Thứ Năm, 31 tháng 10, 2019

16 bức chân dung phụ nữ của Mihaela Noroc


16 bức chân dung nổi bật của phụ nữ
từ các chuyến du lịch vòng quanh thế giới của Mihaela Noroc

Các bài trước về tác phẩm nhiếp ảnh của Mihaela Noroc đọc ở đâyở đây.

Nhiếp ảnh gia Mihaela Noroc cho biết, người đẹp có mặt ở khắp mọi nơi, bất kể tiền bạc, tuổi tác, chủng tộc hay địa vị xã hội, với những bức chân dung đáng kinh ngạc của cô về những người phụ nữ đến từ Iceland, Bắc Triều Tiên, Ethiopia và xa hơn nữa

Reyjasta, Iceland (Mihaela Noroc)
Thorunn là một ca sĩ và nhà hoạt động mang phụ nữ Iceland đến với nhau thông qua một cộng đồng trực tuyến nổi tiếng. Tôi gặp Thorunn ở quê cô ấy vào một ngày đông lạnh. Nhưng tính cách ấm áp của cô ấy khiến tôi quên đi cái lạnh. Một ca sĩ nổi tiếng ở Iceland, cô cũng là một người mẹ mới cho một bé gái, người mà cô muốn lớn lên hạnh phúc và tự tin. Vì vậy, Thorunn bắt đầu một cộng đồng trực tuyến có tên Good Sister , đã thu hút một phần ba phụ nữ ở đất nước của mình tham gia hỗ trợ lẫn nhau bằng cách chia sẻ câu chuyện của họ và khuyến khích.


Cuenđa, Ecuador (Mihaela Noroc)
Một khoảnh khắc dịu dàng tại một chợ thực phẩm.

Addis Ababa, Ethiopia (Mihaela Noroc)
Đây là vùng đất của nhiều tôn giáo và dân tộc. Samira là một người dân tộc thiểu số. Tôi gặp Samira trong quán cà phê của người bạn thân nhất của cô ấy. Cô ấy là người Hồi giáo và bạn của cô ấy là Cơ đốc giáo. Khi đến thăm đất nước tuyệt đẹp này, tôi đã thấy nhiều tình bạn đẹp vượt ra ngoài tôn giáo. Nhưng cũng có những xung đột khủng khiếp, bắt nguồn từ sự khác biệt về sắc tộc. Cái nhìn thanh thản của Samira cho tôi hy vọng rằng những người tốt bụng như cô ấy sẽ làm cho thế giới này trở nên tốt đẹp hơn.

Bình Nhưỡng, Bắc Triều Tiên (Mihaela Noroc)
Hiếm khi tôi thấy một sự tập trung của đồng phục như vậy; họ ở khắp mọi nơi trong xã hội này. Người phụ nữ này là một hướng dẫn viên tại một bảo tàng quân đội.

Kathmandu, Nepal (Mihaela Noroc)
Sona đang kỷ niệm Holi, lễ hội sắc màu của Ấn Độ giáo, và trong số các cuộc tụ họp ngoạn mục nhất tôi đã chứng kiến ​​trong các chuyến đi của mình. Một thời gian để tha thứ và được tha thứ, Holi đánh dấu sự xuất hiện của mùa xuân, khi chiến thắng thiện ác.

Bucharest, Romania (Mihaela Noroc)
Magda thường xuyên tổ chức các buổi trình diễn thời trang trong đó các người mẫu là phụ nữ ngồi xe lăn. Năm 2005, Magda là một hành khách trong một vụ tai nạn xe hơi khủng khiếp. Một cái gì đó tôi nhận thấy đi du lịch trên thế giới là như thế nào, ở rất nhiều nơi, những người ngồi xe lăn thường bị che giấu khỏi công chúng, bị kết án với một cuộc sống cô lập. Đôi khi đó là vì đi ra ngoài quá khó khăn, do thiếu nhà ở dễ tiếp cận.
Magda muốn thay đổi cách đối xử với những người ngồi xe lăn, ít nhất là ở đất nước của cô, thông qua một số sáng kiến ​​tuyệt vời. Cô thường xuyên tổ chức các buổi trình diễn thời trang trong đó các người mẫu là những phụ nữ bình thường sử dụng xe lăn. Những sự kiện này cho thấy một khuyết tật không có nghĩa là một người phụ nữ không tài năng, có khả năng và xinh đẹp. Cô đã trao niềm tin cho nhiều phụ nữ, từ khi làm việc với cô, đã bắt đầu gia đình và trở thành mẹ. Bản thân Magda là mẹ của một cô con gái sáu tuổi. Tôi cảm thấy vinh dự khi gặp những người như cô ấy. Thông qua niềm đam mê, sức mạnh và sự hào phóng của họ, họ mang lại rất nhiều niềm vui và sự hỗ trợ cho người khác.
  
Bíchek, Kyrgyzstan (Mihaela Noroc)
Bức ảnh này được chụp ngay trước màn trình diễn của người phụ nữ này trong một điệu nhảy truyền thống.

Havana, Cuba (Mihaela Noroc)
Một phụ nữ địa phương ở Havana, người chỉ muốn hoàn thành việc học và trở thành y tá.

Thành phố Mexico, Mexico (Mihaela Noroc)
Cơ trưởng Berenice Torres là phi công trực thăng cho Cảnh sát Liên bang Mexico. Người phụ nữ dũng cảm này, cũng là một người mẹ, là thành viên của một đơn vị lực lượng đặc biệt để chống lại các băng đảng ma túy, hoặc để giải cứu mọi người khỏi thảm họa thiên nhiên. Khi cô ấy nói về công việc của mình, niềm đam mê trong mắt cô ấy thật ấn tượng.

Berlin, Đức (Mihaela Noroc)
Anais có mẹ là người Malian và cha là người Pháp. Khi cô đi du lịch đến Mali, mọi người coi cô là người da trắng. Khi cô ấy ở Châu Âu, cô ấy được coi là màu đen. Nhưng Anais nói rằng cô cảm thấy cả châu Phi và châu Âu, ngay cả khi vào bất kỳ ngày nào, quần áo của cô thể hiện một phần đặc biệt của di sản.
  
  Tehran, Iran (Mihaela Noroc)
Mahsa là một nhà thiết kế đồ họa và tự hào về thực tế là từ khi cô tròn mười tám tuổi, cô đã độc lập về tài chính. Tên của cô có nghĩa là giống như một mặt trăng trong tiếng Ba Tư. Khi cô còn là một thanh niên, cha cô khăng khăng rằng cô học để trở thành bác sĩ, nhưng Mahsa quan tâm nhiều hơn đến nghệ thuật và cô đã chọn trở thành một nhà thiết kế đồ họa. Cô tự hào rằng từ khi cô tròn mười tám tuổi, cô đã độc lập về tài chính và sớm có kế hoạch mở công ty riêng.

Rừng nhiệt đới Amazon, Ecuador (Mihaela Noroc)
Ngày càng có nhiều bộ lạc Amazonia bắt đầu áp dụng quần áo hiện đại cho cuộc sống hàng ngày. Nhưng họ vẫn giữ quần áo truyền thống của họ cho các sự kiện quan trọng. Tôi chụp ảnh người phụ nữ trẻ này trong trang phục cưới của cô ấy.
  
Cape Town, Nam Phi (Mihaela Noroc)
Cách đây một thời gian, Jade đã vay tiền, mua một chiếc máy ảnh chuyên nghiệp và bắt đầu học nhiếp ảnh. Cô mơ ước được đi du lịch và chụp ảnh trên toàn thế giới. Tôi đã có cùng một giấc mơ và nó đã trở thành sự thật.

Paris, Pháp (Mihaela Noroc)
Anja là người Bỉ có nguồn gốc Ba Lan và ước mơ được thi đấu trong Paralympic Games. Bạn không thể tưởng tượng được một người phụ nữ vui vẻ Ania là gì. Cô ấy có một trong những câu chuyện ấn tượng nhất mà tôi từng nghe. Cô sinh ra không có chân phải, ở Ba Lan và mẹ cô đã bỏ rơi cô trong bệnh viện, cầu xin bác sĩ chăm sóc cô. Năm 19 tháng tuổi, cô được một gia đình người Bỉ nhận nuôi, nơi cô có một tuổi thơ tươi sáng.
Cô ấy nói với tôi rằng cha mẹ cô ấy thật tuyệt vời. Họ nhận nuôi thêm nhiều trẻ em khuyết tật và tất cả đều lớn lên hạnh phúc ở vùng quê Bỉ, được bao quanh bởi những con vật nông trại và tận hưởng thiên nhiên.
Ania luôn yêu thích thể thao. Khi còn bé, cô đã chạy trên những tảng đá và trong rừng, luôn cảm thấy tự do và độc lập. Cô đã phá vỡ chân giả của mình nhiều lần. Trước đó, không thể có một môn thể thao thích hợp vì cô ấy không có xương đùi. Mỗi đêm trước khi chìm vào giấc ngủ, cô tưởng tượng mình đang chạy như một vận động viên. Ước mơ duy nhất của cô là có một bộ phận giả phù hợp cho thể thao. Ania nghĩ nếu trở thành một vận động viên nổi tiếng, mẹ ruột của cô sẽ gặp cô trên phương tiện truyền thông và cô sẽ có cơ hội tìm thấy cô ở Ba Lan.
Nhiều năm sau, quyết tâm trở thành một vận động viên, cô đã thuyết phục các bác sĩ đưa cô vào một cuộc thử nghiệm y tế, và hôm nay cô có một bộ phận giả duy nhất và cuối cùng có thể chạy như cô từng tưởng tượng khi còn là một đứa trẻ.
  
Berlin, Đức (Mihaela Noroc)
Lisa đang đến từ một chuyến đi khi tôi gặp cô ấy. Cô mang theo một chiếc ba lô to lớn và có nhiều kỷ niệm thú vị. Khi cô mười một tuổi, cô đã bị xe điện đâm. Cô ấy đã sống sót, một cách kỳ diệu, nhưng để lại nhiều vết sẹo. Khi cô ấy nói với tôi về điều đó, má cô ấy ửng đỏ.

Nampan, Myanmar (Mihaela Noroc)
Tôi đã gặp người phụ nữ đáng yêu này tại một khu chợ địa phương. Đối với nhiều người trên thế giới, đây là những gì mua sắm trông như thế nào. Họ không có ô tô riêng, nhà lớn hoặc tài khoản ngân hàng. Nhưng hầu hết trong số họ là những ví dụ tuyệt vời về nhân phẩm, sức mạnh, sự hào phóng và trung thực. Nếu nhiều người có tài sản và sức mạnh sẽ học hỏi từ những người tuyệt vời này, chúng ta sẽ sống trong một thế giới tốt hơn nhiều.


Atlas of Beauty: Woman of the World in 500 Portraits của Mihaela Noric hiện đã được phát hành, được xuất bản trong bìa cứng của Sách đặc biệt.
Từ năm 2013, Mihaela Noroc đã đi khắp thế giới với ba lô và máy ảnh của mình, chụp ảnh phụ nữ hàng ngày để thể hiện sự đa dạng và vẻ đẹp xung quanh chúng ta. Nó bắt đầu như một dự án cá nhân nhỏ nhưng các nhiếp ảnh gia của Mihaela đã thu hút được hàng ngàn người hâm mộ trên phương tiện truyền thông xã hội. Blog của cô hiện có hơn một triệu người theo dõi.
Atlas of Beauty chứa các bức ảnh của phụ nữ từ hơn 50 quốc gia và cho thấy rằng vẻ đẹp ở khắp mọi nơi, bất kể tiền bạc, chủng tộc hay địa vị xã hội, và có nhiều kích cỡ và màu sắc khác nhau. Chân dung của Noroc có phụ nữ trong môi trường bản địa của họ, từ rừng nhiệt đới Amazon đến các khu chợ ở Ấn Độ, đường phố thành phố London và công viên ở Harlem.
Để biết thêm về cuốn sách và dự án The Atlas of Beauty, xem theatlasofbeauty.com .
Theo dõi Mihaela trên Instagram ( instagram.com/the.atlas.of.beauty/ ) và Twitter ( twitter.com/mihaela_noroc ). 

Thứ Tư, 30 tháng 10, 2019

Thần Đạo của người Nhật Bản


Nhà văn Nguyên Ngọc viết trong Có phải người Việt thường không triệt để?, có đoạn: “Nhà triết học Francois Jullien có lần nói với tôi: Nhật không chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, bởi trước đó Nhật đã có Thần đạo rất mạnh. Và trong lịch sử văn hóa Nhật từng có một quá trình phi Hán hóa mạnh mẽ. Tiếp nhận, nghiên cứu và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo là Hàn Quốc.

Thấy thú vị, từ lâu đã mến yêu người Nhật và đất nước Nhật bản, tôi tìm hiểu về Thần đạo của người Nhật.
Thần đạo (Shintō) hay Thần giáo là tín ngưỡng và tôn giáo của dân tộc Nhật Bản.
Thần đạo, với tư cách một tôn giáo chính thống của Nhật Bản, Thần đạo chưa bao giờ đánh mất vị trí độc tôn của nó trong lòng người dân Nhật Bản. Với những giáo lý cao đẹp, giản dị, Thần đạo luôn là một tôn giáo mà người Nhật ưa chuộng nhất.
Thần đạo cổ đã xuất hiện vào khoảng 2000 năm trước. Nó là hệ tín ngưỡng khởi thuỷ của người Nhật và hợp nhất với các tín ngưỡng, phong tục khác thành nền văn hoá Nhật Bản.

Thần đạo bắt nguồn từ câu chuyện về Thiên Hoàng - cháu đích tôn (Thiên Tôn) của nữ thần Mặt Trời - Amaterasu - được phái xuống cai trị Nhật Bản. Thần đạo cổ ở Nhật Bản được ghi lại qua truyền thuyết và những câu chuyện thần thoại.
Thần đạo theo từ gốc Trung Hoa là “Con đường của các thần linh”, nhưng với người Nhật thì từ này được dịch ra là “Kami no michi”. “Kami” là những linh thể hiện diện ở khắp nơi trong vũ trụ (đôi khi là một tính chất thiêng liêng hiện hữu trong một vật thể), được thờ cúng đặc biệt ở các điện thờ hay Jinja.
Theo wikipedia, các vị Thần trong Thần đạo rất có tương đồng với Thần hoàng của người Việt (Theo nghĩa rộng, “Kami” chỉ tất cả các linh thể trên mặt đất hoặc trên trời đã được nói đến trong các sách kinh điển. Theo nghĩa hẹp, “Kami” là các linh thể trú ngụ trong các điện thờ và được thờ cúng ở đấy. Trên nguyên tắc thì con người, chim chóc, thú vật, cây cối, núi, sông,... và thậm chí cả những sản phẩm do con người tạo ra như thanh kiếm, gương, thóc lúa,… đều có thể là những Kami) .

Đền Fushimi Inari Taisha, Kyoto
Ngôi đền được thành lập vào năm 711 dưới chân núi Inari, để cầu mùa màng bội thu. Cho đến năm 1499, các kiến trúc đã được hoàn thiện. Nữ thần được thờ ở đền là Inari, thần cai quản lúa gạo. Ảnh: Not Bored NY.

Bản chất của Shinto chính là sự tôn kính của người dân Nhật đối với các sinh vật hoặc quyền năng vô hình mà họ gọi là “Kami” (Thần), xuất phát từ các đền thờ và nghi lễ khác nhau.
Không giống như vài tôn giáo khác, thường tìm cách giải thích sự hình thành thế giới. Shinto cũng có những điều đó nhưng chú trọng về các hình thức giao tiếp với các Kami. Kami không hoàn toàn bao gồm Thiên chúa hoặc Thần thánh. Kami có thể hoá thân từ các sinh vật hoặc con người thông qua các đặc tính như bảo vệ, phục hồi sức khoẻ, thành công trong kinh doanh….Shinto là một tôn giáo mang tính địa phương hơn là một tôn giáo mang tính tổng thể. Nhiều người Nhật chỉ cần có 1 bàn thờ nhỏ tại gia như Việt Nam. Tuy nhiên, đó cũng là một tôn giáo quốc gia không chính thức. Nhiều người thường nghĩ đến Shinto như một khía cạnh quốc gia, một truyền thống, nét văn hoá. Điều này đã góp phần giúp cho Shinto và Phật giáo cùng hoà nhập và tồn tại mà không xảy ra nhiều mâu thuẫn.Tên gọi Shinto được ghép bởi 2 từ tiếng Hán là “Thần linh” và “Đạo” tức con đường; “con đường của Thần Linh”. Việc tham gia các lễ hội địa phương góp phần gắn kết cộng đồng địa phương đó với nhau. Người ta thường viếng đền trong các dịp lễ Tết. Shinto hầu như chỉ gói gọn trong phạm vi lãnh thổ Nhật Bản, hầu như nó rất ít quan tâm đến việc truyền giáo hoặc phổ biến rộng rãi ra toàn thế giới.Quan điểm của Shinto là con người về cơ bản là tốt và không có “tội lỗi ban đầu” hay “tội tổ tông”, cũng như không có khái niệm về ngày tận thế. Thế giới quan của Shinto diễn ra ngay trên Trái đất này và không có một thế giới dành riêng cho các vị Thần.Shinto không có kinh điển, người sáng lập, không có Thiên chúa. Shinto không có các điều răn nhưng thay vào đó là các nguyên tắc ứng xử về mặt đạo đức, và không yêu các các thành viên phải tuân theo nó như một tôn giáo duy nhất; nhiều người Nhật vừa theo Shinto vừa là Phật tử.
 1.   Các vị thần “Kami”.

Thứ Ba, 29 tháng 10, 2019

Có phải người Việt thường không triệt để?


Có phải người Việt thường không triệt để?

Nhà văn Nguyên NgọcTiền Phong (2007)
Cũng rất cần suy nghĩ về cách tiếp nhận các ảnh hưởng bên ngoài của người Việt, có lẽ càng đặc biệt quan trọng trong thời hội nhập hiện nay. Người Việt tiếp nhận văn hóa Phật giáo rất sớm, thậm chí còn sớm hơn cả Trung Hoa.
Phật giáo từ Chămpa và qua đường biển đã vào đất Việt ngay từ trước Công nguyên. Luy Lâu (Kinh Bắc) là trung tâm Phật giáo lớn và rất sớm của Việt Nam, từng là một trong những nguồn truyền Phật giáo sang Trung Quốc.
Suốt một nghìn năm Bắc thuộc, hệ tư tưởng để tập hợp dân tộc, chống đồng hóa quyết liệt và tàn bạo của phương Bắc là hệ tư tưởng bản địa của người Việt được tăng cường bằng văn hóa Phật giáo …
Đến thế kỷ thứ 10, sau khi khôi phục được nền độc lập, thì người Việt lại có một lựa chọn độc đáo: Chủ động tiếp nhận Nho giáo, chủ động rời bỏ gốc Đông Nam Á của mình, chuyển sang văn hóa Đông Á.
Lý do nằm ở chỗ, tổ chức nhà nước đông Nam Á là tổ chức theo kiểu “liên hiệp” các tiểu quốc, một hình thức tổ chức nhà nước mềm mại, “dân chủ”, nhưng lại rất lỏng lẻo, không thể nào đủ sức chống ngoại xâm phía Bắc từ nay đã trở nên thường trực.
Người Việt tiếp nhận Nho giáo chính là để học lấy cách tổ chức nhà nước trung ương tập quyền mạnh theo kiểu Trung Hoa, để chống lại chính ngoại xâm thời Trung Hoa phong kiến.
Như vậy, có thể thấy cả hai lần người Việt tiếp nhận ảnh hưởng của hai nền văn hóa rất lớn ở quanh mình đều là để nhằm mục đích chống ngoại xâm.
Phật giáo, như chúng ta biết, là một hệ thống triết học hết sức uyên thâm, nhưng người Việt hầu như chưa bao giờ tiếp nhận đến nơi đến chốn, triệt để chất triết học sâu xa của Phật giáo.
Ở cấp triều đình thì đưa Phật giáo vào tổ chức hệ thống nhà nước, vận những điển huấn của Phật làm thành một kiểu luật pháp cai trị đất nước, còn bên dưới thì Phật giáo lại hòa nhập với những đức tính nhân ái của người bình dân để trở thành một thứ đạo đức dân gian giản dị, hiền hòa.
Có lẽ chỉ đời Trần đã có cố gắng tương đối rõ rệt xây dựng một hệ tư tưởng riêng của Việt Nam trên cơ sở vận dụng triết học Phật giáo. Nhưng nhìn chung cũng chưa được bao nhiêu và cũng là dở dang.
Vua Trần Nhân Tông từng nhường ngôi cho con, lên tu ở núi Yên Tử, viết Khóa Hư Lục, nhưng chỉ được mấy năm thì đã lại xuống núi đánh giặc, rồi vào tận Trà Bàn, kinh đô Chiêm Thành tính chuyện gả Huyền Trân đổi đất để mưu sự Nam tiến…
Tiếp nhận văn hóa Pháp, đầu thế kỷ XX chúng ta đã xây dựng được một nền văn học hiện đại rất đáng quý. Song mặt khác nhìn kỹ mà xem, văn học Pháp có cái gì thì ta cũng có cái ấy, chủ nghĩa hiện thực, chủ nghĩa hiện thực phê phán, chủ nghĩa lãng mạn, đađa, siêu thực … đủ cả, nhưng đều là mỗi thứ một ít, nhỏ nhoi, và cũng dở dang…
Sự tiếp nhận văn hóa của người Việt rõ ràng mang khá đậm chất thực dụng. Học của người khác rất nhanh, rất thông minh, nhưng là học để vận dụng ngay cho những mục đích thiết thực, trước mắt của mình, do đó chẳng mấy khi đi đến được triệt để.
Học để dùng ngay. Thậm chí dùng xong rồi thì nhiều khi sẵn sàng vứt đi luôn! (thôi chữ Hán khi Pháp vào, thôi tiếng Pháp khi đuổi được đô hộ Pháp đi, ít dùng chữ Nga khi không còn quan hệ khăng khít với Nga nữa…).
Người Việt cũng không có một hệ thống triết học cho riêng mình. Đó chắc chắn là những nhược điểm rất lớn của dân tộc, không thể không nói thẳng và suy nghĩ kỹ, nếu chúng ta thật sự muốn nói đến một sự phục hưng dân tộc.
Tôi luôn mong có được một sự nghiên cứu so sánh thật nghiêm túc, sâu sắc giữa ba nước Việt Nam, Nhật Bản, Hàn Quốc, về lịch sử, văn hóa, xã hội …, con đường đi, những chọn lựa lịch sử lớn và số phận của từng dân tộc. Sẽ rất có ích.
Nhà triết học Francois Jullien có lần nói với tôi Nhật không chịu ảnh hưởng nhiều của Nho giáo, bởi trước đó Nhật đã có Thần đạo rất mạnh. Và trong lịch sử văn hóa Nhật từng có một quá trình phi Hán hóa mạnh mẽ. Tiếp nhận, nghiên cứu và chịu ảnh hưởng sâu sắc nhất của Nho giáo là Hàn Quốc.
Còn ta thì sao? Hình như lâu nay đối với một vấn đề văn hóa quan trọng như thế này ta cũng chỉ mới có những tiếp cận qua loa, chưa bao giờ tập trung làm cho đến nơi đến chốn.
Muốn có một nền văn hóa tiên tiến, phải học thật triệt để
Tôi thường suy nghĩ về Nhật Bản và rất mong có được một nghiên cứu sâu về Nhật, đặc biệt về giai đoạn Nhật Bản duy tân, tiếp xúc với phương Tây. Trong cuộc tiếp xúc ấy, ta đã thất bại nặng nề, mất nước, còn Nhật thì không, ngược lại cường thịnh lên, đến mức trở thành cường quốc thế giới. Vì sao?
Lúc bấy giờ Nhật đã ra sức học phương Tây, học đến cùng, quyết liệt, triệt để. Rốt cuộc Nhật vừa là nước hiện đại hóa thành công nhất vừa giữ được bản sắc văn hóa Á Đông đặc sắc, độc đáo nhất...
Ta đã bao giờ suy nghĩ so sánh cách học, kết quả học của Nhật với của ta, để thật sự nghiêm túc rút ra bài học chưa, càng đặc biệt cho hôm nay khi ta đã quyết đi ra biển lớn của hội nhập.
Nền tảng văn hóa chung của xã hội còn thấp
Suy nghĩ về nền văn học nước nhà, có lần tôi đã từng có chút ít bi quan, nhưng rồi nhìn lại kỹ thì thấy trong văn học của chúng ta vẫn thường xuất hiện nhiều người có tài, lắm khi khá bất ngờ.
Nhưng chính trường hợp Nguyễn Ngọc Tư lại khiến ta không khỏi lo. Tài năng ấy sẽ phát triển như thế nào đây trên cơ sở một nền tảng văn hóa và giáo dục không chỉ thấp mà còn quá nhiều vấn đề bất cập như ta đang có?
Hình như trong văn học ta có đặc điểm này: Các tài năng thường xuất hiện rất sớm, kiểu “thần đồng”, như Nguyên Hồng 16 tuổi đã viết Bỉ vỏ , Chế Lan Viên 17 tuổi viết Điêu tàn, v.v..
Nhưng rồi không ai đi được thật xa, đến tầm cỡ thế giới. Hẳn là vì cái nền của chúng ta quá thấp. Cái nền đứng của ta chỉ có 1m thôi, anh có tài nhảy được 5m, cuối cùng cũng chỉ với tới 6m. Còn nhà văn ở nơi khác, tài người ta nhảy được 3m thôi, nhưng cái nền của họ đã là 5m, nên họ nhảy một phát đã đến ngay 8m.
Gần đây trường hợp Jonathan Littell có lẽ là một ví dụ sinh động. Anh ta 38 tuổi, quốc tịch Mỹ, nay sống ở Tây Ban Nha, nhưng viết bằng tiếng Pháp, và ngay tác phẩm đầu tiên viết bằng tiếng Pháp, tiểu thuyết Các bà từ tâm (Les Bienvieillantes), dày gần nghìn trang, đã đoạt một lúc cả giải thưởng lớn của Viện Hàn lâm Pháp và giải Goncourt uy tín nhất ở Pháp.
Có người đã so sánh Les Bienveillantes với Chiến tranh và Hòa bình, và nhắc đến Lev Tolstoi, Cholokhov … Trên một nền tảng văn hóa như ta đang có, làm sao có thể nghĩ được đến một Les Bienveillantes?
Sợ rừng, sợ biển

Hội nhập là ra biển lớn, nhưng nhìn kỹ lại mà xem, hầu hết người Việt chúng ta nghìn đời nay rất sợ biển, mặc dù đất nước có tới mấy nghìn cây số mở ra biển Đông. Mà nói cho đúng, biển Đông cũng mới còn là một “cái ao” của Thái Bình Dương, ra khỏi Philippines mới thật sự đến đại dương.

Vì vậy bão vào ta thường không quá lớn, trong khi Philippines thường xuyên phải hứng chịu bão rất lớn. Philipines đã ngăn bớt sức mạnh của bão cho ta rồi. Mãi đến gần đây ta mới nói tới đánh bắt xa bờ, thực ra cũng chỉ là còn lẩn quẩn trong biển Đông thôi.

Lịch sử thế giới cho thấy những dân tộc vượt lên mạnh mẽ là những dân tộc dám xông ra đại dương, những dân tộc có những người con là những nhà mạo hiểm lớn, cỡ Christophe Colombo, Magellan, Marco Polo.

Có lần, một nhà nghiên cứu đã nói với tôi rằng người Việt không chỉ sợ biển nữa còn sợ cả rừng. Ngay trong ngôn ngữ dân gian của ta đã phản ánh điều này, nào “rừng thiêng nước độc”, “nào ăn của rừng rưng rưng nước mắt”...

Chúng ta không phải là những người dám phiêu lưu. Và điều này cũng thường đi đôi với sự thiếu óc tưởng tượng, một đức tính vô cùng quan trọng trong phát triển.

Tôi cho rằng ngay chính văn học ta cũng phản ánh rõ lắm điều này. Ta có những tác phẩm trữ tình rất lớn, cỡ Truyện Kiều. Nhưng rõ ràng thiếu hẳn những tác phẩm bay bổng sức tưởng tượng lớn, cỡ Tây Du Ký, Liêu Trai chí dị ..., hoặc những Don Quichotte, Trăm năm cô đơn …

Cần khẳng định, óc mạo hiểm, phiêu lưu là một trong những đức tính quan trọng nhất đối với một dân tộc thật sự muốn đi xa cùng thiên hạ. Mà ta thì vốn và đang rất thiếu điều này.

Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây


Minh triết phương Đông & Triết học phương Tây

Nguyên Ngọc (Dịch & giới thiệu)
Thay lời giới thiệu
Viết công trình này tác giả qua lại giữa hai bờ của thượng lưu dòng sông tư tưởng nhân loại: tư tưởng Trung Hoa cổ dại (là cơ sở để nghiên cứu minh triết phương Đông) và triết lý Hy Lạp cổ đại (là căn cứ để xác định tư duy triết học phương Tây).
Francois Jullien (F.J) có quan niệm riêng trong sự định nghĩa và phân hoá hai khái niệm: minh triết (sagesse) và triết học (philosophie).
Trong các ngôn ngữ phương Tây những từ để gọi triết học (Pháp: philosophie, Anh: philosophy, Tây Ban Nha: filosofia, Nga: filosofija ...) đều có gốc ở từ La Tinh philosophia. Phân tích từ nguyên từ này: Philo là yêu mến, sophia là minh triết, như vậy philosophia (triết học) là yêu mến, quý chuộng minh triết.
Ở buổi bình minh của triết học (phương Tây - những thế kỷ IV, V, VI trước công nguyên) minh triết (sagesse) được tôn vinh và triết học (philosophie) có thái độ hết sức khiêm nhường đối với minh triết. Platon (427? - 347 TCN) - vẫn được xem là triết gia cùng với Socrate (470? - 399 TCN) và Aristote (384 - 322 TCN) đã đặt ra cơ sở luận lý (logos) cho triết học đã từng thú nhận: minh triết là của thần, là bất cập đối với con người, con người nhiều lắm chỉ có thể yêu mến, quý chuộng minh triết, tức là làm triết học. Như vậy, trong quan niệm của Platon, minh triết là trên - triết học và triết gia là người không bao giờ với tới minh triết, nhiều lắm chỉ có thể bày tỏ lòng yêu mến đối với minh triết. Tương quan giữa minh triết (sophia) và triết học (philosophia) trong buổi bình minh của triết học (phương Tây) là như vậy.
Triết học (phương Tây) phát triển qua các thời đại. Đặc biệt đến thế kỷ XVIII, triết luận trở thành một hoạt động bộ môn quy củ chuyên sâu, đã có thể nói đến sự hình thành của giới triết gia chuyên nghiệp. Cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX, những thành tựu rục rỡ của triết học cổ điển Đức phát huy thanh thế của triết học. Có sự thay đổi trong tương quan giữa minh triết và triết học. Nietzsche (1844 - 1900) tố cáo sự vờ vĩnh khiêm nhường của triết học để che đậy những tham vọng của mình. Không ít triết gia phương Tây xem minh triết là người bà con nghèo của triết học. Minh triết bị lép vế, không có sức thuyết phục chứng minh của tri thức khoa học, triết học, cũng không có sự linh diệu thần khải của tín điều tôn giáo. So với tư duy triết học có những bay bổng mê hồn, những lời bàn của minh triết xem ra tẻ nhạt, ỉu sìu, ngán ngẩm, cùn mòn, không có góc cạnh. "Minh triết - Wittgenstein, một triết gia Anh hiện đại viết - là cái gì đó nguội lạnh và do đó lẩn thẩn... Cũng có thể nói như thế này: minh triết chỉ che đậy cuộc sống, làm cho ta không thấy được nó. (Minh triết giống như tro xám, nguội lạnh phủ lên than hồng)". Minh triết có khi bị xem như tư duy của những ham muốn già nua (nó có còn là tư duy nữa không?). Sự phát triển lịch sử làm nổi bật một ưu thế lớn của triết học: triết học có lịch sử, nhiều lịch sử, nhưng chưa bao giờ có lịch sử minh triết. Với sự phát triển của triết học phương Tây hiện đại, dưới con mắt của nhiều triết gia phương Tây hiện đại, minh triết trở thành cái gì đó dưới - triết học.
Francois Jullien không quan tâm đến trật tự trên dưới giữa minh triết và triết học, ông xem đây là hai phương thức trí năng (mode d'intelligibiltté) khác nhau, có thể bổ sung cho nhau. So sánh tư duy của minh triết phương Đông và tư duy của triết học phương Tây, tác giả không làm công việc suy tư quẩn quanh về những chỗ giống nhau và khác nhau, không dừng lại ở sự đối lập dễ dãi nữa tư duy duy lý phương Tây và tư duy huyền bí phương Đông hoặc năng lực phân tích của tư duy phương Tây và năng lực tổng hợp của tư duy phương Đông. Có một chiều sâu khác thường trong phương pháp luận so sánh văn hoá Đông Tây của tác giả có thể trình bày như sau: “Hiểu lý trí Âu Châu từ lý trí Trung Hoa và ngược lại”, "suy tư Trung Hoa bằng Âu Châu và ngược lại". Từ tư duy đối sánh chiều sâu được bộc lộ khá bất ngờ những nhược điểm cơ bản của minh triết phương Đông phải chăng tác giả muốn làm sáng tỏ ngọn nguồn trì trệ của phương thức sản xuất tinh thần?). Mặt khác, cũng nêu lên được những gì minh triết phương Đông ngộ được mà bất cập đối với triết học phương Tây. Tác giả đã nhập được vào phương thức trí năng của minh triết để ngộ và tìm cách trình bày những gì ngộ được bằng ngôn ngữ trí năng của triết học phương Tây. Mục đích của tác giả làtrình dẫn dư duy Trung Hoa... sao cho gây được những hiệu quả vang dội trong tư duy Châu Âu "mà vẫn có mạch lạc" (coherent). Đọc công trình của Francois Jullien những độc giả "Tây giả" (Á và Âu) có thể thấy được rằng người bà con nghèo của triết học có những sở đắc - không lẩn thẩn chút nào - mà triết học bỏ tuột mất.
Nhan đề của tác phẩm Un sage est sans ideé có thể dịch sang tiếng Việt: Minh triết là "vô ý". Vô ý là từ của Khổng Tử được trích từ một câu nói của Khổng Tử: Đức Khổng Tử chẳng hề có bốn điều lỗi này: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã (Tử tuyệt tứ: vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã) [Luận ngữ, IX]. F.J đã hiểu như thế nào là vô ý, vô tất, vô cố, vô ngã?
Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến mà có nghĩa là: không có ý kiến nào được dành đặc quyền, được tuyệt đối hoá khiến cho ta không nhìn thấy những điều hợp lý, khả thủ của những ý kiến khác, kể cả những ý kiến đối lập.
Vô tất có nghĩa là không định trước những điều thế tất, ắt phải như thế này, ắt phải như thế kia, không áp đặt những mệnh lệnh tất phải thế này, tất phải thế kia.
Vô cố có nghĩa là không cố chấp một quan điểm nào, một lập trường nào.
Vô ngã là muốn nói không có một cái ngã đặc biệt. Khổng Tử không phủ định cái "tôi", chỉ phủ định cái "tôi" đặc biệt.
Có liên quan mật thiết giữa 4 cái vô.
Dành đặc quyền, tuyệt đối hoá một tư tưởng (tức là vi phạm quan điểm vô ý) thì những tư tưởng khác sẽ chảy ngược trở lại, sẽ tháo lui, tư tưởng được tuyệt đối hoá sẽ trở thành độc tôn, tự nó sẽ tạo ra hệ thống cho nó, từ đó trở thành trường phái, bè phái. Để duy trì của vị độc tôn, để đối phó với những tư tưởng khác, nó buộc phải định trước những sự tất yếu (không tránh khỏi phiến diện) và đưa ra những mệnh lệnh chủ quan (vi phạm quan điểm vô tất). Tư tưởng độc tôn dẫn đến sự cố chấp trong quan điểm, lập trường (vi phạm quan điểm vô cố). Tư tưởng độc tôn, cố chấp quan điểm, lập trường cùng với những thành kiến, định kiến cố hữu tạo ra một cái tôi (ngã) đặc biệt (moi particulier). Cái tôi đặc biệt là cái tôi khép kín trong sự phiến diện, bị định hình một cách cứng nhắc, không mở ra được đặng khai thông với những mặt khác của thực tại, của cuộc sống, của nhận thức... bao giờ cũng vô cùng sinh động và phong phú.
Vô ý, với ý nghĩa là không tuyết đối hoá một tư tưởng nào, quan tâm đúng mực mọi tư tưởng (cũng như mọi phương diện, mọi khả năng của thực tại) là một tư trong cơ bản trong minh triết của Khổng Tử Quan tâm đúng mực mọi tư tưởng giống như mở ra mọi cánh cửa, thấy được mọi ngả dường. Còn như tuyệt đối hóa một tư tưởng thì giống như có một cánh cửa được mở toang ra nhưng những cánh cửa khác thì bị khép lại, có thể nhìn xa hơn, thấy rộng hơn theo một ngả đường nhưng trả giá cho lợi thế nào có khi là sự mù trước những ngả đường khác. Vô ý không có nghĩa là không có ý kiến, không có tư tưởng, quan điểm vô ý ngăn ngừa sự độc quyền hoá của một tư tưởng. Câu nói của Khổng Tử: "Quân tử chu nhi bất hỉ, tiểu nhân tỷ nhi bất chu” (Luận ngữ, II, 14) được tác giả hiểu như sau: “Người quân tử bao quát tổng thể, không thiên vị một phía nào, kẻ tiểu nhân thì ngược lại", (bản dịch của Đ.T.C: “Bực quân tử xử được với tất cả mọt người vì chăng có lòng tư vị, ke tiểu nhôn vì tư vị cho nên chẳng xử được với mọi người"). Trong Kinh Dịch về quẻ Càn có câu: “Kiến quần long vô thủ, cát". Dịch: Thấy bầy rồng không có đầu, tốt (6 vạch ngang liền nét đều ngăn ngắt trong hình tượng quẻ Càn được hình dung như một bầy rồng không đầu). Vương Phu Chi (1619 - 1692) đã bình giảng câu này theo quan điểm vô ý của K.T. Bầy rồng không đầu, có nghĩa là không có con rồng nào có đầu nhô ra, thòi ra, nổi hơn những con khác. Những con rồng được coi trọng ngang nhau, có nghĩa là những ý kiến, những tư tưởng, những phương diện khác nhau của thực tại được coi trọng ngang nhau. Như vậy cách nhìn minh triết là cách nhìn bao quát, thấy được và quan tâm mọi mặt, mọi khả năng của thực tại, không vì thiên lệch một phía mà ngoảnh lưng với những phía khác. Nhưng vô ý không có nghĩa là không dấn thân, không đứng về phía nào (trong hành động). Người minh triết quyết định dấn thân, đứng về phía nào, chọn khả năng nào là do đòi hỏi của tình thế, chứ không xuất phát từ những giáo điều có sẵn định trước phải gạt bỏ khả năng này, phải chạy theo khả năng nọ, phải ủng hộ phía nào, phải chống lại phía kia... Để làm sáng tỏ tư tưởng này tác giả dẫn câu nói của Khổng Tử: “Quân tử chi ư thiên hạ dã, vô thích dã, vô mạc dã, nghĩa chi dữ tỷ” (Luận ngữ, IV, 10) mà Đ.T.C dịch là: "Bực quân tử làm việc cho đời, không có việc gì mà người cố ý làm, không có việc gì người cố ý bỏ, hễ hợp nghĩa thì làm" (tôi tô đậm H.N.H), bình giảng câu này, F. Jullien có nêu lên một nghĩa cổ của chữ nghĩa là: đòi hỏi của tình thế và ông đã giảng hợp nghĩa là hợp với đòi hỏi của tình thế (chúng ta có thêm một cứ liệu ngôn ngữ học để hiểu chữ nghĩa của Không giáo). Như vậy, người minh triết không phải là không có chủ kiến, duy có một điều đây không phải là chủ kiến có sẵn, được định trước cho mọi khả năng, mọi tình thế, mà đây là chủ kiến được đề ra từ những đòi hỏi của tình thế (cụ thể). Có thể hiểu rõ hơn quan điểm vô ý qua lời bàn sau đây của một nho gia: “Khi cần giàu thì giàu và khi cần nghèo thì nghèo, khi cần sống thì sống và khi cần chết thì chết". Như vậy, giàu hay nghèo, sống hay chết là những khả năng được coi trọng ngang nhau, chọn khả năng nào là tuỳ theo đòi hỏi của tình thế, người minh triết không cố chấp hoặc gạt bỏ trước (a priori) bất cứ khả năng nào. Trong Luận ngữ (XVIII, 8) Khổng Tử có phân biệt ba loại thánh nhân. Họ đều bỏ công danh phú quý, đi ở ẩn nhưng họ có những phong độ ứng xử rất khác nhau. Loại thứ nhất như Bá Di, Thúc Tề "chẳng khuất chí mình, chang nhục thân mình” [bất giáng kỳ chí , bất nhục kỳ thân], không thể chê trách vào đâu cả, loại thứ hai như Liễu Hạ Huệ, Thiếu Liên, kém hơn, “phải khuất chí mình, phải nhục thân mình", tuy vậy, lời nói của họ “hợp luân lý" [ngôn trúng luân], việc làm của họ "hợp lòng mong nghĩ của dân” [hành trúng lự], loại thứ ba như Ngu Trọng, Di Dật "ở ẩn nơi xa vắng và ăn nót rất tự do, phóng túng" [ẩn cư, phóng ngôn] nhưng “giữ mình đúng lẽ thanh khiết và biết bỏ phế đúng lẽ quyền biến" [thân trúng thanh, phế trúng quyền] (điều đáng chú ý là ngay ở loại thứ hai và loại thứ ba, trong phong độ có những chỗ có thể chê trách, Khổng Tử vẫn nhận ra ở họ sự chân chính và những phẩm giá đáng trọng, vẫn xem họ là thánh nhân). Sau khi nêu ba loại thánh nhân và không sắp mình vào một loại nào, Khổng Tử hạ một câu: "Còn ta thì khác ở chỗ chẳng có gì là được hoặc không được" - tức là chẳng có gì là thích hợp với ta hoặc không thích hợp với ta [Ngã tắc dị ư thị vô khả, vô bất khả] (tôi tô đậm H.N.H). Trong ba loại người nói trên loại thứ nhất và loại thứ hai là hai thái cực đối lập với nhau, loại thứ ba xem như nửa này, nửa kia. Khổng Tử không thuộc về loại thứ nhất, chẳng thuộc về loại thứ hai, càng không phải là loại thứ ba. Tử có thể là loại người này cũng như có thể là loại người kia, đó là tùy theo tình thế. Tử không phải là người cố chấp, cũng chẳng phải là người không cố chấp. Vì chưng Tử có thể cố chấp như những người cố chấp nhất, khước từ mọi sự nhân nhượng mà cũng có thể thoả hiệp hoàn toàn với người đời, miễn sao có cơ giúp ích cho đời. Người minh triết là người "không định ra được phẩm chất" (sans qualification) với ý nghĩa là không có phẩm chất như là thuộc tính "cố hữu”, "bản chất", "bất biến", mà có phẩm chất này hay phẩm chất kia là do đòi hỏi của tình thế. Về đức hạnh của Khổng Tử, Mạnh Tử nói: "Lúc nên (khả dĩ) làm quan thì làm quan. Lúc nên (khả dĩ) bỏ chức thì bỏ chức. Cần (khả dĩ) làm quan lâu thì làm quan lâu. Cần (khả dĩ) ra đi gấp thì ra đi gấp. Đó là cái hạnh của đức Khổng vậy " (Khả dĩ sĩ , tắc sĩ. Khả dĩ chỉ, tắc chỉ. Khả dĩ cửu, tắc cửu. Khả dĩ tốc, tắc tốc. Khổng Tử dã.) (Mạnh Tử, II, A, 2)”. Cái khả dĩ gắn với tình thế (cụ thể) và tình thế gắn với thời điểm (moment). Cái khả dĩ (possible) đồng thời là cái chính đáng (légitime) vì phù hợp với tình thế (cụ thể) và thời điểm, tức là phù hợp với thời và thế. Tiêu chuẩn của tính chính đáng cũng như của những phẩm chất đạo đức khác gắn một cách nội tại với tình thế và hoàn cảnh cụ thể. Cái chính đáng (vốn gắn với tình thế cụ thể) được đề lên thành quy tắc khái quát chung cho mọi tình thế không tránh khỏi trở thành vũ đoán. Đã đành người minh triết không chấp nhận những tư tưởng cá biệt quá (gắn với cái ngã đặc biệt) mà những tư tưởng khát quát quá cũng không tin vì loại tư tưởng này không tính đến đặc điểm của mỗi thời, sự khác biệt giữa những thời khác nhau. Minh triết có nhiều phương diện, biểu hiện ở nhiều đức tính. Có người là bậc thánh về phương diện này, có người là bậc thánh về phương diện nọ... Như nhận định của Mạnh Tử "ông Bá Di là bậc Thánh có đức thanh khiết (Bá Di thánh chi thanh giả giã), ông Y Doãn là bậc thánh có đức trọng nhiệm (Y Doãn thánh chi nhiệm giả giã), ông Huệ xứ Liễu là bậc thánh có đức ôn hoà (Liễu hạ Huệ thánh chi hoà giả giã), Đức Khổng Tử có đức thời trung (Khổng tử thánh chi thì giả giã) (tôi tô đậm. H.N.H)" (Mạnh Tử, V, B, l). Đức thời trung (chữ của Đoàn Trung Còn) là cái đức tuỳ theo thời và thế mà thanh khiết như Bá Di hoặc trọng nhiệm như Y Doãn hoặc ôn hoà như Liễu hạ Huệ... Như vậy Khổng Tử không phải là sự hiện thân của một nét "nhất thành bất biến" nào của minh triết mà tuỳ thời, tuỳ tình thế (cụ thể) Khổng Tử thực hành phương diện này hay phương diện nọ của minh triết. Nhấn mạnh sự tập đại thành nhiều đức tính ở Khổng tử có thể che lấp đức thời trung ở Tử. Kết luận rằng Khổng tử có đủ mọi đức tính không quan trọng bằng nhận định Khổng tử đứng thời, đúng lúc (thời trung) thực hiện đức tính này hay đức tính nọ. Ở Khổng Tử đức thời trung là đức hạnh của mọi đức hạnh.
Bản thể là một khái niệm cơ bản của triết học phương Tây. Minh triết phương Đông không phải không biết đến bản thể nhưng mối quan tâm chủ yếu của minh triết là quá trình. Trung dung là tâm pháp để điều tiết các quá trình. Mỗi quá trình trong sự tự tại của nó có sự tự điều tiết Trung dung là sự gia công vào sự tự điều tiết này và phải dựa vào nó. Ý kiến của Mạnh tử phê phán thái độ chấp trung, thái độ chấp nhất hết sức quan trọng để hiểu tinh thần của trung dung.
Mạnh tử nói rằng: "Dương Tư giữ lấy chủ nghĩa vị ngã, tức là chủ nghĩa của kẻ chỉ chuyên lo cho mình mà thôi. Dẫu nhổ một mảy lông trên mình mà lợi ích cho cả thiên hạ ông cũng chẳng chịu làm.
Mặc tử thi hành chủ nghĩa kiêm ái, thương tất cả mọi người như mình. Dẫu mòn nát tấm thân từ đỉnh đầu cho chí gót chân, mà có lợi ích cho cả thiên hạ, ông ấy cũng vui lòng hy sinh.
Tử Mạc bao thủ chủ nghĩa chấp trung, cốt giữ cho vừa vặn phần mình và phần người. Chủ nghĩa chấp trung gần vớt đạo lý. Nhưng nếu chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chăng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời, như vậy cũng như chấp nhất, tức là khư khư câu nệ một bè vậy thôi. Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cố giữ ý kiến làm hại đạo lý. Kẻ cử động theo một bề thì bỏ hỏng cả trăm bề (Mạnh Tử, VII, A, 26).
Như vậy chấp trung là đứng ở giữa hai thái cực đối nghịch (vị ngã cực đoan và kiêm ái tột độ). Hiểu như vậy, chủ nghĩa chấp trung gần với quan niệm của Aristote về đạo đức: đức hạnh là trung độ đúng mực (juste milieu) ở giữa hai tính trái ngược, giữa sự bất cập và sự thái quá, chẳng hạn như can đảm là trung độ đúng mực (Juste milieu) giữa sự nhút nhát (bất cập) và sự táo tợn (thái quá) Mạnh Tử không chê trách chủ nghĩa chấp trung ("chấp trung gần với đạo lý"). Tuy nhiên nếu như chấp trung chỉ thiên về giữ trung đỏ cho đúng mực, loại trừ bất kỳ sự thái quá nào thì như vậy là trái với tinh thần của trung dung. Bởi vì trung dung không có nghĩa là nửa vời, lưng chừng, không nóng không lạnh... Trung dung có khi đòi hỏi sự nỗ lực, sự hy sinh cao nhất, chấp nhận những nỗi đau lớn và những niềm vui tràn trề… Thông thường trung dung là mức độ trong sự nghiêm khắc nhưng cũng có khi trung dung cho phép một sự nghiêm khắc tột độ, nghiêm khắc đến mức tàn nhẫn. Không chê trách thái độ chấp trung, Mạnh Tử bài bác gay gắt thái độ chấp nhất: Sở ố chấp nhất giả, vị kỳ tặc đạo giã (Ta sở dĩ chán ghét kẻ chấp nhất, là vì kẻ ấy cổ giữ ý kiến thiên lệch làm hạt đạo lý). Chấp nhất là "chấp trung mà chẳng biết quyền biến, chẳng biết tuỳ nghi mà hành động cho hợp thời”, là “khư khư câu nệ một bề vậy thôi". Như vậy chấp nhất là khư khư bám lấy trung điểm, không dám chênh về phía này hoặc lệch về phía kia, có nghĩa là trong xử sự chỉ tính đến một khả năng, tự trói mình vào một khả năng. Và như vậy, nói như Mạnh Tử, là "cử động theo một bề (một khả năng)" mà "bỏ hỏng cả trâm bề (trăm khả năng)". Theo đúng tinh thần của Khổng, Mạnh, trung dung là đứng giữa (chứ không phải là khư khư bám lấy một trung điểm) và tự dành cho mình quyền tính đến và lựa chọn trong cả trăm khả năng, kể cả quyền đi tới cùng phía thái cực này hay phía thái cực kia. Lựa chọn khả năng nào là tuỳ theo thời và thế. Một lần nữa lại phải nói đến đức thời trung của Khổng Tử, nó là đức hạnh của mọi đức hạnh. Trung dung của Khổng Tử có ý nghĩa phổ quát hơn trung dung của Aristote. Trung dung của triết gia Hy Lạp cổ đại dừng lại ở sự chấp trung và giới hạn trong lĩnh vực đạo đức. Trung dung của nhà hiền triết Trung Hoa cổ đại cao hơn chấp trung và được vận dụng trong nhiều lĩnh vực. Trung dung là tâm pháp để điều tiết mọi quá trình. Bản thân mỗi quá trình có sự tự điều tiết. Do đó, trung dung không bao giờ cố định ở một điểm nào, nó là một sự biến thiên liên tục.
Quan điểm "vô ý" (được phân tích ở trên) cũng như quan điểm trung dung đều không chấp nhận thái độ chấp nhất. Tinh thần nhân chấp nhất là mặt mạnh đồng thời cũng là mặt yếu của minh triết Trung Hoa cổ đại.
Từ sự đối sánh chiều sâu triết học (phương Tây) và minh triết (phương Đông) F. Jullien đưa ra những nhận định sâu sắc, lý thú.
Triết học thiên về sự biết (connaitre), minh triết quan tâm đến sự ngộ (réaliser). Người ta biết những gì chưa biết, đối tượng của ngộ là những gì đã biết (thậm chí biết quá nhiều). Ai cũng biết mình trước sau sẽ chết, mấy ai ngộ được điều này. Ai cũng biết đời mình là như thế, mấy ai ngộ được thân làm tội đời, đời làm tội thân như thế nào... Biết dễ, ngộ rất khó... Cho nên triết gia thích nói, hay nói, lắm lời. Người minh triết ít nói, thường là chăng có gì để nói…
Triết học quan tâm đến chân lý, rành rọt đúng, sai. Minh triết quan tâm đến sự thoả đáng (congruence), đúng sai không quan trọng lắm, miễn là thoả đáng.
Triết học quan tâm đến sự phát hiện (révélation) chân lý, minh triết thiên về sự điều tiết [régulation] sao cho thoả đáng.
Triết học thiên về tính khái quát. Sự khái quát hoá góp phần vào sự tiếp cận bản chất.
Khái quát hoá thường được tiến hành từ một bình diện, như vậy bản chất cũng là được tiếp cận từ một bình diện. Mà một bình diện chưa phải là tổng thể. Một tỷ bình diện cũng chưa phải là tổng thể. Minh triết quan tâm đến tổng thể. Từ cách nhìn này, minh triết nhạy cảm hơn với những sự bất trắc, những sự khôn lường trong tồn tại. Từ cách tiếp cận này, minh triết nhạt] cảm hơn trong sự nhìn thấy cái này trong cái kia, thấy hoạ trong phúc, thấy phúc trong hoạ, thấy cái lợi trong cái hại, thấy cái hại trong cái lợi, thấy vinh trong nhục, thấy nhục trong vinh, thấy cái ác trong cái thiện, thấy cái thiện trong cái ác, thấy sống trong chết, thấy chết trong sống, thấy ngày trong đêm, thấy đêm trong ngày... thấy âm trong dương, thấy dương trong âm.
Đạo là con đường. Con đường của triết học bao giờ cũng dẫn tới đâu đó... tới chân lý, tới cõi chí thiện, tới cõi toàn mỹ tới miền đất hứa , tới thiên đường... tới Thượng đế, Đạo của minh triết không dẫn tới đâu cả... đạo là con đường ở đó... sự sống có thể sống được (viable), mọi sự rồi thì qua được... chỗ đi tới của đạo là ở sự đổi mới của bản thân nó.