Lan man miền Tây, tùy bút đặc sắc của nhà văn Nguyên Ngọc [kỳ 3]
-----
Tôi còn có một chuyến đi thấm thía ở Cà Mau, chắc chỉ là Cà Mau thuở ấy nay khó còn. Chuyến này Nguyễn Trọng Tín bận, tôi đi với Nghĩa, em ruột Tín, trắng trẻo, đẹp trai và cao lớn hơn anh.
Hóa ra mũi Cà Mau không phải là điểm cực Nam của đất nước, nhìn bản đồ thì rõ, bởi cái mũi ấy cuối cùng lại cong ngược lên. Điểm cực Nam là một nơi gọi là Kinh Năm, và cạnh đó, Rạch Gốc. Tôi muốn đi Rạch Gốc vì đọc tài liệu của lữ đoàn 125 biết còn xác một chiếc tàu sắt của Đường mòn trên Biển Đông nằm lại ở đấy.
Lỗ Tấn viết mặt đất vốn không có đường, người đi mà thành đường. Nhưng đi trên biển thì sao? Biển nhấn chìm, xóa sạch tất cả trong màu xanh phẳng lì, thản nhiên và bất tận của nó. May còn một xác tàu trong một rạch kín bùn lầy, tôi muốn thử đi tìm, để được nhìn. Ấy là vào đầu những năm 1980 của thế kỷ trước, tôi là người hoài cổ, tôi yêu và nhớ những gì chưa bị cái gọi là hiện đại vốn kiêu căng xóa mất…
Ngày ấy đi từ thị xã Cà Mau xuống tới Rạch Gốc mất trọn hai ngày. Đi tàu đò tư nhân, không hiểu sao thường do phụ nữ lái. Xuống tàu từ mờ sáng, và tàu đò thì giống hệt chiếc xe đò trên bộ cùng thời. Lúc khởi hành khách mới lơ thơ, tàu ghé lấy khách và trả khách suốt dọc đường, người đông dần lên. Ông Lê Duẩn từng ở lại miền Nam sau 1954, hoạt động lặn lội nhiều ở vùng này có nhận xét rất đúng: ở đây chưa có làng như ở Bắc và Trung, và con người còn đi, chưa dừng lại định hình, đến đất cũng chưa định hình. Người ta còn sống thành từng nhóm nhỏ dọc các kênh rạch, mỗi nhóm chỉ năm ba nhà, đúng ra là chòi, sơ sài tạm bợ trống huơ trống huếch, các nhóm cách nhau có khi đến năm ba cây số, nhà gọi là “nhà đá”, không ở nữa thì đá một đá bỏ đi, tới chỗ khác, đất mới. Hỏi thế thì trẻ con học hành thế nào, người ta bảo xóm nào cần thì thuê thầy tới ở dạy riêng.
Vậy mà vẫn có hoạt động bưu điện gửi nhận thư từ hẳn hoi, và chính các bà lái tàu đò tư này làm nhân viên bưu chính. Thỉnh thoảng bà cho tàu dừng lại ở một hàng đáy, tức là một xóm, cất tiếng gọi lớn: “Anh Hai ơi, có thơ ra nhận nghen!”. Lập tức từ trong một chòi một anh đàn ông, bao giờ cũng ở trần, nước da nâu đậm, tóc hoe vì nắng, lạch bạch chạy ra, lạch bạch vì đất ở đây là bùn đã thành đất cứng được đâu, bà lái tàu đò đã gói cái thư vào trong ni lông cột kèm một miếng gạch nhỏ, dang tay ném một phát, gói thơ rơi tõm xuống sông, anh chàng vừa chạy ra liền nhảy thùm xuống nước vừa cười toe toét vừa bơi ra chụp lấy thơ, ở đây người ta gọi thư là thơ. Thơ tình chắc cũng gửi cho nhau như vậy…
Tàu chạy chậm rì, đúng y như xe đò trên bộ, chốc chốc lại ghé dừng đón khách trả khách, cũng có lúc gặp triều xuống, kênh cạn trơ ra, phải nằm chờ vài ba tiếng nước lên mới đi tiếp được… Sẩm tối mới đến huyện lỵ Năm Căn, nghỉ lại một đêm, hôm sau lại tàu đò ì ạch một ngày Năm Căn - Rạch Gốc. Hôm nay tàu thưa khách hơn, và từ trưa khách xuống các bến nhiều, khách lên hầu như không có, các xóm ven kênh cũng càng thưa dần, và đã nghe mỗi lúc càng rõ hơi thở mặn của biển. Cho đến sẩm tối thì trên tàu chỉ còn trơ lại hai anh em ngơ ngác Nghĩa với tôi. Chị lái tàu hôm nay trẻ hơn bà chủ lái hôm qua nhiều, hỏi hai bác định về đâu để cháu đưa tới. Bây giờ mới ngã ngửa: Nghĩa đi Rạch Gốc lần này là lần đầu, cũng đoán như tôi Rạch Gốc nếu không phải là thị trấn nho nhỏ thì ít ra cũng là một cái làng hay một cái chợ, có vài ba hàng quán, có thể tạm tìm nơi ăn tối và nghỉ lại trước khi đi liên hệ với chính quyền địa phương.
Chẳng có gì hết, hai bên bờ sông chỉ toàn rừng đước tiếp rừng đước tối mịt. Nghĩa bảo: Thôi chị cho chúng tôi về chỗ trụ sở ủy ban. Chị đáp: Về ủy ban bây giờ chỉ có ma ở đó. Thôi để cháu chở hai bác đến nhà chú Hai Phốc, chủ tịch xã… Chạy hơn mươi lăm phút nữa thì đến nhà chú Hai Phốc. Rất lạ, từ xa đã thấy ánh đèn măng sông sáng trưng và nghe tiếng hát vọng cổ qua loa mỗi lúc một rõ. Tàu cập bến, chị lái tàu gọi to: Có khách Hà Nội dô thăm anh đây nghen anh Hai! Chị sáng tác giỏi thật, sao chị biết tôi Hà Nội. Từ trong nhà măng sông sáng choang và ồn ào, có tiếng chân chạy lạch bạch, ở đây cũng toàn bùn đã làm gì có đất cứng. Có cả đèn pin. Và một người cao lớn cất tiếng ồ ồ: Chào anh Hai Hà Nội, anh Hai Hà Nội tới bữa nay là đúng quá, quý hóa quá, hay anh Hai Hà Nội đã biết trước, bữa nay là giỗ ông già tôi mà… Đưa tay cho tui anh Hai, toàn bùn mà…
Trong nhà chật cứng người và người ta đang ca vọng cổ. Ngồi một lúc thì tôi hiểu ra đấy là bài vọng cổ kể về cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai do anh giáo viên cộng sản Phan Ngọc Hiển lãnh đạo và ngư dân Rạch Gốc tham gia là chính, về sau Phan Ngọc Hiển cùng mấy lãnh tụ bị Pháp xử tử còn dân Rạch Gốc thì mấy chục người phải đi tù Côn Đảo. Cha anh Hai Phốc chết ở Côn Đảo. Bài vọng cổ rất dài. Đấy là loại vọng cổ 24 câu, tức là vọng cổ xưa lắm, về sau rút lại còn 12 câu, cuối cùng vọng cổ hiện đại còn lại 6 câu như bây giờ. Tất nhiên vừa nghe vọng cổ vừa uống rượu.
Giữa hai đợt vọng cổ hát đi hát lại không chán, anh Hai Phốc đến ngồi cạnh tôi, hỏi: Tôi xin lỗi anh Hai Hà Nội trước nghen, tôi hỏi chuyện này có khi không phải, vậy anh Hai Hà Nội có rành tiếng Tây không. Thật bất ngờ. Tôi nói tôi cũng có biết qua đôi chút. Hai Phốc tỏ mừng ra mặt: Dậy thì hay quá, tụi tui có chuyện này muốn nhờ anh Hai, anh Hai coi có giúp được không. Là sau cái ngày giải phóng 30 tháng Tư, tụi tui có lên Sài Gòn, hỏi đủ chỗ, may quá tìm được một số hồ sơ của Tây về cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai - Rạch Gốc hồi năm 1940, mừng quá, bọn Tây ghi đủ hết, cả tên tuổi ông già tui với mấy chục người ở đất này bị đi tù Côn Đảo, không thiếu người nào. Tụi tui thuê người ở Sài Gòn dịch. Nhưng mà có chỗ còn thắc mắc không biết hỏi ai: Sao mà tất cả tên dân Rạch Gốc, toàn là dân đánh cá, bây giờ gọi là ngư dân, mà họ, bọn Tây làm hồ sơ ấy, cứ ghi là nhà báo, nhà báo, nhà báo… Báo chí chúng tôi có biết bao giờ đâu…
Tôi nói anh cho tôi coi tài liệu, cả chữ Tây cả bản dịch của các anh Sài Gòn xem. Hai Phốc mang ra một lô giấy tờ đã vàng ố, được giữ rất kỹ. Tôi đọc và nhận ra ngay. Tiếng Pháp có từ journal là tờ báo, nhật báo, trong đó có gốc jour là ngày. Từ đó mà có từ journaliste là nhà báo, nhưng cũng còn có từ journalier là người làm công nhựt, làm ngày nào ăn lương ngày ấy, ông phiên dịch thuê nào đó trên Sài Gòn nhầm giữa hai từ, biến toàn dân Rạch Gốc thành nhà báo, nhà báo, nhà báo tất! Bà con xúm lại rất đông, ô anh Hai Hà Nội giỏi quá, tiếng Tây tiếng Tàu đều thông, cám ơn anh Hai Hà Nội. Làm một chén đi, nè, một, hai, ba… dô!
Tôi đã ngà ngà, nhưng vẫn còn biết đã khá khuya, nến trên bàn thờ cháy đã già nửa cây, mà chưa thấy thắp hương tức là vẫn chưa bắt đầu cúng. Hỏi Hai Phốc, anh trả lời nghiêm trang: Còn phải chờ ông Hắc Hổ chớ anh Hai, ông Hắc Hổ chưa tới thì chưa cúng được đâu. Ông Hắc Hổ? Sao lại có hổ ở chốn đồng bằng này, mà lại hổ đen? Thật tò mò.
Khoảng hơn mười hai giờ đêm, bỗng nghe từ dưới bến tiếng reo: “Ông Hắc Hổ, ông Hắc Hổ tới rồi!” Hàng chục đèn pin loang loáng. Và tôi thấy từ chiếc vỏ lãi bước lên một người nhỏ bé, ở trần chỉ độc chiếc quần đùi, người đen nhẻm, toàn thân quắt săn lại như một sợi dây rừng, tóc bạc hung, kiểu người này, tôi biết, không có tuổi, đến hơn trăm cũng thế này thôi, không thèm coi thời gian nóng lạnh sương gió phong ba bão táp là cái gì sất, cứ như được sinh ra từ bao giờ và bất tử… Có ai đó khoác lên vai cho ông một chiếc áo bạc phếch, rồi ai đó đưa cho ông chiếc quần dài, mọi người bỗng dạt ra và im lặng, ai đó đưa cho ông một bó hương đã đốt sẵn, ông trịnh trọng bước tới trước bàn thờ, vái ba vái, nâng bó hương lên trước trán, lẩm bẩm khấn gì đó rất lâu, rồi mới cắm hương và cúi lạy lần này gập cả lưng xuống, đúng ba lần. Một tiếng đàn ghi ta phá tan im lặng, và tiếng hát bỗng cất lên, lại nguyên bài vọng cổ ấy, rất xưa, từ khi vọng cổ mới ra đời, 24 câu, kể từ đầu đến đuôi cuộc khởi nghĩa Hòn Khoai cùng sự vùng dậy của ngư dân Rạch Gốc và gần khắp vùng Mũi Cà Mau 1940-1941 non một thế kỷ trước. Phải chờ ông Hắc Hổ tới mới bắt đầu cúng được vì ông là chứng nhân cuối cùng còn lại của sự kiện lịch sử hùng vĩ và bi tráng ấy, ông thuộc lớp ông già anh Hai Phốc.
Sau thất bại Nam Kỳ Khởi nghĩa, mấy chục ngư dân Rạch Gốc - Cà Mau đều phải đi tù Côn Đảo, về sau Hai Phốc kể với tôi, mấy chục người ấy đã có ai biết chút chữ nghĩa gì đâu, ở tù Côn Đảo họ chỉ làm một nhiệm vụ: mỗi khi ông Lê Duẩn, ông Tôn Đức Thắng và các ông đầu lĩnh cộng sản bị mang ra đánh thì các ông xông ra chịu đòn thay. Có người bỏ mạng ở Côn Đảo, như cha anh Hai Phốc, còn sống trở về đâu không được mươi người, nay chỉ còn mỗi ông Hắc Hổ. Hỏi vì sao lại tên Hắc Hổ, anh Hai Phốc kể, ngày xưa rừng U Minh mênh mông này đầy cọp, ông Hắc Hổ đã có lần tay không đánh nhau với một con cọp U Minh, vật nhau quần quật suốt một ngày, cuối cùng ông đánh nó chết tươi…
Thì ra, tôi đâu có ngờ, U Minh thượng, U Minh hạ giống hệt Tây Nguyên của tôi, là cả một thế giới, vô tận và rậm rạp, đường đi lối lại thiên la địa võng người ta bảo chỉ có ông Hắc Hổ thuộc hết như lòng bàn tay. Ông là chủ rừng U Minh. Thời sau 1954 ông Lê Duẩn ở lại miền Nam căn cứ chính là ở Kinh Năm, tại chòi ông Hắc Hổ, do ông Hắc Hổ nuôi và bảo vệ, hai ông thường ngày chỉ ở trần độc chiếc quần đùi, cố tình để cho nắng Cà Mau thui người đen nhẻm, suốt ngày chèo một chiếc vỏ lãi rong ruổi khắp vô số kênh rạch chi chít và bí hiểm… Nay mỗi năm ông Hắc Hổ chỉ qua Rạch Gốc một lần, đúng ngày giỗ ông già Hai Phốc, ông một mình chèo một chiếc vỏ lãi, từ sáng, giờ mới tới đây…
Tôi tìm về Rạch Gốc mục đích cụ thể là để được xem xác chiếc tàu của đoàn tàu không số Biển Đông nghe còn nằm trong vàm Rạch Gốc. Muốn ra tới vàm phải do dân quân xã dẫn đường và phải có lệnh chủ tịch Hai Phốc mới có vỏ lãi mà đi. Anh em địa phương bố trí cho tôi và Nghĩa ở ngay trụ sở ủy ban, cách nhà Hai Phốc khoảng trăm mét. Sáng hôm sau tôi tìm sang nhà Hai Phốc, thì anh còn say, ngủ mê mệt, ông Hắc Hổ đã chèo về Kinh Năm. Liên tiếp bốn ngày sau, sang lần nào Hai Phốc cũng đang say, đành chịu. Ngày thứ năm tôi bàn với Nghĩa sang thật sớm, chưa tới năm giờ sáng đã có mặt, may ra Hai Phốc còn chưa uống rượu. Hóa ra cũng chẳng ăn thua: Hai Phốc say từ tối hôm qua, còn chưa tỉnh. Bà vợ Hai Phốc bèn thay chồng ra tiếp. Một người phụ nữ còn trẻ, đẫy đà. Câu đầu tiên bà chào tôi:
- Tui nghe nói ông là đại tá, vậy xin hỏi ông là đại tá ba sao hay bốn sao?
May quá, tôi khiêm tốn:
- Thưa, tôi chỉ có ba sao thôi ạ.
Bà liền cầm chai rượu lên, dõng dạc:
- Ba sao thì ba chén!
Và rót luôn ba chén đầy. Chén đây là chén Nam Bộ, tức cái bát ăn cơm to đùng ở nhà quê ngoài Bắc. Tôi gục luôn tại chỗ, Nghĩa phải dìu về nằm vùi mê man ở ủy ban.
Vậy là gần một tuần đi tong, ở đây gặp chủ tịch xã khó hơn gặp chủ tịch nước. Mà nghĩ cũng phải thôi, ở cái chốn tự nhiên hoang dã mà tuyệt đối còn trong veo này, con người tự sống, tự tồn tại và đứng vững trước mọi thử thách, hòa hợp đến cùng với trời đất, với rừng và biển cả, chính quyền với lại nhà nước có gì đâu mà phải can dự vào. Có khi thò tay vào lại làm rối beng mọi sự của người ta ra…
Cho đến buổi chiều ngày thứ bảy thì phải, đang ngồi trong nhà, bỗng nghe mấy cậu dân quân reo ầm lên: Chú Hai Phốc tỉnh rồi, tỉnh rồi! Tôi mừng quá vội chạy ra, thấy Hai Phốc đang đá banh với đám dân quân, sân banh là một bãi đất bùn lầy nhầy, cầu thủ chạy bì bạch, ráng gân ráng cổ sút một phát trái banh chỉ đi được ba bốn mét, vậy mà hăng ra phết, vừa đá vừa hò hét ầm ĩ. Kết quả đội Hai Phốc thua ba không, có phần lỗi hậu vệ Hai Phốc còn chưa hoàn toàn tỉnh rượu…
Tôi phải vội vàng gặp anh ngay, sợ thua bóng anh rầu uống ngay nữa thì hỏng bét. Hai Phốc cười to: Có gì đâu anh Hai, chuyện nhỏ mà, không có tui anh Hai Hà Nội nói một tiếng với bà xã tui, xong hết mà… Có lệnh chủ tịch xã, tôi mượn được vỏ lãi, có dân quân dẫn đường, ra xem được xác chiếc tàu lịch sử nằm ngoài vàm, đã bị nước mặn gặm gần hết.
Nghĩa và tôi ở nhà ủy ban tuềnh toàng nhưng có đủ thứ để sống: một lu gạo, một lu nước ngọt - nước ngọt ở đây phải chạy ghe đi mua ở các cây nước -, mấy cái nồi niêu, tự nấu lấy mà ăn. Chỉ có chút khó: Rạch Gốc chẳng chợ búa gì hết, mọi thứ phải chạy đò lên Năm Căn mua. Hỏi mấy cậu dân quân, chúng bảo để tụi cháu chạy qua chỗ thủy sản coi. Một lúc sau xin về cho hai anh em một xô nhựa nặng trịch đầy tôm còn giãy đành đạch, con nhỏ nhất cũng bằng ngón chân cái. Sẵn than đước là loại than thượng hạng, cứ ném vào đó mà nướng, chấm muối ớt ăn suốt mấy ngày…
Một buổi sáng, bước ra trước sân ủy ban, tôi ngạc nhiên thấy treo cờ tang. Hỏi sao vậy, Hai Phốc sáng nay còn chưa uống rượu, trả lời:
- Ông Andropov chết.
Tôi hỏi lại: Ông Andropov là ai thế?
Trả lời: Không biết, nghe đài Hà Nội biểu treo cờ tang thì mình treo…
Cờ tang cho ông Andropov nào đó treo rất đúng quy cách, chỉ kéo tới nửa cột, thòng kèm một dải vải đen nhỏ phất phơ trong gió biển…
Tôi chia tay Rạch Gốc ra đi, bỗng nhói lên trong lòng, trong tâm trí một nỗi lo gần như một niềm đau rất lạ, niềm đau khi biết rằng đây là cuộc chia tay cuối cùng, mãi mãi, bởi dù vài ba năm nữa tôi vẫn có thể trở lại nơi này thì hầu như chắc chắn mãi mãi không còn gặp lại một Rạch Gốc như tôi từng biết, với cảnh và người tôi may mắn được sống cùng mươi ngày vừa rồi. Một mảng, một miếng nhỏ xã hội được bỏ quên, còn sót lại, quá trong trẻo để có thể còn tồn tại, sống sót trước làn sóng hiện đại đang hỗn hào lan tới bốn bề. Hóa ra chuyến đi Cà Mau của tôi là chuyến đi cuối cùng để chia tay, để vĩnh biệt…
Tôi bỗng sực nhớ có lần ở Hà Nội đi xem phim, không còn nhớ là phim gì, của nước nào, hình như Hungari nay Bungari gì đó, phim dựa theo một tiểu thuyết xưa, cốt truyện chẳng nhớ, chỉ có một chi tiết cứ còn vương vất mãi: Một cậu sinh viên tỉnh lẻ, đi học trên thủ đô, nghỉ hè trở về nhà, đi bằng xe lửa, đúng xe lửa thời xe lửa mới ra đời, kéo bằng đầu máy hơi nước đốt bằng củi hay bằng than, thở phì phò nặng nhọc, phụt khói trắng và những chùm tia lửa như pháo hoa, thỉnh thoảng lại rú những hồi còi dài như tiếng kêu của một con thú kỳ quái trong đêm. Bà mẹ ra đón con ở ga bằng xe ngựa, người đánh xe cẩn thận bê cái rương của cậu ấm đặt lên phía sau xe trong khi bà mẹ âu yếm hôn con trai. Rồi họ đi về nhà trên chiếc xe ngựa lọc cọc và thong thả, trên con đường đất nhiều chỗ gập ghềnh, giữa những hàng cây sồi và cây liễu xanh ngắt…
Ngày nay thì chắc chắn không còn cảnh mẹ đón con đi học trên thủ đô về xưa cũ chậm chạp và thong dong ấy. Ngày ấy con người còn chưa biết, chưa cần đến tốc độ. Nay cậu sinh viên tân thời sẽ bay vù một phát từ Sofia hay Budapest về sân bay quê nhà, mẹ sẽ ra đón con trên chiếc Limousine đen bóng phóng vun vút trên cao tốc láng trơn… Xem phim rồi tôi cứ nghĩ rất vẩn vơ, biết vẩn vơ mà chẳng sao dứt được: liệu từ cái thời xe lửa và xe ngựa xưa cũ đã mất ấy cho đến thời máy bay và ô tô hiện đại, con người có hạnh phúc hơn không, có bao nhiêu hạnh phúc được thêm vào và bao nhiêu bị bớt đi…
Milan Kundera có một cuốn tiểu thuyết tên là Chậm. Ông có một nhận xét rất nhỏ: một người đang đi bộ, khi cần suy nghĩ về một điều gì đó, hay có khúc mắc sao đó trong lòng, tự nhiên sẽ đi chậm lại, còn khi có một điều gì muốn gạt phứt ra khỏi đầu, tự nhiên sẽ đi nhanh lên. Tốc độ khiến người ta quên. Thế giới của tốc độ là thế giới của lãng quên. Vọng cổ chậm rãi 24 câu là của thời chậm rãi để mà nghĩ và nhớ, vọng cổ tóm gọn lại chỉ cón 6 câu là để mà vội vã quên, đúng không? Có phải xu thế sống của con người là ngày càng rút gọn lại? Cho đến khi… biến mất con người. Sẽ lạ biết bao nhiêu một thế giới chỉ còn có tốc độ, không con người với những suy tư vớ vẩn của họ… (Còn nữa)
Nguyên Ngọc.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét