thắng vang dội vừa mới đây lại mang đến cho tôi những xì xầm to nhỏ. Sự tiên liệu của tôi đã thành sự thật khi thấy cả ngàn cán bộ thuộc đủ các ngành đang tập trung ở Tân Trào. Sau rốt, chúng tôi biết chúng tôi sắp được học “chính trị” – đây là một cụm từ linh thiêng, ở Việt Nam, mọi chuyện đều là “chính trị”- để tổ chức buổi lễ Chính Phủ Kháng Chiến tiến vào tiếp thu Hà Nội. Quân đội Thực Dân phải ra đi và bàn giao lại tất cả các cơ quan công quyền bao gồm cả nhà cửa, thiết bị dụng cụ và cả những người Việt đang làm việc nơi đây. 

Buổi học tập là để biết phải có thái độ gì đối với những công nhân viên đã được chỉ định để bàn giao cơ quan mà trước đây họ làm việc trong thời kỳ Pháp thuộc. Những mật báo viên của chúng tôi đã lập những hồ sơ những người chủ chốt của cơ quan, hồ sơ lý lịch, gia cảnh, thái độ đối với Kháng Chiến, cảm tình đối với xếp trên người Pháp của họ và nước Pháp, cũng như khát vọng và khả năng của họ. Những thông tin đó rất quý giá và nó giúp chúng tôi đánh giá mức độ tin cậy đối với từng người, sự hỗ trợ của mỗi người có thể có cho chúng tôi và những kỳ vọng mà chúng tôi có thể chờ đợi từ mỗi người của họ. Như vậy chúng tôi không phải quá mạo hiểm đi vào một vùng xa lạ, có thể vấp khựng trước những chướng ngại vật hay trượt ngã vào những cạm bẫy bất ngờ.

Câu hỏi nhạy cảm là làm sao tìm ra một thái độ cư xử với những người mà tình cảm được che giấu sau bức màn của lễ độ và của nụ cười? Người của Kháng Chiến phải tự mình hết sức cẩn trọng trong lời nói, cách nhìn, cử chỉ để tránh ám chỉ dù nhẹ nhàng nhất đến sự khinh thường hay chiếu cố riêng đối với từng nhân viên dưới quyền. 

Nếu các cấp lãnh đạo cấp cao thấm nhuần và luyện tập bản thân về ý này, thì rủi thay, đám tôi tớ tuỳ tùng không hề bỏ lỡ một cơ hội nào để phô trương sự ngạo mạn một cách lố bịch và đầy tai hại. Chúng nó tự ca tụng và phô trương là đã chịu nhiều gian khổ và bệnh tật trong những năm bí mật kháng chiến, nay chúng đòi phải được trả công bởi những kẻ không “may mắn” được tham gia Kháng Chiến. Tai hại gây nên bởi loại người thiếu thận trọng đó thật lớn lao. Hố ngăn cách hai nhóm người trong xã hội càng đào sâu hơn nữa. Trong số những người bất mãn, có những người bỏ ra nước ngoài mang theo tài sản của Đất Nước và lòng yêu nước, mang những của cải làm quà cho những Đất Nước nhận dung dưỡng và cho họ những cơ hội thích hợp với khát vọng và ước mơ của họ. Những người khác thì đã nức hận thù chống cộng, luôn tìm cơ hội để phát tiết nỗi oán giận, thành lập những tổ chức bí mật, thiết lập quan hệ với kẻ thù của chúng ta ở nước ngoài, nhận tiền và chỉ đạo và ngay cả những trợ giúp quân sự với mục đích gây rối loạn, gây biến động nổi dậy, và nếu được là một cuộc đảo chính. Đại bộ phận dân chúng thì trì trệ trong sự dửng dưng, chọn thái độ chờ xem, chẳng màng suy nghĩ hay kêu gọi những mong đợi của họ về chuyện thay đổi chế độ; họ giữ im lặng, quan sát, nghe ngóng và không làm một hành động hay đưa ra một thái độ nhiệt tình nào trong công việc giao cho họ. Bất cứ công việc nào mà con tim không có, thiếu niềm vui, vắng nhiệt tình, thì nó không thể cho ra kết quả hữu hiệu, ít nhất cũng là việc chính quyền kháng chiến, mặc dù những tuyên ngôn, mà hoá ra như những lời khoác lác làm trò cười cho thiên hạ, đã không cung cấp nổi cho công nhân viên những nhu cầu tối thiểu của đời sống hàng ngày. Những công chức được trả lương hậu hĩnh dưới thời chính quyền Thực Dân trước đây được tiếp tục hưởng lương như thế trong một thời gian. Nhưng một vài “tâm hồn cao quí” trong bọn họ, được sự “chỉ đạo” đúng đắn và bài bản của “lãnh đạo”, không biết dưới sự đe doạ hay được lời hứa thưởng công, đã đưa ra kiến nghị cùng bình đẳng lương bổng, nhưng không phải bình đẳng theo hướng nâng lương lên cao mà cùng giảm lương về mức thấp. Để thuyết phục các đồng nghiệp chấp nhận ăn miếng bánh thanh bạch, những tác giả của kiến nghị “công bằng lương bổng” kéo nhau rỉ tai là “Trong những năm kháng chiến, chúng mình chưa bao giờ bị đói, lạnh, nguy hiểm đến tính mạng; chúng mình sống no đủ hạnh phúc thoải mái với gia đình. Như vậy, chuyện từ bỏ những đặc quyền và giảm bớt lợi tức của chúng ta cho bằng các bạn đồng nghiệp phía kháng chiến có phải là một việc làm có tình có lý hay không? Như vậy chúng ta đã có một hành động công bằng; chúng ta cho thấy khả năng chấp nhận hy sinh và sẽ không bao giờ thành đối tượng bị khinh miệt bởi người khác; chúng ta mang lại sự đoàn kết trong cộng đồng công nhân viên nhà nước, và bình đẳng giữa người này người khác. Chúng ta cùng cực khổ cáng đáng việc xây dựng lại Đất Nước nhé!”. Nhiều người đã rùng mình ớn lạnh khi nghe những lời rủ rỉ phát sinh từ cấp cao nào đó truyền xuống mà thấy miệng đắng như vừa nuốt nguyên túi mật không tên. Đó là mùi vị của khốn cùng mà tất cả công nhân viên nhà nước đang cúi mình gánh chịu.

Về phía dân chúng, đối với chúng tôi họ dành trong lòng một sự tò mò nhưng thân thiện. Họ và chúng tôi cùng dòng máu đang chảy trong huyết quản, cùng một quá khứ đầy tự hào và tủi nhục. Điện Biên Phủ đã tràn ngập con tim của mọi người với cùng độ nức lòng và cùng tầng nhiệt huyết. Nhưng, dù thế nào, kháng chiến vẫn là một thế giới riêng, người đi kháng chiến cũng là những con người thường nhưng với những tập quán thói quen có thể làm ngạc nhiên thế giới văn minh. Người ta có thể nhìn chúng tôi như những kẻ man rợ vì không biết dùng lược và nước hoa để chải đầu hay xài xà phòng tắm để săn sóc làn da; man rợ vì không biết cầm dao nĩa thế nào cho đúng cách; nhưng cũng có người vừa to mắt ngạc nhiên vừa trao tặng chúng tôi một bó hoa; có người chờ xem hành động và lời nói của chúng tôi để xem có thể dành cho chúng tôi mối cảm tình nào đó hay chỉ thuần là một nỗi nể nang sợ hãi, nếu chưa muốn nói đến một sự lãnh đạm xa cách. 

Khó khăn lớn nhất của chúng tôi là việc tiếp cận giới trí thức Hà Nội, nhất là khi họ đã được cảnh báo về chủ nghĩa Cộng Sản. Việc họ bỏ nước ra đi sẽ gây thiệt hại đáng kể cho Đất Nước bị mất đi những chất xám mà sau đó chính những nước ngoài là người hưởng dụng. Đó là lãnh vực mà ta cần phải tránh những sai lầm ngớ ngẩn do những người được giáo dục đúc khuôn từ Đảng là thủ phạm, bởi vì họ đầy tự mãn, đầy kiêu căng, bởi vì họ không có trình độ về lãnh vực trí thức và xã hội. 

Nhưng, theo đánh giá của cấp Lãnh Đạo, điều tệ hại nhất là điều đe doạ đến tính trong sáng của cán bộ kháng chiến đã hơn mười năm nay được Đảng giáo dục. Khi đến với kháng chiến, toàn bộ hay ít nhất là gần như toàn bộ cán bộ là đã có những vết nhơ của tư sản, của thế giới phản động. Những vết nhơ đã làm hoen ố tâm hồn nhiều hơn là thể xác, làm biến chất con người, làm sai lạc quan điểm và làm méo mó tư duy của họ. Phải cần nhiều năm miệt mài học chủ nghĩa Lenin, hàng năm theo những lớp học chính trị, những buổi phê bình và tự phê bình, những ngày lao động chân tay, trải nghiệm gian khổ để chữa sạch những vết thương mưng mủ, để chữa trị khỏi những tật bệnh nếu không phải là để cho một sự trinh nguyên cho thể xác, thì cũng để đạt đến sự chân thành biến thành những kẻ dễ bảo cho lãnh đạo.

Ngày nay họ lại phải trở về với chính nơi độc nhiễm mà họ trước đây sinh sống, Đảng đã bắt chước Trung Quốc tìm cách cho họ tránh những “viên đạn bọc đường” bằng cách trang bị cho họ những bao ngừa thai để tránh những mầm SIDA chính trị, một bệnh truyền nhiễm chết người, y chang như trang bị cho người để chống SIDA ở đời thường. Cái gì đã quyến rũ các ông quan kháng chiến một khi họ trở về Thủ Đô? Một bữa ăn thịnh soạn có champagne, rượu Tây, thuốc lá Anh, những điệu valse ẻo lả, những ánh mắt đưa tình và những nụ cười mời mọc của những nàng tiên kiều diễm là quá đủ để kéo tên “man rợ” ra khỏi rừng rú ném hắn vào đám yêu tinh và làm hắn phải “bán linh hồn cho quỉ dữ”… Nhưng làm sao sự khôn ngoan và những tiên liệu của Đảng lại có thể ngăn được những đợt thuỷ triều của ham muốn đã nhiều năm bị đè nén và đang đến lúc nổ tung? Trong những năm 1989-1990, cả nước bàng hoàng thất vọng và kinh hoàng trước tội ác của những đảng viên biến chất, nhiều quan chức cao cấp của Đảng và của Nhà Nước đã hành xử như những băng đảng trộm cướp, đã nuốt nhiều tỉ đồng của công quỹ để thoả mãn ham muốn đê tiện của mình. Chưa bao giờ, dù dưới bất cứ chế độ nào, một vụ tai tiếng như thế lại có thể xảy ra, và Đảng phải đỏ mặt vì xấu hổ và đen như nhuộm bùn. Viên đạn bọc đường quả thật đã chơi trội việc giáo dục chính trị.

Ngày 10 tháng 10 năm 1954 đúng 10 giờ sáng, lực lượng Kháng Chiến trọng thể tiến vào Thủ Đô. Dẫn đầu là đoàn quân với những lá cờ tung bay với tiếng trống liên hồi. Những cán bộ đứng trên những chiếc xe tải vẫy tay chào đồng bào đứng đầy hai bên đường đang hô to những tiếng vui mừng, phất phất những lá cờ nhỏ. Tất cả hai bên nhà phố đều trang trí và niềm vui không tả trên ánh mắt của từng người dân. Từng chặp, đoàn quân phải ngừng lại để nhận những vòng hoa của từng đoàn thiếu nữ mang tặng. Sự nồng nhiệt của dân chúng đã lên đến cao độ, thật chân thành và nồng hậu. Kể cả những người mà con tim còn đang nhịp nhẹ những tiếc nuối với người chủ hôm qua, tất cả đều chuẩn bị đầy đủ cho một cuộc găp gỡ dễ thương bằng sự rộng rãi và lịch sự, họ vỗ tay hoan hô những người đã làm nên chiến thắng Điện Biên Phủ: chiến công của họ khơi động lại niềm hãnh diện của người dân Việt và phục hồi lại danh tiếng cho nước nhà.

Trong hai tuần đầu, tất cả cán bộ đều được lệnh không ra khỏi nơi đang cư ngụ. Chúng tôi không biết được lý do tại sao. Có phải đây là vì vấn đề an ninh? Không kể những viên đạn bọc đường mà mọi người cho rằng có thể phá vỡ sự trong sáng của những con người kháng chiến sau nhiều năm được cải tạo, thì có phải chăng vì sợ súng đạn của những kẻ quá khích hay gián điệp có thể mang đến những cái chết vô nghĩa cho những người mà Đảng đã mất hàng chục năm để đào tạo và đã biến họ thành những người Cộng Sản trung kiên? Hay đã có những ý nghĩ kỳ quặc đang manh nha trong đầu của vài lãnh đạo đang nắm quyền và họ chỉ muốn thuộc quyền tuân phục một cách mù quáng? Mặc kệ lý do gì! Có chuyện lo bảo vệ an toàn hay chỉ là một nhắc nhở là chúng tôi chỉ là những con chốt tầm thường trong tay của những người lãnh đạo, chúng tôi đều cúi đầu phục tùng cho bạo chúa phán lệnh lúc nào phải hành động y những con rô bốt mà chẳng biết bận tâm suy nghĩ tại sao. Trong khi chúng tôi có thể về thăm nhà ở Hà Nội để có chỗ nơi ăn ở đàng hoàng, giường êm nệm ấm thì chúng tôi phải nằm trên sàn trần, cuốn mình trong những tấm chiếu không khác gì những tử tù đang chớ ngày đút đầu vào máy chém… Chúng tôi tiếp tục sống đời kham khổ kỷ luật như những người Spartan như những năm bí mật kháng chiến; khi bữa ăn kết thúc, chúng tôi lại xếp hàng rửa bát bên vòi nước. Thật ra đâu cần thiết phải đối xử bất nhân kéo dài thêm hai tuần xa cách cho những người đi kháng chiến đã hơn mười năm chưa gặp lại gia đình? Chỉ còn thêm vài trăm bước đường nữa là mọi người trở về đã có thể ôm lại cha mẹ anh em và trao cho nhau những giọt nước mắt mừng tủi sau những năm xa cách mà tưởng như thiên thu. Có phải chăng người Cộng Sản là những anh hùng mà mắt đã không còn lệ, mà trong tim tình cảm gia đình đã biến mất, linh hồn đã bị huỷ diệt bởi một niềm tin điên cuồng vào một học thuyết chủ nghĩa hay một tôn giáo? 

Về phần mình, một mặt lòng tôi rộn rã vui sướng được đặt chân trở lại thành phố nơi tôi sinh ra, nơi mà những kỷ niệm đầy nhớ mong đã bám chặt lấy tôi suốt những năm xa cách; một mặt khác, lòng tôi lại héo buồn vì không được quay về nhà trong giờ phút đầu tiên để gặp lại cha mẹ già đang khắc khoải chờ mong gặp lại đứa con trai lớn đang ra vào hiểm nguy mà không cần tranh cãi chi đến đến chuyện nó ra đi là có cần thiết hay chính đáng không.

Điều không vui của tôi kết thúc khi tôi được phân công về nhận trường Luật. Ngay sau khi buổi lễ bàn giao chấm dứt là tôi chạy bay về nhà gặp lại mẹ cha chảy những giòng nước mắt khi thấy con mình còn sống trở về.

Ngày kế, tôi tập họp toàn thể nhân viên trong phòng giám đốc, một căn phòng lớn mênh mông ở phía phải đầu trên cái thang lầu to tướng, đối diện với cái giảng đường to mà hơn mười năm trước tôi vẫn hay đứng giảng bài cho sinh viên hay thuyết trình trong những buổi hội nghị cho mọi người.

Tất cả ban giảng huấn đều biến mất ngoại trừ ông Đào Bá Cường, tất cả đã chọn con đường ra nước ngoài hay quay ra hành nghề luật sư. Tôi chỉ còn lại ba cô thư ký và một lái xe hãnh diện là đã giấu và giữ lại được một chiếc xe thoát khỏi tay cảnh sát của Thực Dân. Trong khi chờ đợi quyết định tổ chức lại hay giải tán trường Luật, chúng tôi chẳng có nhiều việc để làm, nhất là sau khi đã xếp lại thứ tự cho Thư Viện, xếp vào kệ bộ sách Luật Dalloz-Sirey toàn tập mà khối lượng sách đã từng nhiều lần làm tròn xoe mắt của dân không chuyên ngành[1]

Tôi đã phải mất công kéo giờ có mặt của các cô thư ký xuống hai giờ mỗi ngày, bởi “tập thể” – tên mới mà những người cộng sản dùng – không thể ngồi đó lâu hơn vì chả lẽ cứ ngồi đó mà ngáp và không làm gì cả cho hết ngày? Vì vậy, để tránh khỏi sinh ra ức chế vì cả ngày không việc gì làm, những ngưởi cộng tác với tôi yêu cầu tôi khai tâm cho họ về chủ nghĩa Maxist. Không có gì làm họ khó chịu bằng phải nghe những điều đần độn về chủ nghĩa Marxist vả những cái ngạo mạn chỉ đáng cho cái tát vào mặt. Tôi bảo đảm cho những người nghe là nhiều kẻ nói về Marx nhưng chưa lần nào đọc về Marx, hoặc nếu có cơ may đọc được vài đoạn trong cuốn Tư Bản Luận thì họ cũng chả hiểu chi. Chứng cớ là những người Marxist dày dạn đã phạm những sai lầm ghê gớm gây khổ đau cho dân tộc, kéo theo sự nghi ngờ về sự hiểu biết của họ về cái học thuyết mà họ đang theo.

Khi mà tôi không có một mảnh bằng hay đạt một trình độ nào về học thuyết Marxist, tôi cảm thấy không thoải mái khi can thiệp vào lãnh vực chuyên môn của các Tiến Sĩ về chủ nghĩa Marx. Tôi cố gắng giới hạn trong việc thoả mãn trí tò mò của mấy người cộng tác. Tôi trình bày vấn đề bằng cách đặt ra những câu hỏi mà họ có thể dễ dàng trả lời. Nhờ đó qua cách gợi ý tôi đã chuyền cho họ một chút hiểu biết về chủ nghĩa Maxist qua hơn mười năm trong kháng chiến. Tôi nói rõ ràng với họ là hiểu biết về chủ nghĩa Marx của tôi chỉ là một tẹo nhưng cũng đủ để lật mặt nạ những kẻ dốt hay nói chữ như Trissolin[2]hay tháo gỡ những sai lầm do những người Marxist có bằng cấp. 

Thời gian trôi qua. Đảng vẫn chần chừ trì hoãn quyết định đóng hay mở Trường Luật. Tôi hiểu những ngập ngừng này. Trong nhiều năm làm việc ở các cấp Toà Án và làm luật sư chỉ định của Chính Quyền, và nhờ việc phải theo dõi tiếp xúc thường xuyên với những cán bộ có trách nhiệm, tôi có dịp quan sát thấy sau cung mê tiềm thức của họ là một sự hãi sợ tột đỉnh về Luật Pháp. Xưa kia, trong thời hoạt động bí mật, những người đi làm cách mạng đã có những ngày đen tối với chế độ xử án của Thực Dân và những quan toà của nó. Vì vậy, họ kết bè với nhau với những ngày hy sinh và cực khổ trong hệ thống xét xử mà họ cho rằng đó là công cụ kềm kẹp trong tay của bọn tư bản. Tuy nhiên nếu họ chịu đào sâu tìm hiểu về hệ thống pháp lý và các bộ Luật của Liên Xô, thì họ sẽ thấy những công cụ trấn áp quần chúng lao động cũng hoàn toàn có thể biến thành những phương tiện bảo vệ Nhà Nước và Cách Mạng chống lại giới tư sản phản động. Họ chỉ cần thay người và mục tiêu.

Nhưng theo tôi, người cộng sản ghét pháp luật có một lý do sâu xa hơn. Có nhiều quan điểm thật khác nhau giữa những con người làm chính trị và những con người chăm lo Luật Pháp, họ khác nhau về thói quen tâm lý và khác nhau cả về tư duy. 

Chính trị là một lãnh vực mà mọi biên giới đều mờ nhạt mà một người có thể vượt ngang qua không chiếu khán và thường khi không biết luôn cả việc có biên giới hay không. Đó là một vùng đất đầy những đồi cát mà gió có thể làm biến dạng tuỳ thích, có những đầm lầy cần phải tránh để khỏi một cái chết bị ngập lún. Đây là nơi mà sự nhập nhằng là kẻ chiến thắng. Cái không chính xác về hành động và ngôn ngữ đã tạo cơ hội cho những diễn dịch khác nhau, nhiều khi mâu thuẫn lẫn nhau. Kẻ phải phiêu lưu vào đó phải tránh chuyện logic, sự sáng sủa và chính xác, chỉ phải nghĩ đến những việc ở thời hiện tại mà quên đi những gì liên hệ đến quá khứ hay tương lai, phải gạt bỏ những chuẩn mực đạo đức hay tình cảm và trên hết thảy, phải hành xử với một thái độ cơ hội chủ nghĩa sắc bén và linh động. 

Vùng đất của Luật Pháp, ngược lại, được bao bọc bởi núi và sông như những đường ranh giới tự nhiên. Ở đây chỉ có cái chặt chẽ của hình học, của logic thuần lý, sự chính xác của phép tính theo tinh thần Descartes và của một sự rõ ràng minh bạch. Giữa sự hợp pháp và bất hợp pháp là một đường phân rõ ràng như giữa trắng và đen. Ngôn ngữ của Luật thể hiện những ý niệm, ý kiến, định nghĩa từng nội dung và không chấp nhận những vùng khuất trượt lướt chung quanh, những lập lờ chữ nghĩa, những giải thích đầy phù phép và lừa gạt đưa ra. Những tranh luận về Luật kéo theo những đụng độ về ý kiến nhưng phần thắng luôn đến từ những lý luận đặt cơ sở trên nguyên tắc của Luật Pháp, trong những bài viết không còn những từ ngữ rỗng tuếch và còn tranh chấp đúng sai trong cái sự thanh thản của biện chứng, dưới ánh nắng lạnh lùng của lý trí.

Vì thế, sự đối kháng giữa chính trị và luật pháp là không thể nào giải quyết được. Trong khi nhà chính trị muốn khẳng định chủ nghĩa duy ý chí thì nhà Luật học lại chiếm ưu thế về sự hợp lý. Một phe thì luôn đặt vấn đề một cách cụ thể, phân tích từng yếu tố của sự việc, xem xét những tương quan và những tác động qua lại, tìm chọn tất cả những giải pháp để rốt cuộc chọn lấy giải pháp tối ưu và có lợi nhất, và dùng tất cả quyền hành trong tay để thực hiện nó. Loại người đó không hề bị ràng buộc bởi bất cứ nguyên tắc, nghĩa vụ hay niềm tin nào. Họ tự do như những con ngựa hoang trên cánh đồng cỏ mênh mông, tàn phá như những cơn bảo hung tàn đang giật tung những mái ngói và nhận chìm những con tàu chìm sâu vào lòng biển khơi. Dựa vào hoàn cảnh thuận lợi, nhà chính trị đã chơi xả láng con chủ bài của mình và biểu thị một lòng ham muốn vô giới hạn. Nhưng cơ hội của họ lại va chạm đến tính cứng nhắc của hệ thống tư pháp và những qui điều trong Luật. Vì thế họ muốn quét bỏ hệ thống tư pháp và nhảy xổm lên trên Luật Pháp; nhưng dầu thế nào họ cũng đã có một nền tư pháp đang ngủ yên và quên lãng trong Kháng Chiến, nơi mà chính phủ chỉ nói chuyện với cỏ cây thú rừng khi mà những người theo kháng chiến với tấm lòng yêu nước và chỉ lo thi hành bổn phận, không dám quấy rầy giấc ngủ của lãnh đạo.

Nhưng tất cả đều trở nên xáo trộn sau ngày trở về Hà Nội. Ở đây là thái độ một thành phố thu mình không còn nhộn nhịp và ngay sự yên tĩnh cũng gây khó chịu cho chính quyền mới. Thái độ như thế biểu dương một tinh thần tôn trọng Luật Lệ. Bất cứ khi nào quyền lợi của họ bị xâm phạm, lập tức người dân đến gõ cửa Luật Sư và Luật Sư Đoàn như những thành trì của công bằng và Công Lý. Để chứng tỏ thiện chí, chính quyền cộng sản đã không thấy gì trở ngại để giữ lại Luật Sư Đoàn khi mà những Thẩm Phán xử án đã được thay thế bằng những người do Đảng đào tạo và giáo dục, và chính những người này là những người quyết định kết quả của mọi vụ án. Sau ngày tiến vào Hà Nội, trong khi những chuyện có tính nội bộ như thế có thể giải quyết dễ dàng, thì ngoài những nước anh em, Việt Nam còn phải nối quan hệ với các nước tư bản. Những nước này là những nước thượng tôn Pháp Luật và chỉ chịu ký kết những hiệp định phù hợp với khung pháp lý. Bên cạnh đó, những định chế quốc tế hay những tổ chức nghiên cứu rất kỷ về Việt Nam, họ có khả năng giúp Việt Nam hưởng những trợ giúp của họ và đồng thời cũng quy trách được nếu Việt Nam phạm những sai lầm. Bằng con đường quốc tế, những quy điều của Luật đã mạnh mẽ đi vào Việt Nam và nhà cầm quyền bắt buộc phải quan tâm đến.

Sau Điện Biên Phủ, ai cũng biết rằng Hiệp Định (Genève) chia đôi Việt Nam ra thành hai phần: phía Bắc do Nhà Nước Cộng Sản nắm, phía Nam do chính quyền thân Mỹ Ngô Đình Diệm nắm. Mặc dù rất đúng Luật về mặt hình thức, Hiệp Định Genève đã xâm phạm quyền của một dân tộc từ ngàn xưa đã luôn luôn sống trên một Đất Nước duy nhất. Từ rất sớm, khởi nghĩa vũ trang đã được tổ chức trên cả vùng chống lại nhà cầm quyền, khởi đầu cho những bước thống nhất Đất Nước. Để phản công, nhà cầm quyền phía Nam đã bắt cầm tù một số trí thức như Luật Sư Nguyễn Hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông, kết án họ là những người cầm đầu cuộc nổi dậy, và tiến hành việc đàn áp đẫm máu những người mà họ cho rằng nuôi dưỡng những khuynh hướng nhằm thống nhất Tổ Quốc.

Chính nghĩa thống nhất Đất Nước phải được biện hộ trước diễn đàn quốc tế; dư luận quốc tế phải được thông tỏ chuyện gì đang xảy ra ở miền Nam Việt Nam. Năm 1956, Hiệp Hội Luật Gia Dân Chủ triệu tập hội nghị thế giới ở Thủ Đô Bruxelle của Bỉ. Trước cơ hội thật lớn lao đó, nhà cầm quyền (phía Bắc) liền tổ chức một đoàn đại diện để đi tuyên truyền cho chính nghĩa của mình. Trong cương vị là Chủ Tịch Luật Sư Đoàn và là Phó Chủ Tịch Hội Luật Gia Việt Nam tôi được giao phó làm trường đoàn, cùng với Luật Sư người Công Giáo Nguyễn Huy Mân là Hội Thẩm, đồng thời là Chủ Tịch Toà Án Quân Sự và cũng là một quan chức cao cấp của Đảng. Nhiệm vụ của chúng tôi là làm sao được Hội Nghị đưa ra nghị quyết ủng hộ Dân Tộc quyền đấu tranh để thống nhất Đất Nước. 

Khi chiếc máy bay Sabrina (Tây Ban Nha) đáp xuống phi trường cũng vừa lúc hoàng hôn. Một thư ký Hôi Nghị đón và đưa chúng tôi về khách sạn. Sau khi tắm rửa và thay quần áo, chúng tôi xuống phòng ăn rộng mênh mông và lộng lẫy sáng chói. Tất cả những chiếc bàn tròn được phủ những chiếc khăn không một vết nhơ trang trí với những bình hoa đều có khách ngồi. Chúng tôi là những kẻ đến sau cùng để chiếm cái bàn duy nhất còn lại. Sau bữa ăn, chúng tôi vào phòng khách và được một đoàn tiến gần tiếp cận: đó là đoàn của Bắc Triều Tiên. Chúng tôi làm quen thật nhanh chóng, hai đất nước chúng tôi có số phận giống nhau.

Đoàn chúng tôi chia nhau mỗi người đi gặp một đoàn bạn để tranh thủ cảm tình cho chính nghĩa của mình. Cá nhân tôi, tôi đã tìm gặp ông Chủ Tịch Luật Sư Đoàn Bruxelles và thảo luận với Chủ Tịch Đoàn của Đại Hội nhằm đưa vào nghị trình vấn đề của chúng tôi. Họ từ chối một cách rất lễ độ là chương trình đã đầy không còn thời gian trống, và hơn nữa Hội Nghị đã định cho mình sứ mạng gìn giữ Hoà Bình và không ủng hộ bất cứ một cuộc khởi nghĩa võ trang nào, dù là có chính nghĩa. Tôi vẫn không mất can đảm, vẫn tiếp tục tranh thủ những trưởng đoàn các nước, những người mà tôi cho rằng là có trình độ trí thức cao, những người mà tôi cho rằng có một ảnh hưởng nhất định, là việc đưa vấn đề cực kỳ thiết thân của chúng tôi vào nghị trình là một việc cần thiết. Những cố gắng ấy cuối cùng cũng được đền đáp bằng một thành công thật may mắn: vấn đề của Việt Nam được đưa vào nghị trình nhưng được sắp vào lúc cuối cùng của Hội Nghị. Chúng tôi thật nản lòng. Kinh nghiệm những hôi nghị quốc tế như thế này, càng lúc vào phút cuối, phần lớn các đoàn là đã tranh thủ lo vé máy bay, sửa soạn hành lý đề đi về. Quả thật chúng tôi thật nặng lòng và buồn phiền chờ buổi kết thúc hội nghị. Chắc chúng tôi tham dự Hội Nghị lần này là mất công toi. Chúng tôi phải ăn nói ra sao với lãnh đạo đây?

Một bất ngờ đã xảy ra. Sau khi bài tham luận chót được đọc thì đoàn Việt Nam được mời lên điễn đàn. Chúng tôi thật tình không chờ đợi một cử chỉ lịch sự như thế vào lúc chót. Tôi liền lên bục ngay sau khi Chủ Toạ Đoàn loan báo hội nghị được kéo dài thêm mười lăm phút. Lòng tôi thật vui sường và tim tôi đập loạn xạ… Bằng giọng nói đầy xúc cảm, tôi bắt đầu trình bày luận đề.

Đấu tranh, dù là có vũ trang, với mục tiêu loại bỏ sai quấy hay trừ bỏ bất công, đàn áp, hành động man rợ, hay để loại bỏ những chướng ngại ngăn cản sự tiến bộ của hoà bình là cái mở đầu, là giai đoạn đầu tiên cho một ngày kiến tạo và gìn giữ hoà bình. Danh ngôn của Hy Lạp đã nói muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh. Phải chăng là không có mâu thuẫn giữa chiến tranh và hoà bình, khi mà chiến tranh xâm lược đã giết chết hoà bình, mặt khác, chiến tranh có chính nghĩa là để giành được hoà bình, gìn giữ và bảo vệ nó. Chỉ có kẻ ngây thơ và trẻ con mới tin rằng chiến tranh là đối ngược với hoà bình, là hai mặt đối kháng lẫn nhau không thể nhân nhượng như thể giữa đêm và ngày. Ai có thể chấp nhận một quan điểm mơ hồ như thế? Tôi đã mang hết những lý lẽ tình cảm, chủng tộc, lịch sử, ngôn ngữ, kinh tế và xã hội để vận động cho chính nghĩa của Dân Tộc Việt Nam. 

Trong phần kết, tôi trình bày với người nghe bằng những ý như sau: “Thưa các bạn Ba Lan và Hung Gia Lợi, mới ngày hôm qua, các bạn đã đau khổ nhìn quê hương bị chia năm xẻ bảy; thưa các bạn người Hàn và người Đức, các bạn cũng đau đớn chịu nỗi bất hạnh như thế. Nhưng các bạn may mắn hơn chúng tôi là không phải thấy với chính mắt mình những nét mặt đau đớn, được nghe tận tai tiếng thét của những người, có cùng dòng máu chảy trong huyết quản, có con tim cùng chia sẽ những buồn vui với bạn, phải quằn mình đau đớn dưới bàn tay của những kẻ đao phủ.”

“Tôi không biết, trong số những người đang nghe tôi ngày hôm nay, có ai đã, vì bó buộc của nghề nghiệp, phải tận mắt chứng kiến cảnh thân chủ của mình bị hành hình. Đó là thời Thực Dân chiếm đóng. Toà Án Hà Nội đã chỉ định tôi làm Luật Sư bào chữa cho một tên cướp biển người Hoa bị án tử hình, ngưởi này ở vịnh Hạ Long đã giết hơn mười hành khách trên một chiếc tàu. Tôi được chỉ định bào chữa cho hắn và phải có mặt khi hắn bị hành hình. Bản mặt hung ác của nó không làm ai cảm tình, nhưng ánh mắt cuối cùng khi hắn đút đầu vào máy chém làm tôi thấy tôi nghiệp. Tôi nhìn nơi khác khi lưỡi dao rớt xuống cắt gọn ngang cổ hắn. Một dòng máu phụt ra, cái đầu rớt một bên, cái thân một bên rớt vào cái hòm với đầy mạt cưa”.

“Thưa các bạn, cái máy chém đó, có từ thế kỷ trước. Nó chẳng những được dùng để chém đầu những kẻ phạm tội ác, mà còn dùng để chém đầu những người con yêu nước đang đấu tranh để thống nhất Tổ Quốc, để khủng bố dân lành và để trấn áp lòng yêu nước của họ.”

“Và cầu Hiền Lương với tên gọi mang âm hưởng tử tế như thế lại là cây cầu chia cắt Việt Nam thành hai miền, phải chăng đó là lưỡi dao nhọn đâm thẳng vào da thịt của người dân, chia tách gia đình ở hai bên bờ không thể nhìn nhau với con mắt đầy lệ. Giòng sông không còn là nước chảy mà mang trong lòng nó những giòng nước mắt của phân ly, những giòng máu của những người can đảm vượt sông để rồi ngã xuống bởi những viên đạn bắn từ những con Tàu tuần cao tốc. 

Các bạn đồng nghiệp thân mến, trong suốt thời gian hành nghề, chúng ta ít nhất đã một lần chứng kiến cảnh chia tay của một cặp vợ chồng. Trong buổi hoà giải đầu tiên ở Toà, chắc các bạn đã không bao giờ quên nét căng thẳng của hai cha mẹ, và hơn thế nữa ánh mắt sợ hãi và đầy nước mắt của những đứa con hết nhìn cha rồi lại nhìn mẹ, hết nhìn mẹ rồi lại nhìn cha, chúng cảm thấy đau đớn trước thảm cảnh chia lìa của mẹ cha, trước sự sụp đổ của hạnh phúc gia đình, bi kịch của một sự đau khổ đã quét đi một gia đình mà chỉ mới hôm trước đây chung sức xây đắp một gia đình đầy ắp tiếng cười vui, nhưng ngày mai đây, mỗi người sẽ ngồi khóc trầm lặng trong một góc của mình trước nỗi bất hạnh không thể nào cứu vãn. Làm thế nào người thầy cãi chúng ta lại có thể dửng dưng trước một gia đình tan vỡ, nhất là khi cái gánh nặng buồn đau lại đổ trên vai của những đứa con?”

“Hơn thế nữa, các đồng nghiệp thân mến, không phải chỉ có một gia đình bị tan vỡ mà hàng triệu gia đình đang kêu than và khổ não. Vĩ tuyến 17 không chỉ là một đường biên vô hình hay một đường chia tự nhiên của địa hình, mà là một làn sóng phóng đi những tiếng kêu van, trách móc và than khóc của hàng triệu người bị buộc phải xa lìa nhau mà không hề biết tại sao, sự tàn ác của những người đã bắt họ phải chịu đọa đầy vì cách chia và cô quạnh. Làn sóng đó cũng phát đi những tiếng uất hờn và hận thù của hàng chục ngàn người con yêu nước đã phải chết gục dưới làn đạn hay máy chém, duy nhất chỉ vì họ muốn sống trong một đất nước thống nhất, cho họ và cho người khác!”

“Tôi vừa phát âm lên một từ ngữ thiêng liêng: Hoà Bình. Chúng ta tập trung với nhau ngày hôm nay ở đây là để gìn giữ Luật Pháp và Hoà Bình. Nhưng ở Hội nghị này, người ta đã nhân danh Hoà Bình đó để từ chối ghi chuyện của Việt Nam vào chương trình nghị sự. Một vài đồng nghiệp, chắc chắn là rất thiện chí, lại quan tâm đến chữ nghĩa hơn là ý nghĩa sâu thẳm của hai chữ Hoà Bình, đã cho rằng mọi đấu tranh có vũ trang không thể được Hội Nghị ủng hộ vì chúng ta phải bảo vệ Hoà Bình. May mắn thay họ đã nghĩ lại đúng lúc và lương tri đã thắng: chúng tôi đã đứng đây, trên diễn đàn này để mong mọi người quan tâm sâu sắc và ủng hộ những cố gắng của Việt Nam chúng tôi nhằm kiến tạo Hoà Bình và thống nhất lại Tổ Quốc.”

“Chúng tôi thấu hiểu rõ ràng rằng, qua quá nhiều hy sinh mất mát trong Thế Chiến Thứ II, chịu đựng tàn phá cùa bom nguyên tử, sống những ngày như sắp tận thế, nhân loại trở nên tê liệt vì sợ hải, lại càng cảm thấy nhu cầu khẩn thiết được sống trong Hoà Binh và lại càng muốn gìn giữ nó! Nhưng sợ hãi đã trờ thành nổi ám ảnh, mâu thuẫn giữa Chiến Tranh và Hoà Bình đã được đơn giản hoá, bình dân hoá và càng trở nên mù mờ, từ đó cái định kiến Chiến Tranh và Hoà Bình là hai mặt đối kháng lại càng được củng cố. Cách suy nghĩ đó đã cản trở lối suy nghĩ biện chứng cho thấy quan hệ qua lại hai chiều của chúng. Người bình dân thường hay bám vào vào những suy nghĩ hời hợt của vấn đế, họ cũng thường hay lập nên những rào ngăn không thể vượt giữa ngôn từ, chữ này chối bỏ chữ kia. Bổn phận của chúng ta là phải vượt qua cách suy nghĩ chỉ nặng phần ngữ âm và cú pháp, để đào sâu từng ý nghĩa sinh động trong nội dung từng câu chữ, nhận thức chúng qua thực tế cụ thể và sinh động. Chúng tôi lúc nảy có nói đến câu danh ngôn Hy Lạp “Si vis pacem, para bellum” [Muốn có hoà bình phải chuẩn bị chiến tranh], chúng ta không nên hiểu nó như cái gì gây hại, mà phải hiểu là không có lằn ranh giữa chiến tranh và hoà bình.”

“Chúng ta nhớ rằng năm 1938, ông Neville Chamberlain đã ký kết Hiệp Uớc Munich và tuyên bố rằng hoà bình đã được cứu vản! Sai lầm: hiệp ước đó chỉ là là một báo trước cho cuộc chiến xảy ra một năm sau đó! Ngược lại, một cuộc chiến với chính nghĩa và hợp pháp chống lại kẻ xâm lăng giành lại độc lập cho Tổ Quốc và tự do cho Nhân Dân, chấm dứt sự chia cắt hai miền, biến nước mắt vì khổ đau thành nước mắt của mừng vui là có phải chăng là một cuộc chiến báo hiệu cho một nền hoà bình công bằng, vững bền và thật sự, nó đoàn tụ những gia đình ly tán, chấm dứt việc khóc than của những kẻ vô tội, làm những nụ cười khô héo nở hoa trở lại trên môi, mang lại hạnh phúc và hy vọng cho trái tim, tìm được niềm vui của cuộc sống, được tái sinh trở lại như một con người. Trong ngôn ngữ của nhân loại, hay ít nhất là của chúng tôi, cuộc chiến đó tên gọi là Hoà Bình.”

“Không phải bổn phận của chúng ta, những Luật Sư Dân Chủ, là làm dễ dàng cho việc thiết lập nền hoà bình như thế trên thế giới bằng cách ủng hộ những cuộc đấu tranh để có một kết thúc thực mỹ mãn. Cho phép tôi được nêu vấn đề để mong quí vị quan tâm. Tôi hy vọng rằng khát vọng của dân tộc tôi sẽ không bị biến thành thất vọng và tôi hy vọng nhận được những giúp đỡ động viên của quí vị để giúp dân tộc tôi cống hiến nhiều hơn nữa”.

Những cố gắng đã mang lại thành công mỹ mãn và chúng tôi đã đạt được những gì mà dân tộc mong đợi.

Trên đường về nước chúng tôi đã được đoàn Sec mời ghé thủ đô Prague để dự vài buổi làm việc chung. Chúng tôi nhận lời.



Đối thoại với Luật Sư người Séc

Tiếng Pháp được dùng trong buổi thảo luận với Luật Sư đoàn, và vấn đề được bàn là một quan tâm rất lớn của giới Luật gia ở các nước Cộng Sản. Các bạn chủ nhà bắt đầu cuộc thảo luận.


- Trong một nước mà sự phân quyền được áp dụng, thông qua tổ chức các Toà Án, quyền Tư Pháp thi hành Luật và chế tài những kẻ phạm pháp. Nhưng muốn những sinh hoạt Tư Pháp được vận hành tốt và Luật Pháp được áp dụng, giới Luật gia phải hành nghề với tất cả lương tâm và trách nhiệm, vì thế bản thân họ không thể tự đứng ra bảo vệ quyền lợi riêng của mình mà phải nhờ đến sự can thiệp của Hiệp Hội Luật Sư, nhất là vào những khi họ bị chính quyền tăng cường áp bức trong một bối cảnh xã hội phức tạp, hay những khi xảy ra xung đột giữa các hội viên với nhau. Vấn đề nêu ra là để thấy là: chúng ta có cần một sự cho phép của những giới chức chính trị để được hành nghề Luật Sư hay không?

Tôi đang ở vị thế mà tôi có thể thoả mãn sự tò mò của các bạn. Ở Pháp, năm 1931, khi tôi tuyên lời thề trước Toà Phá Án ở Monpellier, họ không hề đòi hỏi bất cứ hình thái cho phép nào. Để hành xử một nghề tự do, chuyện xin phép một thẩm quyền nào đó là một điều đáng nực cười vì nó đã đánh mất quyền tự do của người này. Ngay cả chuyện quốc tịch cũng không là vấn đề, ít ra là cho những người là công dân của Pháp. Chỉ có hai đòi hỏi duy nhất: một là phải tốt nghiệp một Trường Luật, để nói rằng là đã có một trình độ hiểu biết Luật Pháp tối thiểu và điều thứ hai là chưa một lần mắc tội hình, một lần nữa để nói rằng mình có một đạo đức tốt.

- Rất có lý. Nhưng tại sao ở những nước Cộng Sản, nhà lãnh đạo chính trị cho rằng họ phải nắm Hiệp Hội Luật Sư và cho rằng chúng ta, những người hành nghề phải tuỳ thuộc nơi họ?

Điều đó có thể giải thích được. Ở một nước Cộng Sản, Đảng tuyệt đối độc quyền chính trị, nắm giữ mọi quyền hành; theo chủ nghĩa Cộng Sản giai cấp nắm quyền không bao giờ san sẻ quyền lực cho bất cứ ai khác. Để mãi mãi nắm quyền, hưởng mọi đặc quyền, kéo dài đến vô tận, khai thác đến tột cùng của chiều sâu; nói một cách gãy gọn, đây là một chế độ chuyên chế ở ba chiều không gian, một chế độ chuyên quyền gần như tuyệt đối, gian xảo nhất, cứng rắn nhất trên thế giới và trong lịch sử nhân loại. Dưới một chế độ như thế, quyền tự do là một lầm lẫn, một loại bệnh hoạn cần phải loại bỏ trong dân chúng. Vì vậy, không bao giờ có bất cứ loại ngành nghề nào là nghề tự do, không có nghề Luật Sư, không có nghề Bác Sĩ mà chỉ có những người là nhân viên làm việc và ăn lương của Nhà Nước, phải nhanh chóng thi hành lệnh của họ. Khi mà Đảng và những người chóp bu không thể có mặt ở mọi lúc mọi nơi để hành xử quyền tuyệt đối của mình, họ bắt buộc phải nhờ vả đến những người có khả năng, mà khả năng nếu có, chỉ là khả năng tuân chỉ người chủ của mình một cách mù quáng và tự động. Hậu quả là những người nắm giữ quyền hành từ cao đến thấp đều làm việc không với kiến thức hay khả năng cần thiết mà bằng sự thiếu sót về văn hoá và sự ngu dốt! Ở vài nước, Bộ Trưởng Giáo Dục chưa hề qua hết lớp Trung Học Phổ Thông, Bộ Trưởng và Thứ Trưởng Bộ Tư Pháp chưa hề học qua Trường Luật. Trong những hoàn cảnh đó, một Luật Sư Đoàn chân chính làm sao có thể hoạt động được? Bị lệ thuộc hoàn toàn vào nhà cầm quyền, Luật Sư Đoàn không thể sinh hoạt theo như truyền thống được.

- Chuyện xảy ra như thế nào?

Bước đầu, nhà cầm quyền chọn một số người để đưa vào Luật Sư Đoàn: đa số là những nhân viên hưu trí với một lương hưu chết đói và một vài người trẻ tốt nghiệp ở những nơi gọi là trường Luật do một số biết nói chuẩn tiếng Nga và đã học được một vài điều bóng bẩy của Hệ Thống Tư Pháp Liên Xô. Đám người này là những đầy tớ ngoan ngoãn cho Nhà Nước. Cùng lúc ấy, những người đau khổ để lộ một vài ý muốn độc lập thì bị loại ngay tức khắc khỏi Luật Sư Đoàn và bị mất phần lớn, nếu không muốn nói là tất cả thu nhập. Chỉ nội bao nhiêu đó cũng đủ làm cho họ trở nên cam tâm thuần phục.

Hơn nữa, cái tên là “kẻ bảo vệ nhân dân” gán cho họ cũng để nhắc nhở là họ không phải là những Luật Gia với những kiến thức về Luật đang hành nghề tự do, họ không có quyền hay có những phương tiện vật chất, để mở văn phòng tư. Họ là thành phần của một đoàn thể có một văn phòng là nơi làm việc và tiếp thân chủ. Thiên hạ bu những người cố vấn ấy như những con ruồi bu một tảng đường. Giá phí được định bởi Nhà Nước. Lối tổ chức này nhằm thoả mãn hai yêu cầu: thứ nhất, nguyên tắc làm việc tập thể được áp dụng như bất cứ nơi nào. Thứ hai, việc tập thể hoá là có lợi cho Nhà Nước; họ đưa người của họ và chỉ định Thủ Lãnh Luật Sư Đoàn, dĩ nhiên người này là một quan chức, hoàn toàn không biết chi về Luật nhưng lại là một tay cự phách trong việc điều hành, nhất là điều hành quân đội.

- Tại sao Đảng lại than van về Luật Sư Đoàn?

Thứ nhất, bất cứ nhà cầm quyền nào cũng bị điều kiện hoá bởi khuynh hướng chuyên quyền. Nhưng người Cộng Sản lại bị chuyện này hơn ai hết. Để áp đặt quyền thống trị mà họ rất biết đây là vấn đề hết sức tế nhị, chính quyền cộng sản đã sáng tạo ra muôn vàn thủ đoạn bằng cách đưa nhiều người ngoài vào tổ chức, có khi số người ấy lại nhiều hơn là người của chính tổ chức. Bằng cách trộn lẫn người trong người ngoài như thế trong một tổ chức quần chúng, Đảng kiểm soát họ dễ dàng hơn, hiệu quả hơn và gặt hái thành quả của một khối nhân sự mà trong đó có tay sai của mình. Những tay sai như Angus và Ceberus. Bên cạnh đó, bằng cách cấm cản người của họ dùng lý trí và ngôn từ, Đảng đã hạ họ xuống hàng động vật, nhồi nhét họ những phản xạ để biến họ thành những người máy. Chẳng phải không có lý do mà bà phù thuỷ Circé đã biến tù nhân của bà ta thành những con heo được phú cho tài năng duy nhất là biết nhảy qua chiếc máng ăn khi nhận hiệu lệnh. Tất cả các tay nắm quyền đều chung mơ ước là có được chiếc đũa thần của thầy phù thuỷ.

Nhưng, nếu Đảng áp dụng biện pháp khắt khe trên giới Luật gia, trước hết là vì họ là người trí thức và là đối tượng ghét hận của những kẻ chuyên quyền, vì Luật gia là người có cái đầu để suy nghĩ và có cái mồm để nói, hai thuộc tính gây ác cảm nơi kẻ cầm quyền, làm phức tạp cho công việc và gây xáo trộn cho kế hoạch của họ. Hơn nữa, trong giới trí thức, giới Luật gia lại càng nổi trội với kiến thức về Luật, thông thạo, thường nắm vững những hội nghị và những cuộc phê bình, và còn hơn nữa là họ có ý thức về tư cách, danh dự và trách nhiệm. Họ tự mình đặt vào vị thế tương phản với những con người máy khúm núm nịnh bợ với những kẻ chuyên quyền. Từ đó, trong khi tác nghiệp bảo vệ quyền lợi thân chủ trước các cấp Toà Hình Sự, rất thường khi, họ trở nên có thái độ khinh thường, ngay cả láo xược trong những lúc kình chống lại hệ thống Pháp lý của công quyền hay các cấp lãnh đạo chính trị. Đối với quần chúng, trong khi những nhà “bào chữa nhân dân” luôn vạn lần cúi đầu, thì giới Luật gia đứng thẳng trên tầm vóc của mình, gây sự chú ý và vì thế đã trở nên đối tượng bị ghét hận của giới cầm quyền. Họ theo mẫu mực của La Bruyère và chấp nhận đứng về phía của Nhân Dân.

- Có thể nói là giới Luật Sư là một thành phần riêng của thế giới người trí thức?

Thượng Đế lại phò trợ cho họ! Họ nắm những khuyết điểm của người Luật Sư là những người không chịu hy sinh, không nghĩa danh liệt sĩ, càng không muốn việc thay đổi chính quyền và thường là những kẻ cơ hội chủ nghĩa. Nhưng là người trí thức, họ lại là những người dân đầy tính dân chủ chảy trong dòng máu. Tôi nghĩ rằng tôi có thể khẳng định rằng Luật Sư Đoàn là một tiêu chuẩn của nền Dân Chủ, rằng ở nước nào tiêu chuẩn đó thắng thế và có một Luật Sư Đoàn chân chính hoạt động, nơi đó nền Dân Chủ chiến thắng. 

- Bạn hãy cho chúng tôi biết nơi nào có một thể chế như thế?

Rất dễ hiểu. Trong khi tác nghiệp, và có được quyền tự do ngôn luận, tức là tự do tư tưởng, người Luật Sư sẽ phản đối nạn chuyên quyền của nhà chức trách, sự bất công của hệ thống pháp chế. Bất cứ chế độ chuyên chế nào cũng không chấp nhập quyền lực của họ bị đặt vấn đề, chấp nhận những cái điên rồ của nền pháp lý của họ bị bóc trần. Chỉ có ở những nước Dân Chủ, người dân mới có thể thấy cảnh đó.

- Nhưng vần đề là làm sao một Luật Sư Đoàn với ý thức trách nhiệm của mình, gồng mình can đảm để thực thi Dân Chủ đồng thời làm cho guồng máy chạy?

Đây là một câu hỏi chính đáng! Luật Sư Đoàn chỉ có thể hoàn thành một cách có hiệu năng vai trò của mình càng nhiều càng tốt, duy nhất là phải có một nền Tư Pháp độc lập ghi rõ trong Hiến Pháp và Luật Sư Đoàn tự mình phải ý thức được trách nhiệm của mình. Toà Án phải là nơi dũng cảm cũng như là nơi của chính trực và liêm khiết, là nơi luôn luôn có quyết tâm mãnh liệt trong việc áp dụng Luật và Công Lý mà không dính đến những hệ luận về bổng lộc hay lợi ích cá nhân do tham nhũng đưa đến. Toà Án và Luật Sư Đoàn, với danh dự và phẩm giá như là hai đức hạnh đương nhiên, là hai cột trụ của một nền Dân Chủ.

Toà Án và Luật Sư Đoàn liên kết với nhau trong cùng một cái nhìn về những ràng buộc của nghề nghiệp, cùng một niềm tôn trọng với Luật Pháp và Công Lý.

- Nhưng ngành Tư Pháp chỉ chăm lo việc áp dụng Luật và trừng phạt kẻ phạm pháp. Nó chỉ tiêu biểu cho khoảng một phần ba của một nền Dân Chủ.

Vả lại, tự bản thân, nó bảo vệ cho nền Dân Chủ nằm trong một cấu trúc mà nó tham gia. Nền Dân Chủ mà “Chính quyền là của dân, do dân và vì dân” tự nó là tập trung trong tay ngành Lập Pháp nơi làm ra Luật ; và ngành Hành Pháp sẽ lo áp dụng Luật. Sự nguy hiểm sẽ xảy ra khi cả hai đều cùng cho rằng mình có quyền, với những đặc quyền riêng, được đứng trên Luật Pháp. Nguyên tắc cơ bản của một nền Dân Chủ là mọi người đều bình đẳng trước Pháp Luật. Hệ quả là ba ngành cùng tồn tại trong một tương quan “cân bằng và tự kiểm soát lẫn nhau”, tự cô lập mình trong một cách nào đó khỏi phải đi trật đường, rơi vào xa cách và vào cảnh bên lề, để giữ gìn cho một chính quyền vì dân và do dân. 

Như thế, việc chia ra làm ba ngành (Lập Pháp, Tư Pháp và Hành Pháp) đã ngăn chận những kẻ độc tài có cơ hội tập trung mọi quyền lực trong tay một người. Nguy cơ tổn hại về kinh tế, xã hội từ những thảm hoạ gây nên bởi sự độc quyền về chính trị, nói một cách chính xác, bởi những tay chóp bu, có thể được tránh khỏi hay có thể giảm đến mức tối thiểu.

Giới Luật Gia Séc rất kinh hoàng khi biết về sự can thiệp của chính trị và của những kẻ độc quyền vào lãnh vực Luật Pháp, về việc Đảng nắm hết chính quyền, cám ơn chúng tôi đã giúp xua tan những khổ tâm của họ. Trước đó họ thấy những tác hại nhưng không làm sao tìm ra nguyên nhân, lý do là họ sống trong một thế giới bưng bít, không hề nhận được một thông tin gì từ thế giới bên ngoài, mà chỉ thấy một dân chúng quỳ lạy suy tôn thần tượng và đồng ca những bài kinh cầu để vinh danh chủ nhân của họ. Họ thấy những tác hại một cách mập mờ rối rắm, nhưng lại không làm sao tìm ra giải pháp cho vấn đề. Ít ra, giờ đây họ đã thấy một chút đại cương về toa thuốc của cơn bệnh đang tàn phá đất nước mà họ là những người đang chứng kiến. Chúng tôi đã mở mắt và mang cho họ nét đại cương của một nền Dân Chủ. Chúng tôi đã đốt ngọn nến tò mò của tri thức, họ sẽ tự tìm thấy những kiến thức với những tìm tòi nghiên cứu. Khi chúng tôi lên đường, trong lòng chúng tôi mong mỏi rồi đây họ và nhân dân của họ sẽ được hưởng ánh sáng ban mai của nền Dân Chủ đang chói sáng về phía chân trời.

Đối thoại với Luật Sư Liên Xô


Ghé Moscova trên đường về, chúng tôi được đoàn Luật Sư Dân Chủ của Liên Xô đón. Tôi là trưởng đoàn nên được đưa vào khách sạn Metropole, đối diện với nhạc viện Bolchoï. Căn phòng dành cho tôi được trang hoàng lộng lẫy với những đồ xưa quý giá. Những ngọn đèn pha lê chiếu hắt trên những bàn ghế lộng lẫy thời Sa Hoàng, nhưng phòng tắm lại chiếu rực với những trang bị hiện đại. Một chiếc xe hiệu Zim Zis được dành riêng cho tôi sử dụng; tôi có thể ngả mình nằm dài trên chiếc ghế phía sau, tha hồ mà êm ái. Nhưng tôi cũng cảm thấy chiếc xe được lái tới 120 km một giờ dù rằng người tài xế tỏ ra rất kinh nghiệm và hoàn toàn làm chủ tay lái của mình. Nhưng, hắn thường nực mùi vodka….

Chúng tôi trở nên tò mò và ao ước được nghe những thông tin về những vấn đề quan trọng. Nhưng chúng tôi đành phải kềm chế sự tò mò vì lẽ chúng tôi biết rằng trong thế giới cộng sản, thật không đúng cách khi đặt những câu hỏi mà người đối thoại cảm thấy rất ngại ngùng khi trả lời. Luật im lặng được áp đặt cho họ cũng như cho chúng tôi. Vì thế, như thường lệ, chúng tôi tránh đặt câu hỏi, tự giới hạn mình vào việc nghe những báo cáo đọc đã được đọc đi đọc lại nhiều lần, những báo cáo chắc chắn đã được chỉnh sửa bởi những “người trách nhiệm” của Đảng. Ai cũng có thể nhận biết trước màu sắc, giọng điệu và nội dung của nó. Sau màn tố cáo chế độ Tư Bản thối nát là phần ca tụng những thành quả của chế độ Cộng Sản và, đặc biệt là phần một trăm phần trăm hoàn thành kế hoạch hằng năm và sau hết là phần vinh danh Đảng và các lãnh đạo. Nhưng lần này, phía chủ nhà Liên Xô đã phá lệ. Thứ nhất, không có màn báo cáo thành tích của Luật Sư Đoàn. Sau đó là họ đề nghị trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Hết sức kinh ngạc, chúng tôi tưởng như đã nhảy văng khỏi ghế ngồi. Đây là lần đầu tiên mà hai cụm từ Trách Nhiệm và Nhà Nước được gắn kề, trách nhiệm của Nhà Nước đã được nêu lên. Chúng tôi tự hỏi phải chăng những ý kiến của Đại Hội lần thứ XX của Đảng Bolchevik đang nhập cuộc và phải chăng ảnh hưởng của Khrushchev đang thắng thế trên đất nước Liên Xô. Mặc kệ, chúng tôi thật vui sướng khi được cùng các đồng nghiệp Liên Xô bắt đầu chung những điều tốt như thế. Không còn gì hấp dẫn hơn là được lướt đi trên con đường không giống ai và có vẻ dị hợm, con đường mà chỉ vài năm trước đây đã có thể đưa chúng tôi trực chỉ lên máy chém hay đi tù ở Siberia!

Người chủ nhà Liên Xô đón tôi với nụ cười. 

- Tôi thấy trong mắt của bạn chói sáng một sự ngạc nhiên. Vâng, rất đúng như thế: chúng ta sẽ trao đổi về Trách Nhiệm của Nhà Nước. Khi Stalin còn sống, đây là một chuyện cấm kỵ và người ta có thể bị nguy hiểm dù chỉ ám chỉ nhẹ nhàng đến nó: Nhà Nước không bao giờ chịu trách nhiệm về chuyện gì… Bây giờ thì chúng tôi bớt bị trói buộc và có thể, trong vòng giới Luật Gia, có thể bàn cãi khá nhiều vấn đề!

- Chúng tôi chúc mừng ông và rất vui vì điều ấy. Có thể nào, trong thời gian sắp tới, chúng tôi có thể được tự do và hoàn toàn được tự do phát ngôn trong những buổi thảo luận của chúng ta? 

Ngay cả ngày hôm nay, chúng ta được ở trong phòng riêng vắng những đôi tai bí mật muốn nghe những gì chúng ta nói, chúng ta thật có toàn quyền nói những suy nghĩ của chúng ta.

- Thật là một thời kỳ lạ, một thế giới kỳ lạ! Những Luật Gia lại cư xử như những kẻ âm mưu đang giấu mình khỏi cặp mắt của công an và gián điệp. Nhưng họ đang âm mưu vì Pháp Luật và Công Lý. Có những yếu tố giảm án nếu họ bị bắt và truy tố trước Toà Án. 

Hay đó lại là yếu tố tăng tội khi gặp phải ông quan toà cộng sản hề khoan nhượng và ai cũng rõ sự không khoan nhượng đó đã cấu thành từ sự khiếp sợ của họ đối với Luật Pháp và Công Lý. 

- Bây giờ chúng ta đang ở trung tâm của vấn đề đấy. Nếu một nhà nước cộng sản, cũng như trong thời kỳ quân chủ tuyệt đối, đều cho rằng họ không chịu trách nhiệm về bất cứ hoạt động của họ, thì việc của chúng ta còn lại là tập trung vào trọng tâm của vấn đề. Con người tự phân biệt mình với thú vật và cho rằng mình cao hơn thú vật là nhờ ở những đức tính mà chỉ con người mới có. Nhưng lương tâm, tư cách và danh dự lại liên hệ đến đạo đức và dính líu đến mỗi cá nhân. Mỗi người càng có nhiều đạo đức thì càng được nhiều người kính nể. Thiên Đường là nơi thiêng liêng nhưng nơi ấy thì con người không được mời đến. Trong đời sống xã hội, nơi mà người chung đụng với người, nơi mà những quan hệ xã hội được hình thành và tổ chức, mỗi người phải chịu trách nhiệm về suy nghĩ và lời nói của mình, phải giữ gìn cho chính bản thân, trong nghĩa là không gây tác hại về quyền lợi vật chất, thể chất cũng như tinh thần cho người chung quanh. Trật tự xã hội chỉ có thể được duy trì nếu mà bất cứ vụ phạm luật hay làm thiệt hại cho tài sản người khác đều phải bị trừng phạt và bồi thường. Như thế trong một thế giới văn minh, chính là cá nhân và những trách nhiệm của cá nhân là nền tảng để xây dựng xã hội.

Cái nguy hiểm thường trực treo trên đầu nhiều nhà nước trên thế giới là những kẻ bạo quyền luôn đặt mình trên nhân dân của họ, tự cho mình những đặc quyền do sự độc quyền mà họ nắm, tự cho mình trên cả Luật Pháp và tỏ ra vô trách nhiệm. Nói như thế là để nói rằng những ý tưởng và hành động của họ phải được thảo luận và phê bình, những lỗi lầm của họ phải bị trừng phạt.

Kẻ độc tài xem ra giống như vợ của Caesar: tuy không có chi để nghi ngờ, thế mà Messalina lại phải lang thang suốt đêm khắp thành Roma! Dĩ nhiên, không có tên độc tài nào lại chối bỏ những trách nhiệm mà hắn biết rõ là chỉ là những trách nhiệm của trẻ con hay của những người điên hay mất trí. Những khi đó, ngay đối với những chuyện không được ai nói đến, cũng không có nghĩa là không có chuyện gì xảy ra. Với một xuất thân ngu dốt, không văn hoá kẻ chuyên quyền không hề ý thức được những gì bất bình thường đang xảy ra. Để giành mọi đặc quyền cho mình, họ đưa ra luận điệu ưu việt: họ tán tụng đã liên hệ được với những người ngoài hành tinh, họ là “con của Trời”, họ là “người đã được chọn” hay tự cho mình là chính là Quốc Gia. Louis VIV đã tuyên bố “Quốc Gia chính là ta”. Bốn thế kỷ sau, trong một buổi nhận huy chương cao quý của dân tộc, De Gaulle đã tuyên bố “Quốc Gia không tự mình gắn huy chương cho mình”!

- Bằng cách chiếm hữu, một cách không tốn kém và cũng chẳng có chứng cớ chi, một gốc gác siêu phàm, một thực thể vô hình, bằng cách cho mình là Quốc Gia, kẻ chuyên quyền tự cho mình đứng trên dân chúng, và vì thế được miễn trách mọi trách nhiệm. Kẻ chuyên quyền cộng sản hãnh diện là những người duy vật vô thần thì không kêu rằng họ có nguồn gốc siêu phàm. Họ cũng chẳng cho rằng họ là Quốc Gia. Chỉ có lực lượng nhân dân đưa họ lên đỉnh của quyền lực. 

Rất thú vị nếu chúng ta cùng nhau phân tích tiến trình này, nó không giống như tiến trình nắm chính quyền như thời quân chủ chuyên chế. 

Vào thế kỷ 17, ở Pháp, do sự chia rẽ của giai cấp phong kiến và đồng thời cũng nhờ sự tham lam kinh hoàng của giai cấp tư sản đồng minh, nền quân chủ đã thắng phong kiến một cách khó khăn (phong kiến vẫn chưa thừa nhận sự thất bại), quyền lực như tù trên Trời rơi xuống. Biểu tượng “vua-mặt trời” chỉ là để chỉ sự khao khát của Triều Đình chứ không có nghĩa là Thiên Đàng hay Ý Trời. Vua Louis XIV tuyên bố “Quốc Gia là ta!” Nhưng, khi ông ta tự nhận mình là Quốc Gia thì ông ta không hề nhận là có trách nhiệm với nhân dân. La Bruyère và Fenneton tố cáo dân chúng nghèo khổ kinh hoàng nhưng nhà vua không hề cảm thấy có trách nhiệm cho hoàn cảnh đang xảy ra. Câu nói lịch sử mà ông ta nói là chỉ để giữ một ý đơn giản là ông ta sẽ dùng quyền hành mình để đập tan mọi mầm mống phiến loạn, tiêu diệt mọi mầm bệnh truyền nhiểm gây chia rẽ và làm tan rả sự thống nhất còn đang dao động của Đất Nước. Việc lên ngôi của vua Louis XIV được quy định bởi Luật của Triều Đình, nhưng cuộc xung đột chính trị với giai cấp phong kiến mà ông ta tiến hành lại được sự ủng hộ của nhân dân, của giới tài phiệt, giới tư sản trí thức và giới tư sản nghị viện. Nếu ông ta không phải là nạn nhân của những điều ngớ ngẫn vô ích của chính ông ta, nếu ông ta có những cái nhìn chính xác và gẫy gọn về những quyền lợi hiện tại và tương lai, ông ta đã phải dựa vào dân thì nước Pháp đã tránh được một cuộc Cách Mạng.

Đối với những gì liên quan đến Liên Xô, nhân dân đã thoát những ngày gian khổ vào cuối triều Louis XIV. Liên Xô đã hưởng vinh quang và sự vĩ đại của một cường quốc. Nhưng chỉ có Thượng Đế mới biết giá phải trả là bao nhiêu cho việc này? Sau cái chết của Staline, nhờ những hớ hênh ít nhiều được dàn dựng, và cũng nhờ những lời kêu than vì đau đớn, tiếng gầm uất hận của hàng ngàn hàng vạn gia đình, khắp miền Đất Nước, có con có chồng bị giết, bị tra tấn đến chết trong những trại, những lao tù ở Siberia, sự thật về Stalin đã được mọi người biết. Chính quyền cách mạng, vừa mới được xây dựng, còn đang chao đảo, và kẻ thù, trong và ngoài nước, chỉ mong nó chết đi. Cần thiết phải có một người với nắm tay sắt để lèo lái những bước đi, để sống còn và phát triển. Kết quả đã vượt qua những hy vọng. Từ một nước yếu kém, kinh tế yếu kém, chúng ta đã thành một sức mạnh quân sự đủ sức đánh bại quân phát xít Hitler và trở thành một trong những nền kinh tế dẫn đầu thế giới. Stalin xứng đáng được dân chúng tôn sùng vì đã được sống những giờ phút vinh quang của Lịch Sử Liên Xô. Bất hạnh thay, ông ta cũng phạm những tội ác kinh hoàng mà hồ sơ chồng chất năm này qua năm nọ.

Tiến trình nắm chính quyền của những kẻ chuyên quyền cộng sản ở Việt Nam lại là một tiến trình bình thường. Vô số quần chúng ở nông thôn, được kích động bởi một số người, vỡ oà ra hiểu rõ nỗi thống khổ của mình: bị bóc lột bởi phong kiến, bị đàn áp bởi thực dân… Ngày 19 tháng 8 năm 1945, dựa vào thế thuận lợi lịch sử của tình hình thế giới, mặt khác trận đói kinh hoàng đã giết hàng triệu sinh mạng, những người kích động dân chúng còn sống sót nổi dậy và tiêu diệt kẻ thù, chiến đấu mãnh liệt để chiếm lấy thức ăn và áo mặc. Mục tiêu rất đơn giản và rõ ràng, nhưng bọn chuyên quyền đã thất bại và không đạt được mục tiêu tưởng chừng như ít ỏi đó. Mặc dầu vậy, khẩu hiệu “Cơm ăn, áo mặc” cũng đủ biến giai cấp nông dân thành kẻ cuồng tín và biến họ thành những kẻ đi theo cách mạng. Vì thế, cách mạng thành công là nhờ lực lượng quần chúng. Nhưng phe cách mạng cảm thấy cần chính thức hoá sự thành công của mình bằng một cuộc bầu cử Quốc Hội. Không thành vấn đề nếu mà tuyệt đại đa số các đại biểu là thất học, không hề hiểu ý nghĩa của lá phiếu mà họ được mời tham gia. Họ đến tham gia Quốc Hội theo tiếng gọi của một đợt tuyên truyền rất chuyên nghiệp và đến bỏ phiếu thế thôi. Thủ tục hình thức Luật định đã được cứu vãn, nền “Dân Chủ” đã thành hình và những người làm Cách Mạng hả hê vì đã kết dính sự hợp nhất của họ với nhân dân. 

- Còn có những gì cần khác hơn?

Vẻ bề ngoài như thế là đủ. Nhưng có kẻ còn muốn vượt qua vẻ bề ngoài để cố gắng nắm cái thực tiễn. Dù không biết đọc, biết viết, nhưng người ta đã bỏ phiếu và diễn tả rõ ràng ước muốn của mình. Đây là chỗ hiểu lầm, mà như một số người đã nói, mà thảm cảnh bắt nguồn. Người Cộng Sản tưởng rằng đã chiếm được trái tim của nhân dân. Nhưng đó chỉ là một ảo tưởng mà dù sớm hay muộn họ phải dứt bỏ. Lý do hay nhất là, vào những năm 1945-46, có một số người mà con số không quá mười đầu ngón tay, từ Liên Xô hay Trung Quốc quay về nước với một mớ mơ hồ và không rõ ràng về chủ nghĩa Cộng Sản. 

- Nhưng người dân đã dùng lá phiếu để bầu cho ai? 

Người ta sẽ trả lời cho bạn là họ bầu cho ông Hồ Chí Minh, họ không bầu cho con người cộng sản đang giấu mặt kín bưng trong cuộc chơi và con người đó không hề đả động gì đến việc đấu tranh giai cấp, nhưng, với dáng dấp một nhà nho truyền thống, với chùm râu không thể thiếu, ông ta chỉ có một câu nói trên cửa miệng: “Đoàn kết, đại đoàn kết”, có nghĩa như ông ta đang đặt mình là người đối lập với đấu tranh giai cấp. Một vài lão thành cộng sản đã xì xầm là ông ta đã từng tự phê bình trước mặt Stalin! Trong bất cứ chuyện gì, tên Hồ Chí Minh đã trở thành bùa chú để chống tai ương và mang lại hạnh phúc. Tệ sùng bái cá nhân đã thành hình, ông ta đã được thần tượng hoá, tên ông ta được dùng khắp nơi, quyền lực của ông được xử dụng để đưa nhân dân vào thế là người có lỗi càng nhiều càng tốt [*]. Vì vậy, huyền thoại Hồ Chí Minh chỉ toả ra một ý nghĩa dân tộc và không cộng sản, trong khi Đảng, cố tình hay vô ý, kéo cả tấm chăn về phía mình và chiếm hưởng tất cả niềm tin của nhân dân.

- Đây là một sự lập lờ đánh lận con đen nhưng nó bi thảm ở chỗ nào?

Bi thảm là ở chỗ chính Đảng đã tự lừa dối mình, nghĩ rằng mình có thể đưa ra những đường lối chính trị trẻ con phát xuất từ bệnh ấu trĩ, duy ý chí, chủ quan, vi phạm những định luật của khoa học, quay lưng lại với thực tiễn, những chính sách này sớm hay muộn cũng sẽ đưa Đất Nước vào sự nghèo túng và đưa nhân dân vào sự đau khổ. Bên cạnh đó, với niềm tin cho rằng mình là vô địch, Đảng nghĩ rằng mình có thể áp chế nhân dân, chơi đùa trên sinh mạng của họ, buông lơi Luật Pháp, hành động với sự tàn ác vô nhân tính như đã xảy ra trong đợt Cải Cách Ruộng Đất, một kỷ niệm đau buồn không bao giờ quên được trong tâm khảm của người dân. Vì vậy, vấn đề quan tâm là trách nhiệm của Nhà Nước và chính xác hơn, là trách nhiệm của bọn chuyên quyền đã thống trị nó. 

- Một nghiên cứu về những kẻ chuyên chế trên thế giới trong lịch sử và qua thời gian đã cho thấy chúng có những nét chung không thay đổi mà chúng ta cần phải nhớ đến. Thứ nhất, ngay cả trong thời kỳ xưa kia của nền quân chủ chuyên chính, vai trò của nhân dân luôn luôn là quyết định, dù rằng họ không đóng vai nổi bật trên chính trường. Mọi cuộc đảo chánh, mọi cuộc Cách Mạng chỉ có thể thành công nếu được nhân dân đồng tình ủng hộ. Chủ nghĩa Marx nói đúng khi cho rằng lịch sử là do quần chúng làm nên. Những học thuyết chủ nghĩa, những lý thuyết đều phát nguồn từ bộ óc của cá nhân, nhưng hành động, muốn có hiệu quả, lại phải tuỳ thuộc vào khả năng và sức năng động của quần chúng. Chủ nghĩa Marx đã dạy điều như thế nhưng những tay chuyên quyền lại hay quên hay không để ý đến. Những tay chuyên quyền khi đã đạt địa vị thì quay lưng và tự cô lập mình và xa rời quần chúng, không còn lắng nghe tiếng nói hay lời than phiền, ước vọng của nhân dân. Chúng gây hại cho nhân dân, chúng bịt tai thành điếc nên không còn nghe lời than van hay đòi hỏi của nhân dân, và như thế họ đã tự giết cả chính mình.

Vì thế, cần phải biết rằng có một ràng buộc qua lại giữa kẻ nắm quyền và nhân dân. Một khi được nhân dân đưa lên đỉnh cao của quyền lực, kẻ nắm quyền phải có trách nhiệm lo cho quyền lợi của nhân dân, và trong mức có thể, họ phải làm tăng trưởng quyền lợi của nhân dân theo số lượng và chất lượng. Một thoả thuận hai bên giữa những kẻ nắm quyền và nhân dân, dù không bằng văn bản hay lời nói, nhưng dưới dạng hiểu ngầm, căn cứ trên những truyền thống lịch sử hay xã hội. Ngay khi những kẻ chuyên quyền vi phạm bổn phận của mình, gây hại cho quần chúng thì lập tức quần chúng được qưyền huỷ bỏ những ràng buộc về phần họ; kẻ chuyên quyền sẽ bị nhân dân trừng phạt và có thể bị nhân dân áp đặt án tử hình.

Hơn thế nữa, trong suốt thời gian nắm quyền, bất kể kẻ cầm quyền nào cũng thực hiện những chuyện tốt lẫn chuyện xấu. Nhưng dù đã thực hiện được nhiều chuyện tốt cho dân chúng họ vẫn không thể được miễn trách cho những chuyện xấu mà họ đã gây ra. Chỉ có nhân dân mới có cái quyền tối thượng đưa ra phán xét là giữa cái tốt và cái xấu cái nào nặng hơn cái nào. Nếu cái tốt thắng, thì cán cân nghiêng về phía kẻ nắm quyền, và họ sẽ được dân chúng biết ơn một cách chân thành, họ sẽ được đưa vào vinh quang của Lịch Sử mà con cháu đời sau sẽ luôn nhớ! Nhưng nếu cán cân nghiêng sâu về phía xấu, trong cuộc đời của họ, họ sẽ bị hạ bệ vứt đi, và sau khi chết, tên họ sẽ bị nguyền rủa muôn đời. 

- Trường hợp của Stalin là môt ví dụ điển hình. Ông ta đã thực hiện được một số lớn chuyện tốt nhưng đồng thời cũng làm một số lớn chuyện xấu. Nhưng không có ai dám chỉ trích những việc xấu mà Stalin đã làm vì cái nguy hiểm kèm theo rất cao. Cái tệ hại nhất là hồi ấy người đời tranh nhau ca tụng Stalin! Bây giờ thì công lý đã có cơ hội để vận hành những nguyên tắc mà dân chúng đã xây dựng qua những tháng ngày sống trong đắng cay và đau đớn. Từ nay trở đi, không có kẻ cầm quyền nào có thể đòi hỏi là những chuyện tốt họ đã làm có thể làm tan biến trách nhiệm về những tội ác mà họ đã để lại nỗi kinh hoàng trong tâm trí của người dân lương thiện. Đó là những trách nhiệm có tính hình sự. Có những tình huống làm nặng thêm hay làm giảm nhẹ tội, nhưng dứt khoát là không có chuyện miễn tội. 

Đây không phải là chuyện xử tội kẻ cầm quyền, mà là chuyện những con người phải trả lời về những tội ác mà họ đã làm. Nhưng, khi mà những sai lầm, hư hại phát xuất từ một chính sách hay đường lối chính trị, sự tàn phá có thể là gây ra trên bình diện rộng lớn và tan thương, trách nhiệm của kẻ cầm quyền vẫn được coi là chính trị… Không có gì đáng ngạc nhiên: trong bậc thang giá trị của con người, mạng sống là luôn luôn cao hơn những của cải vật chất mà họ nắm trong tay. Mặc dù vậy, đã có những người bị mất mạng vì sự cẩu thả, vô ý hay có khi vì chủ ý xấu của người hay một cơ quan của Nhà Nước. Dĩ nhiên, nếu người phạm tội một cách có ý thức, người này phải hoàn toàn chịu trách nhiệm về hành vi của họ trước Pháp Luật, nhưng rất nhiều khi họ không có tiền để bồi thường những thiệt hại cho nạn nhân hay trả tiền cho thân nhân của người bị chết. Nhà Nước phải chịu trách nhiệm một cách gián tiếp, dựa trên tính liên đới giữa kẻ phạm tội là người đã hành động trong khuôn khổ trách nhiệm được nhà nước giao phó. Nếu không, đó là một trách nhiệm tập thể của chính quyền đã gây ra thiệt hại trong khi thi hành một công việc mà Nhà Nước hay kẻ cầm quyền trao cho, đã vô tình gây thiệt hại vật chất cho một hay nhiều công dân, nhà nước phải bồi thường những thiệt hại do nhân viên của mình gây ra. Ở Pháp, nguyên tắc trách nhiệm hành chánh của Nhà Nước và của tập thể công nhân viên nhà nước là được công nhận. Có nhiều cấp Toà Án hành chánh mà cao nhất là Hội Đồng Quốc gia (Conseil d’Etat) mà quyền cao nhất là có thể huỷ bỏ một phần hay toàn diện những quyết định hành chánh nếu những quyết định này gây ra thiệt hại vật chất cho công dân. Rủi thay, tôi nghĩ rằng tôi sẽ không lầm khi phải khằng định rằng ở các nước Cộng Sản, Nhà Nước chối bỏ việc chịu trách nhiệm hành chánh, không hề tổ chức những Toà Án Hành Chánh có quyền xét xử Nhà Nước và những đơn vị hành chánh thuộc quyền của Nhà Nước. Vì thế có những vùng rộng lớn mà nhà cầm quyền hành xử như vợ của Caesar – theo ý thích và không sợ ai phán xét. Các cấp cầm quyền cấp dưới và dưới nữa lợi dụng tình hình này ra sức áp bức và khai thác nhân dân là những người mà họ tiếp xúc hàng ngày. 

Nếu lãnh vực vô trách nhiệm chính trị càng lớn hơn thì hậu quả lại càng không thể đo lường và sửa chửa được. Nhà Nước chỉ là bàn tay nối dài của Đảng và con người lãnh đạo Đảng chính là người đang nắm trọn quyền lực. Nhân dân không là gì hết, tiếng nói của họ đã bị bịt kín. Tất cả những bộ phận của Nhà Nước là gồm những con người của Đảng hay những người toàn tâm toàn ý với Đảng; tất cả cái giống người này chỉ có cái lưỡi gỗ và cái lưng cong cúi luồn với chủ. Trong những điều kiện như thế, làm sao có được những tiếng nói dấy lên để đòi truất phế và thay những kẻ bạo quyền, hay ít ra là để đưa ra những đề nghị, những ý kiến để làm đứng lại cái xe đang lao mình với tốc độ kinh hoàng về phía hố sâu của sự xấu? Mọi chuyện được quyết định từ hậu cung của Đảng, nơi Thần Bí nhất của Thiên Cung, bao quanh bởi một vòng thành kín bưng như Vạn Lý Trường Thành bên Trung Quốc!

Người ta không thể nói chuyện về trách nhiệm, về Luật Pháp đối với chuyện một con cọp đang sẵn sàng ăn tươi con mồi trước mặt. Chưa bao giờ trong lịch sử con người mà lưỡi tầm sét của Thần Zeus - tức cái búa của Thiên Lôi - cùng với cây gậy thần của Circé lại nằm cả trong tay của một người, làm thành một bộ máy thống trị và áp bức cực kỳ hoàn hảo, một bộ máy chuyên dùng khủng bố làm chất nhờn bôi trơn những trục máy! Hơn nữa, ít nhất là cho tới ngày hôm nay, chưa có một tên bạo quyền cộng sản nào đã bị nhân dân xét xử và kết án. Chúng nó chỉ chết trên giường. Nếu tiếng nói nghe được ngoài hành lang của phòng xác, thì không phải là tiếng nói để vinh danh mà là tiếng nói giành nhau xé cái xác lạnh lẽo kia, và có thêm chăng là những tiếng hét xem ai là kẻ sẽ thay thế vào chức của hắn.

Phân tích của chúng tôi đưa đến kết luận là bạo quyền không bao giờ chịu trách nhiệm về những hoạt động của họ trong cả ba ngành Hành Pháp, Tư Pháp và Lập Pháp. Phải hiểu rằng tình trạng vô trách nhiệm của những người chủ nắm quyền là do, trước nhất là những thủ đoạn tinh vi để kềm kẹp và áp bức của họ, thứ hai cũng phải kể đến tình trạng ù lì của dân chúng. Khi tiếng nói bị ếm nhẹm thì trong lòng trở nên sôi sục uất hận, nhưng dù thế, chưa có một ai dám chịu trách nhiệm với quê cha đất tổ mà giương cao ngọn cờ khởi nghĩa. Trong nhiều thế kỷ, người phương Đông đã quen sống trong một nồi hơi ép mà kẻ cầm quyền nắm giữ sức nóng và sức ép, đã thành công biến nhân dân thành những kẻ không còn nghị lực, trở thành lãnh đạm và dững dưng trước mọi thứ và mọi người. Tinh thần trách nhiệm là một thiếu sót lớn nhất trong quần chúng. Giới quan chức làm gương, lạm dụng quyền hành, phù phiếm, ăn cắp của công, tham nhũng và lạm quyền. Mẫu mực của quan chức này lại được các thuộc cấp noi theo. Trong các bệnh viện, có người bị chết chỉ vì không có tiền hối lộ cho những người được trả tiển và lẽ ra là phải có bổn phận lo cho bệnh nhân. Trong các kỳ thi và thi tuyển, đề thi được bán cho bất cứ ai chịu trả tiền. Mọi thứ đều có thể xảy ra. Tinh thần vô trách nhiệm như ngọn gió thổi trên toàn đất nước và kỷ lục của sự phạm pháp và sự vô liêm sĩ luôn luôn bị phá. Sự vô đạo đức cười nhạo sư vô tội và lương thiện. 

Sự vô trách nhiệm của giới cầm quyền, trong mọi lãnh vực chính trị lẫn hành chính, không phải là điều bất thường. Nó tròng lên xã hội vòng vương miện của sự dơ bẩn. 

- Chúng tôi đồng ý với bạn. Nhưng từ đó bạn muốn đi tới đâu?

Chúng tôi muốn nhấn mạnh là ác quyền không thể thắng mãi mãi. Chúng tôi không muốn mình là kẻ thầy bói hay nhà tiên tri. Nhưng cuộc đời đã dạy chúng tôi một bài học biện chứng: cùng tắc biến – từ cái xấu cái tốt sẽ đến. Bất cứ khi nào cái xấu đã đến tột cùng của nó thì tự nó sẽ làm phát sinh ra giải pháp trị bệnh cho nó. 

- Bạn hãy giải thích thêm để cho chúng tôi có lý do để hy vọng.

Không có gì là ma thuật ở đây. Các nhà cách mạng Việt Nam hô hào thúc đẩy nhân dân đứng lên tham gia kháng chiến vì đã làm cho họ thấy xấu hổ là đã không làm gì. Con giun sẽ quằn mình nếu bị ai giày xéo lên nó. Cho đến lúc nào con người, ngay cả kẻ hèn hạ nhất, vẫn còn tiếp tục còn chấp nhận bị phong kiến bóc lột và Thực Dân đàn áp? 

Những tiếng nói hô hào như thế quở phạt những người đang trùm chăn trong sự thờ ơ, hèn nhát. Hãy để lúc “chín muồi” đến. Như trận đói năm nào làm vương vãi những xác người chết đói đen kịn trên ruộng vườn và trên những con đường làng. Tất cả sự khốn cùng và sự chết đang ép lên những con người còn trơ xương thì họ sẽ đem hết sức tàn mà tấn công tận sào huyệt của phong kiến và thực dân. Cách Mạng đã ghi nhận một bàn thắng không thể chối cãi được. 

Tới đây, chúng ta có thể tựởng tượng rằng, sau một vài nhượng bộ, kẻ cầm quyền vẫn tiếp tục bám víu vào độc quyền chính trị và tiếp tục vô trách nhiệm, tiếp tục tự cô lập mình với quần chúng, đẩy sự khốn cùng lên đến tột đỉnh! Sẽ có lúc mà hàng triệu người sẽ không chịu ngồi đó khoanh tay mà cùng nhau tiến lên chống lại bạo quyền và độc tài. Chúng ta hãy nhớ rằng chính nhân dân là kẻ làm nên lịch sử, đưa lên kẻ cầm quyền và cũng chính nhân dân là kẻ sẽ hạ bệ kẻ cầm quyền đó. Khi mà Đảng không còn làm bổn phận của mình là làm cho dân, họ sẽ được đưa trở về vị trí ngày xưa bởi dân, những người đang lấy lại trong tay số mệnh của chính mình. Khế ước ngầm giữa nhân dân và kẻ cầm quyền từ nay xem như bị cắt đứt. Sự “đúng” đã chiến thắng không màu mè hoa ngữ hay bàn cải dài dòng vô ích… Sau chế độ bạo quyền, một chính quyền chân chính sẽ bắt đầu một ngày mới.

- Tuyệt! Đây là ý kiến nằm trong logic và chuẩn mực. Theo chúng tôi, vần đề có thể được nhìn dưới một góc cạnh khác. Cái góc nhìn của Luật nó có cái lý của nó. Nhưng cái nhìn của xã hội nó cũng không thể bị từ bỏ được. Như bạn đã biết, ở nhiều nước, nhiều chính thể giá trị đạo đức được nâng lên chin tầng mây. Đối với chủ nghĩa Tư Bản thối nát và đang dẫy chết với giới cầm quyền đầy tham nhũng, người làm Cách Mạng tự cho mình là hiện thân cho sự thiêng liêng, trong sáng trong suy nghĩ, tâm hồn không chút vẩn đục, cao cả trong đạo đức và nếp sống. Khuôn mặt tiêu biểu nhất cho con Tàu Cộng Sản là một Hồ Chí Minh huyền thoại với hai mảnh áo quần bằng Kaki bạc mầu và đôi xăng đan làm bằng lốp xe cũ. Thật vậy, giới vô sản đã tìm cách liên kết giai cấp nông dân vào chung mục đích, họ đã chơi cuộc chơi một cách công bằng ngay thẳng và đã đạt được hậu thuẫn của những người cùng chia sẻ điều kiện sống và cùng có chung niềm khát vọng. Đối với những kẻ làm ăn đủ sống, Hồ Chí Minh với chòm râu của một nhà nho truyền thống đã làm say mê họ và làm họ đi theo. Vì thế với cuộc tổng nổi dậy của mọi tầng lớp nhân dân, trong một khí thế hồ hởi mà Cách Mạng đã tiến hành cuộc đấu tranh và đạt được thắng lợi. 

Trong thời kỳ quá độ, những bộ óc biết suy nghĩ bắt đầu nhận chân rằng những người làm cách mạng mà tình yêu tổ quốc và chủ nghĩa anh hùng đáng được đề cao, lại không có đủ văn hoá và khả năng để đưa dân tộc lên một số phận cao đẹp hơn! Những thiệt hại to lớn do những lỗi lầm của họ gây ra đã làm người dân nghi ngờ về khả năng trí tuệ của họ, dù không bị huen ố, nhưng niềm tin của nhân dân về họ cũng đã bị giảm sút, niềm tin mà họ cần có để nâng cao tinh thần chiến đấu. Rủi thay, vì tình trạng không ai chịu trách nhiệm như thế đã mở cửa cho bao nhiêu vi phạm và tội ác; những quan chức của Đảng, với những chữ ký sinh ra vàng, đã để cho mình bị tiêm nhiểm những con vi trùng của tiền của, để tự mình ngày càng chìm sâu trong vũng lầy của tội ác. Những kẻ thuộc quyền, được khuyến khích bởi sự “bất bị quy trách” của xếp mình, trở nên những kẻ đồng loả, tập họp nhau thành băng thành nhóm. Thời sẽ đến khi mà Đảng vẫn còn tiếp diễn những ung nhọt như thế: họ sẽ không còn niềm tin yêu của nhân dân, niềm tin mà họ đã mất cả một thời gian dài mới có được. Đã thiếu văn hoá và khả năng, nay lại mất cả niềm tin yêu của dân là cái cơ sở lớn nhất để họ nắm quyền, một quyền lực mà họ có được là nhờ tư cách đạo đức và cũng sẽ mất nó vì nếu họ thành kẻ ác vô nhân. Khi họ trơ mình trước quần chúng như một người đàn bà đĩ thoã nghèo nàn và trần truồng, tôi ngại rằng họ còn có thể tiếp tục độc quyền chính trị. Cũng có thể lãnh đạo cấp cao không làm ác như những thuộc quyền, nhưng họ vẫn phải chịu trách nhiệm đối với những kẻ này, bởi những hành động của những người thứ ba, làm tan rả Đảng vì uy tín Đảng đã bị tan biến bởi những ngọn gió đầy cay đắng và khinh miệt thổi vào. Chừng nào mà con số phạm tội còn nhỏ, chừng ấy Đảng còn che đậy chúng dưới thảm dày để giữ được mầu trắng của sự trong trắng! Nhưng một khi tai tiếng đã trở nên thái quá, không còn giấu giếm được nữa thì Đảng sẽ làm kẻ điếc trước những than phiền chính trị. Đảng sẽ chọn sống xuống cấp trong im lặng thay vì bị nổ tung ra trước ánh sáng ban ngày với những vụ kiện mà uy tín của Đảng sẽ bị mãi mãi mất và thanh danh của Đảng bị huỷ diệt, từ cấp cao đến cấp hạng bét. Bất cứ chọn cách nào, Đảng cũng sẽ thất bại trên hai chuyện uy tín và thanh danh. Chính trị rồi đây sẽ nhường bước cho đạo đức, đạo đức rồi sẽ kéo theo sự can thiệp của Luật Pháp để chấm dứt một quá khứ đau khổ mở đầu cho một kỷ nguyên mà ánh sáng của lý lẽ và công bằng một lần nữa sẽ chiếu rọi với việc tái lập nền Công Lý và bảng tuyên ngôn về trách nhiệm của Nhà Nước và những ai đại diện nó. 

Dĩ nhiên, chuyên đó không phải là chuyên xảy ra ngày mai. Nhưng nó đáng cho chúng ta mong đợi!

Hãy cho chúng tôi được hy vọng những gì sẽ xảy ra như bạn nói là sự thật. Hãy cho chúng ta được quyền hy vọng ngày mà chúng ta ăn mừng được thấy lý lẽ và công bằng trở lại ở những nước cộng sản là một ngày không xa lắm!

Khi chia tay, chúng tôi bắt tay nhau lần cuối, nhìn trong mắt nhau và có cảm nghĩ rằng chúng tôi đã cùng chia nhau chung một ý nghĩ. Những suy nghĩ chung với những cảm xúc chia sẽ giống nhau: “Chúng tôi, những người trí thức, một đám người đang bị tất cả những ngươi cầm quyền nguyền rủa, và đặt biệt là những tay chuyên quyền cộng sản. Họ là những người tuyệt vời kỷ luật, và chúng ta là những kẻ mà trong người đã có giòng máu vô kỷ luật đang sôi sục. Họ là những kẻ vui sướng khi nhìn những kẻ cúi đầu tuân phục, hít thở những khói nhang của a dua nịnh bợ, làm những trò ảo thuật, dựng nên những tấn tuồng vĩ đại trên sân khấu. Là những người cứng đầu cứng cổ, chúng ta ngẫng mặt hiên ngang, nhin thẳng vào phía trước với cặp mắt biết quan sát và một bộ óc biết phê phán. Thay vì thốt ra những điều ngu dốt để làm người ta thoả mãn, chúng tôi chọn một sự im lặng đầy trách móc. Chúng ta đã thấy rất rõ cặp mắt của nhà ảo thuật, thấy cái đạo đức của chủ nghĩa hình thức, thấy con dao nhọn dấu dưới tay áo khi chúng vừa lễ độ than mật cúi xuống. Phải công nhận là chúng ta là những người bất trị. Hơn thế nữa, chúng ta không thể biết mình sẽ ở đâu và ngày mai mình sẽ trở thành cái gì!”

Ánh mắt chúng tôi tràn đầy những cảm thông cho nhau. Chúng tôi biết rằng mọi người đã hiểu nhau. 

Hai đoàn chúng tôi cùng đồng ý gửi một ý kiến chung đến hai Đảng Cộng Sản Liên Xô và Việt Nam:

“Cho phép chúng tôi được gửi đến quý ông bà những ước vọng và đề nghị của chúng tôi. Quyền lực được giao phó cho quý vị không được dùng để đàn áp, trù dập hay đoạ đầy bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền lợi và bổn phận, bất cứ ai lên tiếng nói đến quyền hành và trách nhiệm. Nếu quý vị muốn các tầng lớp nhân dân mà quý vị đang quản lý tôn trọng trật tự và sống trong pháp luật, về phía quý vị, quý vị phải có bổn phận chăm lo cuộc sống đầy đủ của nhân dân và luôn luôn bảo đảm họ được hạnh phúc. Nếu được như thế, quý vị sẽ được nhân dân vinh danh trong hàng trăm năm và quý vị sẽ được nhân dân mãi mãi biết ơn!

Nhưng nếu cứ vướng mãi với những hành động dại dột, mất trí hay điên khùng, quý vị sẽ đưa dân tộc vào nghèo đói và đau khổ, tiếp tục làm những chuyện chuyên quyền, phạm luật và vô nhân đạo thì quý vị sẽ không kéo dài lâu! Ngay sau khi quý vị chết, nhân dân cũng tiếp tục nguyền rủa, đào mồ và quăng cái xác thối rửa của quý vị cho sài lang và diều hâu cắn xé! Tên tuổi của quý vị sẽ bị đóng ghi trong Lịch Sử và sẽ bị khinh bỉ trong hàng trăm năm sau.

Ngày xưa, ở thành phố Roma, một tướng soái thắng trận đang nhận lãnh những vinh quang của ngày chiến thắng. Để tránh bớt cho vì tướng bị những tung hô nhiểm độc, lợi dụng lúc đang gần bên xe trận của ông tướng, một tên nô lệ nói nhỏ với ông rằng “Ngài nên nhớ ngài cũng là một con người”. Cũng như thế, Luật Pháp cững đang nói nhỏ với kẻ cầm quyền “Bổn phận của các ông là phục vụ chứ không phải là nô lệ hoá nhân dân”. 

Trở về Hà Nội, chúng tôi được khen ngợi nồng nhiệt bởi đã mang lại những thành quả bất ngờ mà chúng tôi gặt hái được ở Hội Nghị ở Bruxelles. Một buổi chiêu đãi để vinh danh chúng tôi được Bộ Ngoại Giao tổ chức. 

Trong những buổi như thế, chúng tôi nhận được tin hai lãnh đạo của Phong Trào Gìn Giữ Hoà Bình Saigon-Chợ Lớn ở miền Nam đã bị bắt giữ: Luật Sư Nguyễn hữu Thọ và giáo sư Phạm Huy Thông. Cha đẻ của giáo sư Thông chỉ định tôi là luật sư để bào chữa cho con ông. Bộ Ngoại Giao và Chủ Tịch Toà Án Tối Cao khuyến khích tôi nhận lãnh sứ mệnh này. Tôi đánh một điện tín vào Toà Án Saigon thông báo họ là tôi sẽ là luật sư bào chữa cho ông Thông và yêu cầu họ cho biết ngày giờ xử của vụ án. Nhưng chính quyền Ngô Đình Diệm đã không cho phép tôi vào Saigon. May thay, tôi cũng không có gì để tiếp tục, vụ án cũng không bao giờ được xử vì hai kẻ tội nhân đã vượt ngục an toàn.