Thứ Sáu, 22 tháng 7, 2022
Lan man miền Tây [kỳ 1]
Lan man miền Tây [kỳ 2]
Lan man miền Tây [kỳ 3]
Lan man miền Tây [kỳ cuối]
Siêu lý của tình yêu
Nhà thơ Khương Hữu Dụng và con trai - Đại tá Khương Thế Hưng (bên phải) |
Thứ Hai, 11 tháng 7, 2022
Giờ Thứ 25 - Thái Kế Toại giới thiệu
CUỐN SÁCH ĐI TÌM 33 NĂM
THÁI KẾ TOẠI
GIỜ THỨ 25: LỜI GIỚI THIỆU, CHƯƠNG THỨ NHỨT
Hay là Uất - Hận … Trần Gian
Bản Việt Văn Của Lê Ngọc Trụ Và Võ Thị Hay
Theo Bản Dịch La Vingt - Cinquième Heure Của Monique Saint - Côme
Nxb Gió Bốn Phương, Saigon 1967
THAY LỜI TỰA
Đối với Xã hội kỹ-thuật-hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết-giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa.
Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến-hóa kỹ-thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ-thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm.
Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Kogura, trong truyện:
"Sau rốt, Chúa lại đến phải xót-thương con người, như Chúa đã "từng thương-hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên "lượn sóng trận đại-hồng-thủy, vài người thật là người, còn giữ được "chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai-"ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được "bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử".
Lời dịch giả
TIỂU SỬ TÁC GIẢ
Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie.
Học triết-lý và thần-học tại Đại-học-đường Bucarest và Heidelberg (Đức).
Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi-phẩm Calligraphie sue la neige được giải-thưởng Hoàng-gia về thi-ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie.
Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế-chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi-sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát thủ-tướng dân-chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh-vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi-phẩm này là ông suýt bị bọn "cơ-quan sắt" thủ tiêu.
Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển "Bờ sông Dniestr bừng lửa", xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác-phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, "đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi-sĩ không thể không công phẫn".
Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại bộ ngoại giao Roumani ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức-quốc-xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức).
Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển "Giờ thứ hai mươi lăm". Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp-văn và cho xuất bản ở Paris (1949).
Đây là một trong những tác-phẩm bi-đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: "Tôi tưởng không còn tìm ra một tác-phẩm nào ý-nghĩa hơn, phác họa rõ-ràng hơn tình-trạng hãi-hùng mà nhân-loại đang bị chìm-đắm".
Tác-giả quyển sách bán chạy nhất- bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển- lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác-giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh-vực phát-xít.
Trong một bài tự thuật, Virgil viết: "...Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt "ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên-cớ giản-dị để quần "chúng bóp chết ta...
"Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên...
"Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh-cửu làm khuôn vàng thước ngọc..."
Thi sĩ đã đi tu.
Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu-ước đến làm lễ thụ phong linh-mục giáo-hội Chính-thống tại nhà thờ Lô-ma-ni ở Ba-lê.
Làng Fântâna
- Em không thể tin rằng anh đi được!
Suzanna vừa nói vừa ôm siết Iohann Moritz vào mình. Nàng để tay lên đầu anh và vuốt nhẹ mớ tóc đen. Moritz lùi một bước, nói:
- "Tại sao em không tin? Ngày mốt, sáng sớm thì anh đi". Chàng trả lời, giọng cứng cỏi. Nàng đáp nhỏ:
- Em biết rồi.
Họ đứng gần một hàng rào. Trời mát lạnh vì đã quá nửa đêm. Moritz cầm tay Suzanna, rồi bỏ xuống, nói:
- Bây giờ, thôi, chào em!
- Ở nán thêm chút nữa, anh.
- "Sao em cứ muốn anh ở nán thêm?". Giọng chàng quả quyết hơn: "Đã khuya quá rồi. Mai anh còn phải đi làm sớm".
Nàng không trả lời, nép sát mình vào Moritz. Mở hở áo anh ra, nàng đặt gò má vào ngực anh và ngó lên trời, nói:
- Sao đẹp quá!
Moritz chờ một chuyện quan hệ hơn. Anh tưởng nàng biểu ở nán lại để nói chuyện ấy, thế mà nàng lại nói chuyện sao trên trời. Anh xê ra, muốn rời nàng, nhưng nhớ lại mình phải ra đi, và phải vắng mặt ít lắm là ba năm, nên anh bèn nhìn sao để nàng vui lòng. Suzanna hỏi:
- Phải chăng mỗi người đều có một vì sao bổn mạng, và khi họ chết thì sao rụng không anh?
- "Anh chẳng biết gì cả!". Và chàng nhứt định đi về, nên nói: - Thôi chào em!
Nàng cố hỏi thêm:
- Phải chăng chúng ta cũng có ngôi sao của chúng ta trên ấy không anh?
- Cũng như mọi người. Ở trên ấy, hay ở trong ta.
Moritz nâng đầu Suzanna ra khỏi ngực. Anh bước đi. Nàng cầm tay anh đưa đến đầu đường. Nàng nhìn sao, ngó Moritz rồi nói:
- Em chờ anh tối mai.
- Nếu trời không mưa!
Suzanna muốn đi theo anh và van anh phải đến, dẫu trời mưa. Nhưng Moritz đi quá mau, đã khỏi khúc quanh đường, khuất sau miếng vườn. Nàng đứng yên lặng, vuốt áo, phủi mấy cành nhỏ dính ở hông. Trước khi vô sân, nàng nhìn lại đám cỏ nhàu nát, dưới cây gồi lúc nãy hai người đã nằm kề. Mũi nàng còn giữ hơi của Moritz, một thứ hơi lẫn các mùi cỏ nát, thuốc lá và hột trái anh đào.
Moritz băng đồng về nhà, vừa đi vừa huýt sáo. Anh mặc quần lính đen, áo sơ-mình trắng cổ hở, đi chân không. Đã mấy lần, anh ngưng huýt sáo và ngáp dài. Đoạn nhớ lại người đàn bà anh vừa chia tay, nghĩ đến Suzanna, anh muốn mỉm cười: "Hừ! Chuyện ngôi sao... Đàn bà thật trẻ con. Họ hỏi toàn những chuyện vô ích!". Rồi nhớ tới cuộc hành trình anh định đi trong hai ngày nữa. Anh nghĩ tới nước Mỹ. Thét rồi không thèm nghĩ ngợi chi hết. Anh lại huýt sáo. Buồn ngủ quá! Phải mình được ở nhà liền bây giờ để ngủ. Mai còn phải dậy thật sớm, ngày làm công chót mà! Kìa trời đã hừng đông. Còn vài giờ nữa là sáng. Nghĩ đến đó, Moritz rảo bước thật mau.
Vừa hừng sáng, Moritz ghé lại máy nước trong làng, mở rộng áo sơ-mi ra, đưa tay bụm nước rửa mặt, rửa cổ. Anh vừa đi ra giữa lộ vừa vuốt tóc cho tay khô, sửa lại bâu áo chớ không gài nút. Anh nhìn cảnh làng, sương mù màu sữa đục tan lần. Đó là làng Fântâna xứ Roumanie. Moritz sanh trưởng nơi đây được 25 năm rồi. Và hiện giờ, trong lúc anh ngắm quê nhà chỉ có những nóc gia bé nhỏ với ba gác chuông của ba nhà thờ: Chính thống giáo, Thiên Chúa giáo và Cơ đốc giáo, anh lại nhớ đến câu nói của Suzanna hôm qua: "E rằng anh phải tiều tụy vì không sống ở đây nữa!". Anh đã cười, cho là câu nói đùa và trả lời rằng, anh đã thành nhơn, chỉ có đàn bà mới tiều tụy thôi. Nhưng bây giờ anh cảm thấy một cái gì luyến tiếc xâm chiếm anh. Anh vội huýt sáo, ngoảnh mặt đi.
°
GIỜ THỨ 25: CHƯƠNG THỨ HAI
CHƯƠNG THỨ HAI
Moritz qua xứ Hongrie được hai giờ. Ba người Do-thái và anh chờ xe trước một sân ga. Họ sợ không dám vô phòng khách của nhà ga. Xe lửa tới.
Bác sĩ Abramovici, Strul và Hurtig leo lên một toa hạng nhì. Moritz đứng dưới trao đồ cho họ, qua cửa sổ xe. Đến phút chót, anh nhảy lên bàn đạp. Hurtig nắm tay anh, kéo vô trong và đóng cửa lại. Mặt Moritz tái xanh. Anh sợ, khi nghĩ đến phải bị bỏ ở lại sân ga. Rồi anh sẽ làm sao một mình, không có bác sĩ và hai người kia. Anh thầm cám ơn Chúa được leo lên xe kịp.
Bác sĩ và Hurtig kiếm được chỗ ngồi liền. Strul và Moritz dòm khắp các toa xe. Đèn tắt, hành khách ngủ hết, không còn một chỗ trống nào. Hai người bèn ngồi lên va-li, để chỗ đường đi trong toa xe. Một lát có người đàn bà xuống xe. Strul liền ngồi vào chỗ trống trong buồng xe, chỉ còn Moritz ở ngoài. Bác sĩ mở cửa buồng xe kêu anh dặn: "Đừng ngủ quên, họ ăn cắp đồ nghe!".
Moritz đáp:
- "Tôi không ngủ đâu!". Nhưng bác sĩ vừa đóng cửa thì Moritz ngủ liền. Anh buồn ngủ quá, nên nhắm mắt ngủ mê mệt, đến Budapest mới thức giấc.
Khi xuống xe, trời sáng trắng. Moritz khát nước quá, nhưng Hurtig không cho anh vô quán giải khát, sợ lính tuần thành gặp và biết anh vượt biên giới, thì cả bốn người sẽ bị bắt luôn.
Bác sĩ nói: "Để rồi chị tôi sẽ cho anh một ly to, đầy nước!".
Họ đi ra xa. Khỏi ga, họ đứng lại một lúc, trước dãy xe cộ. Hurtig nói:
- Cẩn thận hơn hết là ta nên đi bộ. Người lái xe có thể nhìn ra chúng ta và tố cáo. Đừng khờ dại đến đỗi bị bắt khi tới được Budapest!
Họ liền đi bộ. Moritz vác va-li trên vai và xách ở tay. Đồ rất nặng, nhưng anh đi dễ dàng hơn đêm trước, lúc vượt qua biên giới. Anh nghĩ thầm: "Chắc đồ này ít nặng hơn là bởi mình đi trên con đường nhựa", và anh ấn mạnh bàn chân trên đường nhựa lạnh, vì anh không mang giày. Xe điện chưa chạy, vì còn sớm. Moritz ngó mấy đèn đường tự nhiên tắt bèn hỏi Hurtig, ai tắt đèn. Hurtig nổi giận, rầy:
- Đồ con lừa! Đừng nói tiếng Roumain nữa! Ai mà nghe được thì ngồi tù cả lũ.
- Vậy cấm tôi nói tiếng Roumain sao?
- Không cấm, nhưng người Roumain ở xứ này đều bị đày đi trại giam hết. Xứ Hongrie nghịch với xứ Roumanie, anh biết chưa?
- Vậy phải nói bằng tiếng gì bây giờ?
Bác sĩ xen vô đáp:
- Nói bằng tiếng Do-thái. Ở Hongrie, dân Do-thái không bị bắt như ở Roumanie. Tới bây giờ thì chưa thấy có luật bài Do-thái.
Moritz không dám nói tiếng Roumain, nhưng anh cũng không nói tiếng Do-thái. Anh mệt lử rồi.
Tới nhà bà chị của bác sĩ, ở đường Petofi, thì Moritz mệt luỗi, lảo đảo sắp ngã vì mấy va-li quá nặng. Anh để nó xuống trước cửa. Một chị ở phụ xách lên lầu. Moritz đi theo chị vô bếp. Chị này mặc áo xanh, màu áo làm cho Moritz nhớ lại có thấy đâu đây. Thì ra anh nhớ lại Suzanna lúc trước cũng mặc cái áo giống màu này.
Chị bác sĩ Abramovici, người mập mạp, mặc một cái áo ngủ bông to màu đỏ. Bà nói chuyện huyên thiên và lẹ lắm. Bà cho gọi Moritz lên phòng có bác sĩ, Hurtig, Strul và Nagy, anh rể của bác sĩ, để uống nước suối. Moritz đứng uống, vì không đủ ghế cho mọi người ngồi. Chị bác sĩ đem một bình trà để giữa bàn, và ngó Moritz, nói:
- Không đủ chỗ, thôi anh bưng trà xuống nhà bếp uống đi.
Nagy nó bằng tiếng Hongrois:
- Ừ, như vậy được, ta còn nói nhiều chuyện quan trọng với nhau.
Moritz biết mấy người này không muốn anh ngồi cùng bàn với họ. Nhưng anh không phật lòng. Chị ở tên Iulisca vui mừng thấy Moritz xuống nhà bếp. Chị lấy ba lát bánh mì thoa bơ và thịt jambon đưa cho Moritz. Anh ăn ngấu nghiến, vì đói quá. Xong, anh muốn đi tắm, nhưng chị ở bảo anh:
- Anh đi chợ với tôi, lúc về sẽ tắm.
Moritz xách giỏ và đi mua đồ với Iulisca. Và từ đó về sau, mỗi sáng anh đều đi chợ với chị này.
Đi chợ về, anh bửa củi, ôm vô nhà bếp. Khi ăn xong, anh rửa chén với chị ở. Chị ấy vui tính, giễu cợt luôn nên Moritz lấy làm thích mà ở nhà này.
Mải làm việc ở nhà bếp và nói chơi với Iulisca mà Moritz quên rằng trọn buổi sáng anh không gặp bác sĩ cùng mấy người kia. Trưa lại, anh hỏi thăm, chị bác sĩ nói ông này còn ngủ. Moritz lo làm công chuyện và không nhớ tới nữa. Tối đến, khi đi ngủ, anh nhớ lại, trọn ngày anh không có nói chuyện với họ tiếng nào. Họ có ăn tại nhà, vì sau buổi điểm tâm anh nhớ chắc đã rửa nhiều dĩa. Chiều năm giờ uống cà-phê, họ cũng còn ở đó, vì anh đã rửa năm cái tách. Nhưng anh không nhớ bữa ăn mấy người, vì chị ở bưng xuống nhà bếp một chồng dĩa, anh lo rửa nên quên đếm. Anh không ngủ được vì lo lắng. Anh nhớ, hình như số dĩa ít hơn, khi ăn buổi tối.
Anh nghĩ: "Chắc Hurtig đi về nhà bà con rồi". Anh tiếc sao Hurtig đi mà không từ giã anh. Nhưng không biết chừng y có ăn buổi tối, mà mình lại tưởng tượng dĩa ít hơn chăng? Bữa sau, Moritz mới thấy mình đoán trúng. Hurtig đã đi hôm qua. Chiều đó, y không có dùng bữa ở nhà Nagy. Bác sĩ và Strul thì còn ở lại. Lối mười giờ, chị Iulisca đem giày của họ xuống và hai người đánh bóng kỹ lưỡng. Moritz muốn đem giày lên nhà trên, nhưng chị ở cản anh và xách đem lên một mình. Lúc trở xuống nhà bếp, chị nói:
- Bà chủ cấm tôi đừng để cho anh lên nhà trên. Tính bà như vậy đó. Bà cứ sợ bị ăn cắp đồ.
Trưa lại, bác sĩ Abramovici kêu Moritz lên phòng văn, và biểu:
- Anh xách va-li này và đi với tôi.
Moritz vui mừng vì thấy bác sĩ không quên anh.
Ra tới đường, bác sĩ nhìn anh rồi giận dữ, hỏi:
- Tại sao anh đi chân không?
Moritz hổ thầm, nhưng anh không có giày. Anh dòm chung quanh thấy những người đi đường không ai đi chân không cả. Anh cúi đầu lầm lũi đi. Anh ngó kỹ từng cặp chân mỗi người qua lại. Ai ai cũng mang giày hoặc mang ủng. Anh thẹn quá, muốn đất sụp chôn anh cho rồi. Anh tìm cách để xin lỗi bác sĩ, nhưng ông này đi trước anh, tay thọc vô túi, như không biết tới anh nữa.
Hai người đi đến một ngôi nhà cũ, có vườn hoa nhỏ. Bác sĩ xách va-li vô nhà một mình. Moritz đứng chờ ngoài cửa. Anh đọc tấm bản treo trên tường có chữ "Sứ quán"; rồi ngó kẻ qua người lại trên đường.
Không bao lâu, bác sĩ trở ra, tay không. Ông vừa xuống nấc thang vừa cười. Chợt thấy đứng dựa tường, ông không cười nữa, đứng lại, thọc tay vô túi, ra dáng nghĩ ngợi. Trán ông xạm lại. Trên đường về, ông không hé môi.
Moritz đi cách xa ông, để người qua lại không biết ông đi chung với người không mang giày. Anh không muốn bác sĩ thẹn vì anh.
Đến trước cửa nhà Nagy, bác sĩ ngừng lại chờ Moritz đi tới, và nói:
- Yankel, trường hợp anh khó lắm. Ủy ban Do-thái ở Budapest lo giấy tờ chúng tôi sang Mỹ, không muốn làm cho anh. Tôi có năn nỉ và nói giúp giùm anh, vì anh cũng đi với chúng tôi, nhưng vô hiệu. Họ không muốn giúp người có đạo. Ủy ban Do-thái chỉ lo cho người Do-thái thôi. Vì thế nên người ta gọi ủy ban ấy là "Ủy ban Do-thái". Còn anh, anh không phải Do-thái. Phải vậy hôn?
- Tôi không phải Do-thái, bác sĩ à!
- Vậy thì họ có lý. Nhưng tôi tiếc là chuyện thật như thế. Tôi muốn đem anh sang Mỹ với tôi. Vì tôi không phải là người bỏ bê anh đâu.
Bác sĩ Abramovici mở bốp lấy một xấp giấy bạc ra đếm. Moritz nhìn giấy bạc Hongrois và lấy làm lạ sao khuôn khổ nhỏ quá.
Bác sĩ nó:
- Đây là 20 pengoes để trả công anh. Số tiền này nhiều. Ở đây phải làm trong một tuần lễ mới lãnh số tiền này được. Anh chỉ có vác va-li trong vài giờ mà lãnh được tới bấy nhiêu đấy.
Moritz không hề nghĩ đến việc đòi tiền vác va-li bao giờ. Anh làm việc không phải vì tiền, nhưng bác sĩ cứ đưa hoài, thành thử anh phải lấy cất vô túi áo. Bác sĩ nói tiếp:
- Điều quan trọng hơn hết là đem anh được ra khỏi trại giam và dẫn anh đến đây. Nếu chúng tôi không giúp anh vượt khỏi trại giam, thì chắc anh sẽ chết rục trong ấy. Nhưng tôi không đòi công anh chút gì, bởi tôi không phải là người đi kể ơn đã làm giùm cho người khác.
Moritz ở Hongrie được một tuần. Ngày ngày anh đều làm công việc như buổi ban đầu: đi chợ với Iulisca, bửa củi, đổ rác và rửa chén. Chiều, anh rửa nhà bếp, lau gạch và nấc thang lầu.
Một buổi sáng chúa nhựt, Nagy gặp anh trong hành lang, bèn gặt gỏng hỏi:
- Mày chưa tìm được chỗ làm sao? Đã một tuần nay mày ăn ở đây. Bộ muốn tao nuôi mãn đời à?
Rồi y đi ra, không nói gì thêm. Moritz ăn năn sao không đi kiếm việc làm. Chính anh cũng không nghĩ đến nữa. Anh tưởng làm như vậy thì kể như anh là người giúp việc trong nhà Nagy rồi.
Anh tự mắng: "Sao mình ngu dại đến thế, chẳng lo kiếm chỗ làm. Họ nói có lý. Họ không thể nào nuôi mình hoài!".
GIỜ THỨ 25: CHƯƠNG THỨ BA
CHƯƠNG THỨ BA
Viên chức của xưởng nói:
- Anh được cắt làm một công việc dễ. Anh còn đau. Vả lại người ta đưa đến đây toàn kẻ đau yếu.
Y ngó Moritz một cách thù ghét. Y đọc lại mảnh giấy cầm tay, rồi nghi ngờ ngó Moritz nữa. Từ hai năm nay ở Đức, Moritz đều bị nhìn như thế. Anh luôn luôn bị nghi có can án, mặc dầu anh không có tội gì, nhưng chắc chắn một ngày kia anh sẽ phạm tội.
Viên chức hỏi:
- Anh là Hongrois hả? Tôi có nhiều dân Hongrois rồi, nhưng họ không làm vừa ý tôi. Phần anh, chắc có khác hơn.
Rồi y mỉm cười và đọc lớn lên:
- Moritz Ianos, dân Hongrois, 32 tuổi, thợ không chuyên môn, tới nước Đức ngày 21-6-1941.
Moritz tự biết từ hai năm nay, đã trở thành dân Hongrois, vì giấy tờ biên như vậy. Anh ngó theo viên chức đang đọc bảng các xưởng các hãng và trại giam ở Đại Đức Quốc xã, những nơi mà anh đã làm công việc từ trước tới giờ. Bảng kê dài lắm. Các loại xưởng kỹ nghệ đều có trong ấy. Moritz thấy tự hào đã làm trong lắm nơi như vậy. Một lúc, anh thoáng thấy lại hàng chục trại giam có rào dây kẽm gai, hàng chục trại anh có làm việc, các hãng, các thành phố, các nỗi đau đớn anh đã chịu đựng. Anh tưởng viên chức sẽ thán phục lòng can đảm của anh đã đương đầu với bao thử thách đau khổ trước khi đến đây. Nhưng viên chức chỉ xem sơ qua tên các chỗ Moritz đã khổ sở trải qua, và đọc đoạn chót: "Ra nhà thương, thợ ngoại quốc, số 707, ngày 8-3-1943".
Moritz lạ lùng thấy một người đọc bảng kê khai những nỗi đau khổ của anh mà không chút chạnh lòng. Viên chức đó chỉ lấy viết chì gạch thêm ở góc, nơi chỗ còn trống: "Trình diện tại xưởng làm nút áo Knopf Und Sohn, ngày 10-3-1943". Đoạn y cất tấm thẻ trong hộc tủ với mấy thẻ khác và ngó Moritz, nói:
- "Kỷ luật, vâng lời, làm việc, trật tự!". Đó là châm ngôn của các thợ ngoại quốc tại xưởng này. Trong xưởng cũng có thợ đàn bà Đức. Chuyện này quan trọng. Anh phải để ý: mỗi liên lạc với đàn bà Đức là bị phạt ít lắm năm năm tù. Ông giám đốc xưởng rất nghiêm khắc về khoản này. Mỗi đàn bà Đức đều có dán trên da một miếng giấy nhỏ, giấy ấy cho anh được quyền lãnh năm năm tù. Nếu một khi anh đặt tay và động những chỗ không được phép rờ đến trong thân mình họ, thì anh đã biết cái gì chờ anh rồi. Đừng tưởng anh sẽ được cái gì khác. Tên Hongrois, trước anh, đã ngồi tù. Tôi có cho nó biết, hồi mới tới, như tôi cho anh biết hôm nay, nhưng nó không chịu đếm xỉa đến lời cảnh cáo của tôi. Nó tưởng trời tối và đã trốn trong cái mền với người đàn bà thì không ai thấy được. Nhưng ở tai Đại Đức Quốc này, anh không thể làm một cử động gì mà không bị bắt liền. Dầu ở trong mền cũng vậy. Anh không thể hành động mà chúng tôi không hay tức khắc. Chúng tôi đoán được những gì anh suy nghĩ trong đầu. Ý tưởng của anh. Tất cả những ý tưởng của anh! Sang qua điểm thứ nhì: xưởng làm việc cho chiến tranh. Tất cả những gì anh thấy và nghe đều là cơ mật quân sự. Thợ ngoại quốc không được quyền biết xưởng sản xuất thứ gì, được bao nhiêu, và phương pháp sản xuất như thế nào. Nếu anh muốn tìm hiểu, thì đầu anh sẽ rơi. Tháng giêng rồi, một thợ dân Ý bị hành hình. Hiện giờ một thợ dân Tchèque sắp bị xử vì muốn biết bí mật của xưởng Knopf Und Sohn.
Viên chức đứng nói chuyện rồi đi ra cửa, Moritz theo sau. Y nói:
- Tới bây giờ, không một người thợ Hongrois nào làm ở đây mà tôi bằng lòng. Họ ngồi tù cả. Một trong bọn ấy bị hai chục năm khổ sai, vì muốn phá hoại. Ước mong anh là một ngoại lệ, dẫu rằng tôi không tin có ngoại lệ!
Viên chức ngừng trước một cái máy chở thùng chạy trên đường rày. Tại đầu đường rày, một người thợ lấy từng thùng và chồng lên trên chiếc xe nhỏ gần y. Lúc viên chức đến gần người thợ, thì cái xe nhỏ chất đầy thùng, chạy trên đường rày. Một cái xe khác, trống không, chạy tiếp đến gần người thợ. Người thợ như không thấy có sự thay đổi, cứ tiếp tục lấy từng thùng, cái này đến cái khác, do dây trân chuyền tới, và chất đầy trên chiếc xe nhỏ trống không ấy, như anh đã làm lần trước. Mấy thùng đồ xem nặng lắm.
Viên chức nói:
- Đấy là công việc của anh kể từ ngày mai. Dễ lắm. Anh chỉ lấy mấy thùng đầy đồ trong xưởng chuyền ra và để lên trên chiếc xe trống đặng nó chở vô kho. Trật tự rất nghiêm xác, đó là luật quan trọng hơn hết. Anh có làm việc trong xưởng chưa?
Moritz ngó người thợ cúi xuống một cách máy móc, gồng tay một cách máy móc, ôm thùng nút để trên xe, không nghĩ đến việc y làm, và cũng không nghĩ đến việc gì khác cả. Y cũng chẳng tưởng đến những người đang đứng gần y. Không chừng y cũng chẳng thấy họ nữa.
Viên chức cắt nghĩa:
- Máy móc không dung tha cái gì vô trật ự. Máy móc không dung tha tình trạng hỗn loạn, sự lười biếng, trễ nãi của con người đâu!
Moritz ngó viên chức. Y nói tiếp:
- Anh không được phép nghĩ đến chuyện khác. Máy móc sẽ phạt anh ngay. Trí óc anh phải chăm chú theo người máy, bạn đồng nghiệp anh, người thợ kỹ thuật đã đem cái thùng tới đưa anh. Anh chỉ phải cúi xuống đỡ lấy trên tay nó và đặt lên xe!
Viên chức mỉm cười.
Moritz ráng kiếm cánh tay của người máy, bạn thợ kỹ thuật của anh, nhưng anh không thấy đâu cả. Anh ngó viên chức. Y vẫn mỉm cười, nói tiếp:
- Người máy không tùy theo người ta. Anh phải tùy nó và điều hòa những cử động của anh cho ăn khớp với những cử động của nó. Sự ấy đương nhiên phải vậy, vì nó là một người thợ hoàn bị, còn anh thì không. Không một người nào có thể là một người thợ hoàn hảo hết. Chỉ có máy móc! Ta phải học nó để làm việc. Anh hiểu chưa? Nó sẽ dạy anh kỷ luật, trật tự và sự hoàn mỹ. Có bắt chước nó, anh mới trở nên một người thợ nhứt hạng. Nhưng anh chẳng khi nào thành thợ nhứt hạng được. Anh là dân Hongrois, mà trong xưởng này, dân Hongrois nhìn ngó đàn bà, chớ không nhìn ngó máy móc.
Moritz muốn nói anh là dân Roumain, chớ không phải dân Hongrois. Anh định muốn thuật trở lại đời anh, các khám đường anh bị giam, sự đánh đập anh đã chịu đựng ở Budapest, nhưng viên chức đang trầm trồ ngó máy móc lần lượt đưa đến mấy thùng trắng tươi, lặng lẽ và cách khoảng đều đều. Ngó máy móc, rồi y ngó qua Moritz, tỏ vẻ khinh bỉ. Moritz cảm thấy sự khinh bỉ bao trùm anh, nên anh thôi, không thuật chuyện ngồi tù ở Budapest và chuyện viên thanh tra Varga.
Viên chức nói:
- Con người là một tên thợ hạ đẳng. Nhứt là dân Phương Đông. Tụi anh là dân Phương Đông, tụi anh thua kém máy móc. Anh chẳng những là một người, anh còn là người Phương Đông và dân Hongrois, vả lại anh mới vừa ra nhà thương nữa! Một bịnh nhơn! Anh chỉ là một kẻ bịnh hoạn thôi!
Moritz thấy rõ viên chức khổ sở, anh muốn nói với y rằng anh ráng hết sức mình để làm việc. Nhưng hắn lại nói tiếp:
- Anh làm sao bì lại với máy móc. Anh phải biết tự xét lấy anh!
Rồi ngó Moritz từ đầu đến chân, y nói:
- Thật là bất kính, thật là ngạo mạn đối với máy móc, mà có ý tưởng dám so sánh máy móc với anh. Chúng nó hoàn toàn tuyệt xảo. Còn anh... Người ta không nên đưa cho nó những tay sai như vầy! Thôi, theo tôi. Tôi sẽ phát quần áo làm việc cho anh. Anh chỉ được vô xưởng khi mặc sắc phục thợ. Sắc phục thợ như sắc phục mục sư. Nhưng về chuyện ấy, anh không thể nào hiểu được. Tụi anh, dân Hongrois, chỉ lo ngó đàn bà. Toàn là đồ dã man!
GIỜ THỨ 25: CHƯƠNG THỨ TƯ
CHƯƠNG THỨ TƯ
Mục sư Koruga trả lời thơ Traian liền, cho hay ông và bà mạnh giỏi, tại làng Fântâna tất cả đều như trước. Chỉ riêng Moritz vẫn chưa về, và không ai biết nó trở nên thế nào.
Ông biện lý Damian vô sân lúc mục sư đọc lại bức thơ vừa viết xong. Ông về đồng nghỉ hai ngày với mục sư. Thường thường, mỗi tuần ông đều về chơi với mục sư. Hai người đi ra nhà bưu điện bỏ thơ.
Dọc đường, mục sư đưa thơ của Traian cho ông biện lý xem và nói:
- Traian rất lo sợ cho chúng tôi.
Ông biện lý đọc bức thơ và mỉm cười đáp:
- Anh Traian là thi sĩ. Anh cứ thêm thắt cho to chuyện. Chắc anh sẽ bịnh vì làm việc quá sức nhiều!
Trong sân tòa thị sảnh có nhiều người tụ họp. Xe của trạm phu chưa đi. Mục sư muốn đưa thơ gởi, nhưng người phu trạm từ chối nói:
- Chúng tôi không nhận thơ gởi ra nước ngoài. Sáu giờ chiều nay, nước Roumanie đầu hàng. Xứ sở ta bị binh Nga chiếm. Vua có loan tin trên đài phát thanh rồi!
Mục sư cất thơ vô túi.
Chiều hôm ấy, thôn dân tựu trong sân nàh mục sư để hỏi ý kiến. Binh Nga đã vô thành kế cận, thiên hạ chạy về đồng trốn. Họ thuật lại nhiều chuyện ghê gớm. Đàn bà bị hãm hiếp, bị thắt cổ. Đàn ông bị bắn ngoài đường phố.
Mục sư bước ra bao-lơn. Thôn dân buồn rầu lo sợ. Mục sư nói:
- Rồi người khác sẽ đến cai trị nước ta. Họ còn tàn ác hơn mấy người trước, vì họ là kẻ ngoại bang. Nhưng người sùng đạo biết rằng tất cả nền thống trị dưới trần đều tàn khốc, ta phải đau đớn chịu đựng. Chân lạc-quốc chỉ là Thiên đàng ở trên Trời.
Một dân làng hỏi:
- Ta có nên trốn trong rừng để chiến đấu chống kẻ xâm lăng không? Cha dạy thế nào?
- Thiên Chúa giáo không xúi tín đồ đánh giặc để giành lại quyền hành ở thế gian.
- Vậy Thiên Chúa giáo khuyên ta đưa tay cho họ xiềng xích sao? Thiên Chúa giáo có muốn ta phải khoanh tay điềm nhiên nhìn kẻ khác hãm hiếp vợ con, đốt thiêu nhà cửa ta không? Đạo Thiên Chúa không đòi hỏi như thế được. Nếu mà bắt buộc, thì chúng tôi không về với Thiên Chúa giáo nữa!
Các thanh niên trong làng đều tán thành. Mục sư điềm tĩnh nói:
- Chúa Jésus dạy tín đồ phải phục tùng quyền thống trị trên thế gian. Các con nói sự thống trị hiện nay ở xứ Roumanie là của kẻ ngoại bang, tàn bạo và tà giáo. Tôi cũng biết, nhưng khi xưa những người cai trị tại xứ Chúa Jésus giáng sinh cũng là kẻ ngoại bang, tàn bạo và tà giáo vậy. Các con hãy nghĩ đến muôn ngàn trẻ nít bị cắt cổ ở Judée, theo lịnh của vua Hérode sau ngày giáng sinh của Chúa Jésus. Cách thống trị thật tàn ác. Có lẽ cũng tàn ác như cách thống trị của Cộng sản. Nhưng Chúa Jésus không phản kháng và không xúi giục ai phản kháng. Ngài nói: "Trả cho César cái gì của César, trả cho Trời cái gì của Trời".
Một thanh niên hỏi:
- Vậy Cha đọc kinh cầu nguyện cho Staline sao? Nếu Cha đọc kinh cầu nguyện cho Staline tức là Cha đọc kinh cầu nguyện cho Quỷ vương, kẻ phản đối Đạo Thiên Chúa sao? Và như thế, chúng tôi không để chân tới Nhà thờ nữa!
- Nếu nhà cầm quyền ra lịnh tôi đọc kinh cầu nguyện cho Staline, như ngày nay tôi đọc cho vua, thì tôi tuân lịnh. Tôi biết Staline vô thần và ngoại đạo. Nhưng kẻ ngoại đạo cũng là người. Nếu linh hồn họ đầy tội lỗi là vì họ đi lạc hướng, xa đường lối của Chúa. Một mục sư phải đọc kinh cầu nguyện cho tất cả mọi người, và nhứt là cầu nguyện cho những linh hồn đầy tội lỗi.
Một thanh niên nói:
- Cha tha hồ đọc kinh cho Staline, nhưng phần chúng tôi, chúng tôi không đi Nhà thờ nữa.
Với giọng phản đối, anh hỏi gằn thêm:
- Còn nếu chúng tôi rút vô rừng chống lại Cộng sản để giành tự do, ngày chúa nhựt tại Nhà thờ, Cha cũng đọc kinh cầu nguyện cho chúng tôi nữa sao?
- Mục sư cũng đọc kinh cầu nguyện cho những ai chiến đấu trong rừng, trên núi, chẳng những ngày chúa nhựt mà mỗi ngày hai lần, vì cuộc đời tranh đấu của họ luôn luôn bị nguy ngập, nên họ cần phải có lời cầu nguyện của mục sư và lòng nhân ái của Đức Mẹ.
Tất cả thôn dân đều im lặng. Apostol Vasile nói:
- Nếu Cha đọc một kinh cầu nguyện cho chúng tôi, Cha sẽ bị bắn!
- Đó không phải là một lý do để tôi ngưng cầu nguyện cho các anh. Sự chết không làm nao lòng người có đạo.
- Chúng tôi rút vô rừng kháng chiến. Trước khi đi, xin Cha ban phước lành và làm lễ cho chúng con. Rồi không biết rồi đây sẽ ra sao và chúng con có trở về được chăng? Chúng con đi tranh đấu cho Thập tự giá và cho Giáo hội.
- Nếu các con tranh đấu cho Thập tự giá và cho Giáo hội với gươm giáo thì các con đi trong đường tội lỗi, vậy tốt hơn các con nên ở nhà. Giáo hội và lòng tín ngưỡng Chúa không phải bảo vệ bằng khí giới cầm tay.
- Chúng con sẽ tranh đấu cho xứ Roumanie là một nước có đạo Thiên Chúa.
Apostol Vasile chia dân làng thành từng nhóm. Phần đông quyết định rút vô rừng. Đó là những phần tử ưu tú trong làng, có cả phụ nữ và thiếu niên còn đi học.
Họ quỳ gối xuống sân cỏ.
Mục sư Koruga đọc kinh cầu nguyện và ban phép lành cho từng người.
Ông biện lý Damian cũng quỳ xuống trước mặt mục sư, nói:
- Xin Cha ban phép lành cho con nữa. Con cũng rút vô rừng với họ, để tranh đấu cho tự do loài người và cho nhân loại!
Mục sư đáp:
- Giáo đường ban phép lành cho tất cả ai đến xin.
Ông biện lý hỏi:
- Giáo đường cũng ban phép lành cho kẻ muốn làm chuyện quấy sao? Hoặc giả Cha nhìn nhận chính nghĩa của chúng con là hợp lý chớ!
- Hãy thương xót và hành động theo ý anh muốn. Nếu chuyện làm của anh chân thành phát tự cõi lòng, thì đừng sợ tội lỗi. Anh đã đi trúng đường!
Ông biện lý hôn tay mục sư như các dân làng, theo nhóm người ra khỏi sân, và rút vô rừng!
Trong nhà, bà mục sư khóc.
Các dân làng đi được hai giờ. Mục sư đọc sách để trấn tĩnh lo ngại. Nhưng hai thôn dân, không phải người trong làng, bước vô phòng sách, không cần gõ cửa. Họ mang dây băng ba màu và súng lục. Mục sư làm như không thấy khí giới, vui cười tiếp họ và nói to lên, cố ý để cho bà ở phòng bên cạnh nghe, và không muốn làm cho bà sợ hãi:
- Phải ở toàn thị sảnh kêu tôi không?
Một người nói:
- Chúng tôi có lịnh bắt ông dẫn đến Tòa án Nhân dân.
Mục sư ngó qua phòng vợ, và nghĩ thầm: "Chắc bà không nghe gì cả". Ông để cuốn sách trên ghế và ra đi.
Trước khi ra khỏi sân, ông còn ngó ngoái lại, như để vĩnh biệt.
Hai thôn dân đi giữ kèm hai bên mục sư.
Ông bước qua ngưỡng cửa, đầu ngẩng lên. Ông đi không giống như một người có tội. Ông có vẻ như trán ông đụng trời.
Và ông đi như thế trên đường làng, từ nhà ra tòa thị sảnh...
Tòa án Nhân dân do Marcou Goldenberg chủ tọa. Anh ngồi trên ghế ông Đô trưởng, trong gian phòng rộng lớn của thị sảnh.
Đầu anh cạo trọc như một tên tù. Quân Nga vừa thả anh vài ngày trước, từ trong khám giam, vì anh can tội giết ông già Lengyel. Ngồi bên mặt anh là bà Aristitza, mẹ Moritz. Marcou lựa bà làm thẩm phán vì bà là người nghèo hơn hết trong làng Fântâna. Bên trái là Ion Calugaru, đã can án giết một viên hiến binh bằng búa, cách mấy năm nay. Vì thế, nên Marcou mới chọn y.
Mục sư chào họ. Marcou ngó ông chăm chăm, không chào đáp lại.
Aristitza và Calugaru ngó xuống, như không thấy mục sư. Họ đã xử nhiều người khác, trước khi mục sư đến. Lúc ấy trong phòng chỉ còn có mấy vị thẩm phán và hai thôn dân mang dây băng ba màu.
Marcou hỏi tên, tuổi và nghề nghiệp của mục sư, rồi nói:
- Làm mục sư không phải là có một nghề! Thợ giày đóng giày, thợ may may áo. Mỗi thợ sản xuất một món đồ. Ông có thể nói với tôi, mục sư sản xuất cái gì không?
Aristitza và Calugaru vẫn cúi mặt xuống. Hai thôn dân cười sau lưng mục sư.
Marcou nói:
- Ông không có một nghề gì hết! Thật là một trọng tội mà chẳng học lấy một nghề gì cả. Ông sống ăn nhờ các thợ!
Mặt Marcou vàng như vỏ chanh. Môi mỏng dánh và tím ngắt. Mục sư nhớ đến lão già Goldenberg, cha Marcou, cũng có đôi môi như vậy, cũng mỏng dánh, nhưng môi lão già thì cười, môi của Marcou lại mím chặt.
Marcou hỏi:
- Ông biết tại sao ông bị đòi ra Tòa án Nhân dân không?
- Không.
- Thật câu trả lời khuôn mẫu của kẻ phản động! Không bao giờ họ biết lý do nào đem xử họ. Ông có nhìn nhận đã tổ chức đoàn phát xít đi vô rừng không?
- Tôi không có tổ chức. Tôi nhìn nhận có đọc kinh tại sân nhà tôi cho những thanh niên trong làng đến xin cầu nguyện cho họ.
- Không phải bọn phát xít? Tại sao ông đọc kinh cầu nguyện cho họ, nếu không chẳng phải người rửa tội cho bọn phiến loạn ấy?
- Tôi biết mấy thanh niên đến xin tôi cầu nguyện đang ở trong một tình thế khó khăn. Tôi cầu nguyện Đức Mẹ Đồng Trinh giúp họ, chỉ dẫn họ con đường chân lý và công bằng!
- Tòa án Nhân dân xử treo cổ ông. Ông có tội tổ chức cuộc võ trang phản nghịch phá rối trật tự công cộng.
Aristitza và Calugaru ngước mặt lên, sợ hãi, ngó Marcou, nhưng hắn mắc viết, không ngó họ.
Hai người xây lại nhìn mục sư, thấy ông đang hiền từ mỉm cười với họ.
Marcou nói:
- Cuộc hành quyết sẽ thi hành ngày mai, sáng sớm, trước dân chúng.
Phiên xử của Tòa án Nhân dân bế mạc.