Thứ Hai, 11 tháng 7, 2022

GIỜ THỨ 25: LỜI GIỚI THIỆU, CHƯƠNG THỨ NHỨT

 




Constantin Virgil Gheorghiu

Giờ Thứ 25

GIÓ BỐN PHƯƠNG xuất bản 1967


Hay là Uất - Hận … Trần Gian


Bản Việt Văn Của Lê Ngọc Trụ Và Võ Thị Hay

Theo Bản Dịch La Vingt - Cinquième Heure Của Monique Saint - Côme

Nxb Gió Bốn Phương, Saigon 1967


THAY LỜI TỰA

Đối với Xã hội kỹ-thuật-hóa, đây là một mặt thật của Kiếp người, sống trong thời buổi giá trị con người bị tiết-giảm xuống con số không: nhân vị, cá nhân, tình cảm hầu như không còn nữa.

Máy móc. Tất cả đều sử dụng theo máy móc, đều hành động một cách máy móc, nên con người cũng bỏ lần nhân cách để theo kịp đà tiến-hóa kỹ-thuật rồi trở thành nô lệ cho kỹ-thuật và lôi cuốn đồng loại mình vào trận cuồng phong, vào vực thẳm.

Có còn chăng chút hy vọng lập lại xã hội loài người, như lời mục sư Kogura, trong truyện:

"Sau rốt, Chúa lại đến phải xót-thương con người, như Chúa đã "từng thương-hại nhiều lần. Và, giống chiếc thuyền của ông Noé trên "lượn sóng trận đại-hồng-thủy, vài người thật là người, còn giữ được "chân tính, sẽ nổi trôi trên trận vận xoáy nhiễu loạn của đại nạn tai-"ương tập thể này. Và chính nhờ mấy người ấy mà loài người sẽ được "bảo tồn cứu vãn, như đã trải qua bao lần trong lịch sử".

Lời dịch giả



TIỂU SỬ TÁC GIẢ

Thi sĩ kiêm văn sĩ Constantin Virgil Gheorghiu sanh ngày 15-9-1916 tại Razboeni-Neamtz xứ Roumanie, con của một vị linh mục ở Moldavie.

Học triết-lý và thần-học tại Đại-học-đường Bucarest và Heidelberg (Đức).

Ông sáng tác nhiều quyển sách mà thi-phẩm Calligraphie sue la neige được giải-thưởng Hoàng-gia về thi-ca (Prix Royal de Poésie) năm 1940, ở Roumanie.

Ông cưới vợ là nữ sĩ, năm ngày trước trận Thế-chiến thứ Hai. Với lòng nhiệt huyết của tuổi trẻ, thi-sĩ công phẫn và xúc động khi bọn thân phát-xít ám sát thủ-tướng dân-chủ Armand Calinesco, nên viết quyển thi binh-vực tự do, chống phát-xít, lấy tên là Armand Calinesco (1939). Hậu quả của thi-phẩm này là ông suýt bị bọn "cơ-quan sắt" thủ tiêu.

Và cũng với lòng công phẫn mà ông viết quyển "Bờ sông Dniestr bừng lửa", xuất bản ở Bucarest, chống bọn chống phát-xít đã tàn sát một phần ba dân số miền Bessarabie, quê hương ông. Tác-phẩm này về sau, đã làm dư luận Pháp chống lại ông. Nhưng theo ông, "đứng trước những tàn phá giết chóc dã man, bất cứ từ đâu đến, thi-sĩ không thể không công phẫn".

Năm 1943, hai vợ chồng phụ trách về liên lạc văn hóa tại bộ ngoại giao Roumani ở Zaghreb. Được một năm, nước Roumanie theo phe Nga. Quân Đức bắt vợ chồng ông giam trong một trại giam các nhà ngoại giao tại Đức. Kế Đức-quốc-xã thua, vợ chồng ông bị quân Mỹ giam mỗi người một nơi, mãi hai năm sau (1947), mới được thả ra và gặp nhau ở Heidelberg (Đức).

Trong thời gian bị giam cầm, ông viết quyển "Giờ thứ hai mươi lăm". Nhằm lúc đồng mark mất giá, không thể sống ở Đức, vợ chồng ông đi bộ sang Pháp, đem quyển này dịch ra Pháp-văn và cho xuất bản ở Paris (1949).

Đây là một trong những tác-phẩm bi-đát nhứt của thời đại. Gabriel Marcel, trong bài tựa, đã viết: "Tôi tưởng không còn tìm ra một tác-phẩm nào ý-nghĩa hơn, phác họa rõ-ràng hơn tình-trạng hãi-hùng mà nhân-loại đang bị chìm-đắm".

Tác-giả quyển sách bán chạy nhất- bán 600.000 quyển trong vài tuần lễ, riêng tại Pháp đến 300.000 quyển- lại bị dư luận Pháp chống đối (1950), khi biết ông là tác-giả quyển Bờ sông Dniestr bừng lửa, nghĩa là ông binh-vực phát-xít.

Trong một bài tự thuật, Virgil viết: "...Dấu ô nhục chống phát-xít đốt cháy da thịt "ta ở Bucarest, và dấu ô nhục phát-xít bị đóng ở Paris chỉ là duyên-cớ giản-dị để quần "chúng bóp chết ta...

"Phải chăng người ta chỉ được lên án những sự độc ác dã man của một bên...

"Không, nhà thơ ấy chỉ lấy vĩnh-cửu làm khuôn vàng thước ngọc..."

Thi sĩ đã đi tu.

Lễ thăng thiên, ngày 23-5-1963, ông được Đức giám mục từ Nữu-ước đến làm lễ thụ phong linh-mục giáo-hội Chính-thống tại nhà thờ Lô-ma-ni ở Ba-lê.



Làng Fântâna

- Em không thể tin rằng anh đi được!

Suzanna vừa nói vừa ôm siết Iohann Moritz vào mình. Nàng để tay lên đầu anh và vuốt nhẹ mớ tóc đen. Moritz lùi một bước, nói:

- "Tại sao em không tin? Ngày mốt, sáng sớm thì anh đi". Chàng trả lời, giọng cứng cỏi. Nàng đáp nhỏ:

- Em biết rồi.

Họ đứng gần một hàng rào. Trời mát lạnh vì đã quá nửa đêm. Moritz cầm tay Suzanna, rồi bỏ xuống, nói:

- Bây giờ, thôi, chào em!

- Ở nán thêm chút nữa, anh.

- "Sao em cứ muốn anh ở nán thêm?". Giọng chàng quả quyết hơn: "Đã khuya quá rồi. Mai anh còn phải đi làm sớm".

Nàng không trả lời, nép sát mình vào Moritz. Mở hở áo anh ra, nàng đặt gò má vào ngực anh và ngó lên trời, nói:

- Sao đẹp quá!

Moritz chờ một chuyện quan hệ hơn. Anh tưởng nàng biểu ở nán lại để nói chuyện ấy, thế mà nàng lại nói chuyện sao trên trời. Anh xê ra, muốn rời nàng, nhưng nhớ lại mình phải ra đi, và phải vắng mặt ít lắm là ba năm, nên anh bèn nhìn sao để nàng vui lòng. Suzanna hỏi:

- Phải chăng mỗi người đều có một vì sao bổn mạng, và khi họ chết thì sao rụng không anh?

- "Anh chẳng biết gì cả!". Và chàng nhứt định đi về, nên nói: - Thôi chào em!

Nàng cố hỏi thêm:

- Phải chăng chúng ta cũng có ngôi sao của chúng ta trên ấy không anh?

- Cũng như mọi người. Ở trên ấy, hay ở trong ta.

Moritz nâng đầu Suzanna ra khỏi ngực. Anh bước đi. Nàng cầm tay anh đưa đến đầu đường. Nàng nhìn sao, ngó Moritz rồi nói:

- Em chờ anh tối mai.

- Nếu trời không mưa!

Suzanna muốn đi theo anh và van anh phải đến, dẫu trời mưa. Nhưng Moritz đi quá mau, đã khỏi khúc quanh đường, khuất sau miếng vườn. Nàng đứng yên lặng, vuốt áo, phủi mấy cành nhỏ dính ở hông. Trước khi vô sân, nàng nhìn lại đám cỏ nhàu nát, dưới cây gồi lúc nãy hai người đã nằm kề. Mũi nàng còn giữ hơi của Moritz, một thứ hơi lẫn các mùi cỏ nát, thuốc lá và hột trái anh đào.

Moritz băng đồng về nhà, vừa đi vừa huýt sáo. Anh mặc quần lính đen, áo sơ-mình trắng cổ hở, đi chân không. Đã mấy lần, anh ngưng huýt sáo và ngáp dài. Đoạn nhớ lại người đàn bà anh vừa chia tay, nghĩ đến Suzanna, anh muốn mỉm cười: "Hừ! Chuyện ngôi sao... Đàn bà thật trẻ con. Họ hỏi toàn những chuyện vô ích!". Rồi nhớ tới cuộc hành trình anh định đi trong hai ngày nữa. Anh nghĩ tới nước Mỹ. Thét rồi không thèm nghĩ ngợi chi hết. Anh lại huýt sáo. Buồn ngủ quá! Phải mình được ở nhà liền bây giờ để ngủ. Mai còn phải dậy thật sớm, ngày làm công chót mà! Kìa trời đã hừng đông. Còn vài giờ nữa là sáng. Nghĩ đến đó, Moritz rảo bước thật mau.

Vừa hừng sáng, Moritz ghé lại máy nước trong làng, mở rộng áo sơ-mi ra, đưa tay bụm nước rửa mặt, rửa cổ. Anh vừa đi ra giữa lộ vừa vuốt tóc cho tay khô, sửa lại bâu áo chớ không gài nút. Anh nhìn cảnh làng, sương mù màu sữa đục tan lần. Đó là làng Fântâna xứ Roumanie. Moritz sanh trưởng nơi đây được 25 năm rồi. Và hiện giờ, trong lúc anh ngắm quê nhà chỉ có những nóc gia bé nhỏ với ba gác chuông của ba nhà thờ: Chính thống giáo, Thiên Chúa giáo và Cơ đốc giáo, anh lại nhớ đến câu nói của Suzanna hôm qua: "E rằng anh phải tiều tụy vì không sống ở đây nữa!". Anh đã cười, cho là câu nói đùa và trả lời rằng, anh đã thành nhơn, chỉ có đàn bà mới tiều tụy thôi. Nhưng bây giờ anh cảm thấy một cái gì luyến tiếc xâm chiếm anh. Anh vội huýt sáo, ngoảnh mặt đi.

°

     Nhà của mục sư Koruga ở dựa đường, gần nhà thờ Chính thống giáo. Cửa đóng. Moritz cúi xuống lấy chìa khóa giấu dưới cửa, cất như vậy để có thể mở vào, khi đi làm sớm. Anh mở cánh cửa nặng nề, không hấp tấp. Vô trong sân, mấy con chó chạy lại trững giỡn quanh anh. Chúng nó quen biết anh nhiều, vì anh đã làm cho mục sư hơn sáu năm nay; mỗi ngày, trong sáu năm liền, anh đến như là nhà anh. Song bữa nay là ngày làm chót của anh. Anh sẽ hái trái bôm suốt ngày, rồi sẽ lãnh tiền và mạnh dạn thưa với mục sư về ý định của anh, vì mục sư chưa hề biết gì.

Anh vô kho chứa đồ nghề, xách giỏ chất lên xe. Mục sư bước ra bao-lơn, mình mặc áo sơ-mình vải trắng. Ông vừa thức dậy. Moritz chào ông và cười. Anh để giỏ xuống, phủi tay, leo lên bao-lơn, lấy bình nước trên tay mục sư, nói:

- Cha để tôi xối nước cho.

Anh vừa xối nước, vừa nhìn tay mục sư. Ngón tay búp măng, dài và trắng, y như ngón tay đàn bà. Anh vui vẻ xem mục sư thoa xà-bong vào râu, vào cổ, trên trán. Mải nhìn, anh quên xối nước. Mục sư đưa hai tay đầy bọt xà-bong, chờ đợi. Moritz thấy có lỗi và đỏ mặt.

Mục sư Koruga là giáo trưởng trong làng. Ông mới độ năm mươi mà râu tóc đều đã bạc trắng. Vóc ông ốm yếu, mảnh dẻ, mình lòi xương như các hình thánh trong nhà thờ Chính thống giáo. Có thể nói ông là một ông già, chừng nhìn cặp mắt ông và nghe ông nói, mới nhận ra ông còn trẻ. Khi rửa mặt xong, ông lau mặt, lau cổ, bằng khăn vải thô. Moritz cầm bình nước đứng chờ, và nói:

- Tôi có một chuyện cần thưa với Cha.

- Anh chờ tôi thay đồ đã.

Mục sư lấy bình nước trên tay Moritz, cầm vô nhà. Tới ngưỡng cửa, ông ngoái lại vừa cười, vừa nói:

- Tôi cũng có chuyện để nói với anh nữa. Tôi cho anh một tin mừng. Giờ đây, hãy chất giỏ lên xe và bắc kế đi.

Suốt buổi mai, Moritz và mục sư hái trái bôm đựng đầy giỏ. Họ làm việc, không nói chuyện. Khi mặt trời nóng tới vai, mục sư ngưng làm, mỏi mệt, giăng hai tay ra, rồi nói: Ta nghỉ một lát đã.

Moritz đáp: Dạ!

Hai người bước lại chỗ mấy bao đầy trái bôm và ngồi lên trên. Họ làm thinh. Mục sư tìm trong túi gói thuốc ông mang theo luôn luôn để dành cho Moritz, đưa cho anh, và hỏi:

- Anh muốn nói chuyện gì với tôi?

- Dạ, tôi muốn thưa một chuyện.

Moritz châm điếu thuốc hút, quăng diêm quẹt trong cỏ, và xem nó tắt. Thật là khó nói chuyện ra đi của mình với mục sư. Anh còn dụ dự, thì mục sư lại tiếp:

- Để tôi báo tin mừng của tôi với anh trước.

Moritz rất vui lòng được khỏi phải nói trước. Mục sư khoan thai khởi chuyện:

- Cái phòng nhỏ gần nhà bếp của tôi trống, tôi nghĩ anh có thể đến ở. Vợ tôi đã quét vôi, treo màn và để sẵn vải trải giường sạch sẽ rồi. Nhà anh không đủ chỗ, chỉ có một căn phòng cho ba má anh và anh. Mai đi làm, anh đem đồ đạc lại ở.

- Ngày mai tôi không đến.

- Thì ngày mốt. Kể từ nay phòng ấy về anh.

- Tôi không đến đây nữa. Mai này tôi sang Mỹ.

- Mai này? Mục sư trố mắt nhìn.

- Dạ, mai này, sáng sớm.

Giọng Moritz tuy cứng cỏi nhưng ẩn một hối tiếc. Anh nói tiếp:

- Tôi mới được thơ, tàu cặp bến Constantza và chỉ đậu có ba ngày thôi.

Mục sư biết Moritz muốn sang Mỹ. Đã nhiều thanh niên nông dân qua đó, và chừng vài năm họ trở về, giàu có, mua nhà tốt và đất đai trong làng. Mục sư vui lòng thấy Moritz cũng đi. Trong vài năm nữa, anh cũng sẽ có một miếng đất của anh. Ông chỉ hơi lạ, vì cuộc hành trình quá gấp. Moritz không hề nói với ông chuyện này, tuy mỗi ngày anh với ông đều làm việc kế cận nhau luôn.

Moritz nói:

- Tôi vừa được thơ hôm qua.

- Anh đi một mình?

- Với Ghitza. Chúng tôi xuống tàu làm công, chỗ nồi súp-de. Như thế chỉ trả có năm trăm "lơ" mỗi người. Có bạn của Ghitza ở Constantza làm tại bến tàu lo hộ.

Mục sư chúc Moritz may mắn. Ông tiếc anh còn trẻ và làm việc giỏi. Anh lại tốt bụng, thật thà, nhưng nghèo. Anh không có tấc đất nào hết.

Hai người lại tiếp tục làm việc. Ông già bèn nói chuyện về nước Mỹ. Moritz lắng tai nghe. Anh thở dài mấy bận. Anh hơi hối tiếc về sự quyết định của anh. Chiều đến, sau khi lãnh tiền, Moritz đứng một hồi lâu, trước mục sư, mắt ngó xuống. Anh không can đảm bướoc đi. Mục sư vỗ vai anh nói:

- Khi tới nơi, anh nhớ viết thơ cho tôi. Mai sáng anh lại đây lấy gói đồ tôi soạn cho anh, anh sẽ có những gì ăn để đi đường.

Mục sư lại cho anh thêm năm tấm giấy 100 "lơ" và nói tiếp:

- Nhớ đến sớm, gõ nhẹ nhẹ cửa sổ tôi. Tốt hơn đừng cho vợ tôi nghe. Đàn bà họ hà tiện lắm! Tối nay tôi soạn đồ sẵn. Chừng nào anh đi?

- Mờ sáng. Tôi hẹn với Ghitza ở đầu làng.

- Vậy anh chỉ đủ thì giờ tạt qua nhà tôi. Hay là tối nay anh lại nhà tôi!

Moritz nghĩ đến Suzanna chờ anh, nên trả lời:

- Ngày mai tiện hơn.

Anh ra về.

Mục sư Koruga để bao lương thực dựa tường, dưới cửa sổ. Ông tắt đèn đi nằm. Trước khi ngủ, ông nghĩ đến Moritz, đến cuộc đi Mỹ của anh. Lúc soạn sắp bao đồ, ông có cảm giác là như chính mình sẽ đi. Ba mươi năm về trước, ông cũng có một lần sửa soạn hành trang. Khi ấy ông mới đậu bằng tiến sĩ thần học. Ông đăng tên làm nhà truyền giáo nơi Chính thống giáo hội Michigan. Một tuần lễ trước khi đi, ông lại đánh điện xin từ khước chỗ làm này. Vì trong khoàng thời gian ấy, ông quen biết vợ ông và đã làm lễ cưới. Từ đó, ông ở lại làm giáo trưởng làng Fântâna. Làng nhỏ, đời sống khó khăn. Ông thường hối tiếc cơ hội bỏ lỡ, nhưng đã quá trễ rồi! Mỹ quốc chỉ còn trong mộng tưởng. Mỗi khi một dân làng nào sang bên ấy, thì ông cho thuốc hút, thực phẩm với chút ít tiền nong, và dặn viết thơ về cho ông khi đi tới nơi. Làm việc ấy, ông giấu bà. Vợ ông không có gì nói ông được. Nhưng hễ nghĩ đến Mỹ quốc thì ông cảm thấy hình như phụ tình bà. Vì bà mà ông không ra đi. Trong thâm tâm ông vẫn còn sự xung đột ngấm ngầm ấy.

Nay Moritz ra đi, không phải như những người khác kia. Anh là người thân tín của ông. Và Moritz ra đi, tất là một chút gì của ông cũng đi sang Tân Thế giới.

Trăng tỏ. Mục sư không tài nào ngủ được. Ông đứng dậy, thắp đèn đi qua phòng sách mà khắp cả ba phía tường đều có kệ sách. Ông cầm một quyển. Trước khi giở ra, ông nhìn lên mấy kệ đầy sách. Có đủ thứ chữ: Anh, Pháp, Đức, Ý. Tường bên kia, sách cổ điển Hi-Lạp và La-Mã. Đó là những bạn cố tri của ông. Thỉnh thoảng, ông tự hỏi sao ông không muốn vào giảng tại Đại học đường. Nhiều bạn ở Iasi và Bucarest đã hai lần mời ông, nhưng ông đều từ chối chức giáo sư môn Lịch sử Giáo hội. Ông không tiếc. Ở Fântâna, ông làm lễ mi-xa bữa chúa nhật và mấy ngày lễ; ngoài ra, ông lo chuyện đất vườn, nuôi ong mật, trồng cây trái. Tối đến, ông đọc sách. Vận mạng ông bảo đảm tương lai ông. Ông an phận như thế. Có một lần ông muốn cưỡng vận mạng: chuyện muốn đi Mỹ quốc. Ông hết lòng lo lắng để đi, nhưng mặc dầu hết sức lo, chuyện đi không thành. Một bất ngờ đã xảy đến. Thế là hết! Từ đó, ông không toan tính nữa.

Ông tự hỏi: "Có phải thật mình còn tiếc cuộc ra đi ấy cách ba mươi năm nay chăng? Nếu không, sao mình lại băn khoăn lạ kỳ về chuyện đi của Moritz?". Ông kéo mền lên, suy nghĩ: "Mình đã không buồn khi ở lại. Đây chỉ là lòng nhớ nhung một vật gì mình tưởng là thật trong mộng ảo, nhưng chẳng khi nào chiếm được trên thực tế. Đến khi tưởng đã nắm được nó thì lại nhận ra liền là không phải vật mình mơ ước. Có thể Mỹ quốc không phải là xứ mình muốn tìm đến? Có thể nó chỉ là một cớ về nỗi lo âu của mình. Mỹ quốc là xướng khởi của lòng thương nhớ vẩn vơ. Chưa biết Mỹ quốc có lẽ sẽ ít thất vọng hơn khi đã biết thật sự nó rồi".

Mục sư vẫn chưa ngủ được. Ông ngùi ngùi cảm động, nóng lòng ch cho mau sáng, như chính ông đã hẹn gặp Ghitza ở đầu làng để đi Constantza, rồi cùng nhau xuống chiếc tàu đang chờ đợi, tàu "chỉ được đậu ở bến có ba ngày thôi".

Khi ông thức giấc, trời còn tối, nhưng gà đã gáy sáng. Đường vắng, làng còn chìm trong một lớp sương mù. Mục sư mở bao, để thêm gói thuốc hút còn để nằm trên bàn. Ông nghĩ thầm: "Nếu Moritz đi, mình đâu còn ai để biếu thuốc, mình mua cốt để dành cho anh ấy mà thôi". Dòm qua cửa sổ, thấy trời rạng sáng, ông nói: "Moritz phải lẹ lẹ, không thì trễ hẹn!". Ông nghe tiếng chân đi ngoài đường, nhưng lại vượt qua khỏi nhà và xa lần. Ông ra bao-lơn rửa mặt bằng nước lạnh mà không có Moritz ở đó để xối nước cho ông.

Mặt trời lên cao. Moritz không thấy lại. Mục sư chờ anh tới giờ ăn sáng. Ông nghĩ chắc anh thức dậy trễ, nên không kịp đến lấy bao đồ. Ông tiếc thầm: "Uổng quá! Anh ta sẽ có gì ăn trong ít nữa ba tuần lễ, vừa đủ cho mấy ngày đầu của anh ta ở xứ người!".

Bà mục sư bước ra thềm nói:

- Ông ăn sáng đi chớ.

Ông đáp: - Tôi đi đây.

Ông vội cất bao đồ dưới giường, lòng ông se lại, buồn tiếc phải từ bỏ một việc, và từ bỏ mãi mãi việc ấy. Hy vọng chót sang Mỹ quốc, hay ít ra hy vọng ủy nhiệm lần chót đã mất. Ba mươi năm về trước, ông đã hành động y như vậy. Ông đi qua bàn ăn.

Ông nói thầm: "Nếu Moritz lấy bao đồ tự tay mình sửa soạn cho nó, mình sẽ có cảm tưởng như mình ra đi. Rất tiếc, anh lại không đến!".

°

Khi ra khỏi nhà mục sư, Moritz ghé lại máy nước, tắm gội sạch sẽ, rồi đi đến phía bên kia làng, chỗ Nicolae Porfirie ở. Nicolae có một miếng đất, gần ven rừng, muốn bán. Moritz bước vô sân nhà, nói:

- Mai này tôi sang Mỹ châu. Chừng về sẽ có đủ tiền mua miếng đất này. Trước khi tôi đi, tôi muốn đưa tiền cọc để anh đừng bán cho ai.

Nicolae hỏi:

- Anh ở bển bao lâu?

- Chừng nào có đủ số tiền theo ý muốn. Hai, ba năm không chừng.

- Phải, ba năm là vừa. Không ai ở quá ba năm. Bên Mỹ, dễ kiếm tiền lắm!

- Anh muốn bán bao nhiêu?

- Hiện giờ tôi chưa cần tiền. Như trong ba năm, anh trở về với số tiền 50.000 đồng "lơ", anh sẽ được miếng đất. Tôi không bán cho ai, tôi chờ anh.

Moritz móc túi, lấy xấp giấy bạc ra đếm trên ngạch cửa, rồi đưa cho Nicolae, nói:

- Đây ba ngàn "lơ". Tốt hơn anh nên có tiền cọc trước.

Cuộc mua bán đã xong; Moritz siết tay Nicolae, rồi ra về. Trời chưa tối. Anh muốn xem lại miếng đất, tuy anh đã thấy nó nhiều lần. Anh thuộc lòng nó, song bây giờ lại khác, nó là của anh. Chỉ còn có việc chồng đủ tiền là anh đến ở được.

Moritz băng qua cánh đồng. Anh đi rất mau. Áo anh thấm mồ hôi dính sát da. Anh không thể nhẫn nại đi chẫm rãi được. Đến rừng rồi, anh ngừng lại. Đất của anh chạy dài, từ chỗ anh đứng, nơi ven rừng. Họ đã trồng bắp, cao độ chấm vai anh. Đất không mấy rộng, nhưng có thể cất một cái nhà có sân, có vườn cây trái. Anh nhắm chừng bề dài và bề ngang. Anh thấy hiện lên trên đám bắp, cái nóc nhà, cái tay quay nước giếng, cái cánh cửa ngõ bằng cây gồi và cả chuồng bò nữa. Đã bao lần, anh thấy cảnh tượng trên đây, nhưng không lần nào rõ bằng bây giờ. Tất cả đều dường như thật, đúng với sự anh ao ước làm anh mỉm cười. Gió thổi qua đám bắp, uốn chuyển những cành lá xanh tươi như lượn sóng. Anh lắng nghe tiếng xào xạc. Anh cúi cuống, hốt một nắm đất. Đất nóng trong lòng tay anh như một sinh vật, như hơi nóng của chim sẻ cầm trong tay. Moritz lại cúi xuống hốt một nạm khác. Anh bóp chặt nắm tay rồi buông ra, để đất rơi xuống kẽ tay. Anh băng ngang đám bắp để đến phía rừng. Tới giữa đám bắp, anh lại cúi xuống hốt một nắm đất, rồi nói: "Ở đây đất cũng nóng". Anh cầm hòn đất kê sát vào má anh. Mùi đất xống vào mũi anh thấm thía. "Y như mùi thuốc lá, mùi đất tốt", anh nghĩ thầm, và ngước đầu lên. Moritz hít nhiều hơi dài, như để thấm buồng phổi mùi đất thơm tho ấy. Anh nhớ đến Suzanna đang chờ anh, anh huýt sáo.

Nhà của Iordan, cha Suzanna, ở phía ranh làng. Moritz băng qua vườn, đi thẳng tới sân. Anh đứng lại dòm qua kẽ hàng rào. Iordan vừa nặng nề bước ra bao-lơn. Ông lần lượt đóng cửa, vặn chốt và khóa chặt lại. Moritz ngó theo từng cử chỉ của ông. Đóng cửa nẻo xong, ông còn nghi ngờ, ngó chung quanh, rồi bước xuống mấy bực thang bằng cây, kêu răng rắc dưới sức nặng thân hình to tướng của ông. Như thường bữa, ông mặc áo màu xanh lá mạ, mặc quần kiểu quần cỡi ngựa, và mang giày ống. Ông đi ngang qua vườn trước nhà, lại phía cửa ngõ, đóng mạnh cửa rồi khóa hai vòng, đoạn xây lưng, núng nính đi vô. Ông rảo quanh nhà, dòm bên này bên kia, như để tìm ai trong bóng tối. Rồi ông vào nhà, phía cửa sau. Tiếng khóa vặn hai ba lần, kế im lặng.

Iordan vô phòng. Buồng ngủ của ông, vách treo đầy những thú săn được, đầu thú dồn rơm: nai, chó sói, gấu... Trên tường, giữa gạc nai và chim ưng dồn rơm, có súng trường, súng ngắn và túi đạn. Gần dưới chiếc giường rộng lớn, trải hai tấm da thuộc đen. Iordan giẵm giày trên tấm da gấu, lấy cây súng trường dựng dựa giường. Ông kéo ngăn tủ lấy ra khẩu súng lục, cây đèn sáp, cái hộp quẹt và để trên bàn đầu giường. Đoạn ngồi lên giường, mệt thở hì hạch, ông tháo giày ra, sắp kế nhau. Mỗi tối, ông vẫn để đồ tại một chỗ, vừa tầm tay, để dễ tìm, trong đêm tối, hễ đưa tay ra là đụng liền. Sau rốt, ông cởi áo ra nằm ngủ, đầu vùi trong gối trắng, như cón gấu trong tuyết.

Moritz thấy đèn lu dần, rồi tắt hẳn. Cửa sổ đen ngòm. Bên phòng Iolanda, vợ Iordan, còn ánh đèn lờ mờ, vì cái chụp lụa đỡ bớt tia sáng chói. Thiên hạ đồn rằng bà rất khổ sở. Hai mươi lăm năm về trước, bà đến làng này với Iordan. Họ cỡi ngựa và dừng nghỉ tại quán trọ. Không ai rõ họ từ đâu đến. Nhưng chắc là xa lắm. Iolanda là người xứ Roumanie, còn người chồng, thì không phải. Về sau, mới biết họ từ xứ Hongrie đến. Họ choàng áo tơi lót bông. Khi ăn uống xong, họ ngủ tại phòng chủ quán. Chồng ăn tợn như hổ đói, bà vợ chỉ nếm qua như mèo. Ba ngày sau, người ta được biết họ không rời khỏi làng nữa. Vài tuần kế, họ mua quán trọ. Khi mới tới, Iordan không biết một tiếng Roumanie nào, mà bây giờ thì rành lắm. Họ không kết bạn với ai. Đến đứa con gái, Suzanna, họ cũng tránh không cho học tại trường nơi đó, sợ nó sẽ làm quen với trẻ trong làng; Suzanna đi học ở tỉnh. Người trong làng chỉ gặp Iolanda những lúc đi nhà thờ Chính thống, hoặc khi đi ra tỉnh, ngồi xe ngựa với chồng. Cạnh Iordan, Iolando, xem nhỏ thó, co quắp, vì y to lớn gấp đôi vợ. Suzanna giống hệt mẹ, có đôi mắt xanh và tóc óng như tơ. Đó là những gì mà người làng hiểu biết về gia đình này. Mùa đông nọ, Iordan có bắn chết một người muốn vào nhà hắn lúc đêm tối. Y bắn bằng súng trường ngay giữa hai mắt kẻ trộm. Cảnh binh cho rằng đó là quyền của Iordan. Y có quyền giết kẻ nào vào nhà y ban đêm để cướp tiền bạc của y. Nhưng người làng không đồng ý với cảnh binh mà nhìn nhận như vậy. Một án mạng vẫn là một án mạng. Song chuyện ấy rốt cuộc bị lãng quên, vì đã xảy ra lâu lắm rồi.

Khi Moritz dòm qua kẽ hàng rào thấy đèn lu dần rồi tắt hẳn, anh đưa hai tay làm loa cất tiếng kêu, nhái theo giọng chim mèo: "Hu! Hu! Hu". Tiếng vang lên rồi vọng lại, nhỏ lần đến im bặt. Giây lát, cánh cửa mở, Suzanna nhảy qua cửa sổ, nhón gót chạy băng qua vườn. Nàng vạch lỗ rào, chun ra khỏi sân, gần chỗ Moritz đứng chờ.

- "Tại sao anh lựa tiếng kêu như thế! Tại sao? Tại sao?". Suzanna đến từ bên kia rào, vừa hỏi vừa đi tới. Moritz muốn ôm nàng, song nàng vội tránh ra, nói tiếp: "Em không muốn anh kêu như vậy nữa!". Tim nàng đập mạnh vì quá sợ hãi. Moritz hỏi:

- Chớ em muốn anh kêu thế nào?

- Tùy ý anh, nhưng tiếng chim mèo xui lắm, nó báo hiệu sự chết chóc.

- Chỉ là bịa đặt của mấy bà già. Có con chim nào kêu luôn ngày lẫn đêm, khi trời xấu, mùa hạ như mùa đông chăng? Chỉ có chim mèo. Em có biết con chim nào khác không? Họa mình chỉ hót về hè. Nếu anh bắt chước họa mình, tất ba em sẽ biết là tiếng người. Em muốn ông hộ pháp ấy biết là anh gọi em hay sao?

- Không, em không muốn, nhưng chim mèo báo tin dữ!

- Đó đâu phải lỗi của anh. Tại sao không có con chim nào lêu bốn mùa mà không báo hiệu sự chết? Nhưng thôi, đừng cãi cọ nữa. Đêm nay là đêm chót anh gọi em. Từ rày về sau, chúng ta hết còn phải giấu giếm! Sáng mai, anh đi Mỹ quốc. Lúc anh về, em sẽ là vợ anh. Anh đâu còn cần trốn sau hàng rào để bắt chước tiếng chim mèo nữa.

Moritz ôm Suzanna vào lòng. Nàng vòng tay bá cổ anh. Họ đứng dưới gốc cây gồi, chỗ mà họ gặp nhau đêm hôm qua, và mỗi đêm, từ bốn tháng nay, họ quen biết nhau. Nàng càng lúc càng nặng trên tay anh. Moritz đỡ nàng, để nằm trên cỏ và cũng nằm kề bên. Hai thân hình quấn quít nhau, tay tìm tay, môi sát môi. Họ nhắm mắt mê ly. Đây đây, tiếng dế nỉ non trong vườn. Họ vẫn ôm nhau không thốt một lời. Áo xanh Suzanna nổi lên trên nền cỏ thẫm. Nàng đã cởi ra để mẹ nàng không thấy dấu nhăn. Mây đen khi nãy che lấp trăng tròn, đẽ vén lần. Đôi vai trần của Suzanna lấp lánh trong bóng tối. Moritz cũng cởi áo sơ-mi lót dưới mình Suzanna.

Gần hai vai trắng nõn của Suzanna, ngực Moritz càng đen sạm như vỏ cây dà.

Nàng nói:

- Anh ơi! Đừng đi anh!

Moritz cau mày đáp:

- Tại sao em nói thế. Em biết rằng nếu anh không đi Mỹ, thì làm sao có tiền mua đất. Mà không có vườn có đất, thì làm sao cưới em được? Rồi chúng ta ở đâu, nếu không có nhà, có đất? Không, anh sẽ ra đi trong ba năm, và trở về với một số tiền. Chúng ta làm lễ cưới. Em không muốn anh cưới em sao?

- Em muốn lắm, nhưng không muốn anh đi.

Moritz mỉm cười nói:

- Vậy làm sao anh có tiền mua đất. Em biết không, anh đã đưa tiền cọc cho Nicolae rồi đấy! Còn lại bao nhiêu lúc anh về sẽ trả.

Moritz bèn thuật lại chuyện đưa tiền trước làm sao, đi thăm miếng đất thế nào, và dự tính cất nhà, chuồng bò... tất cả.

Suzanna không để tai nghe anh thuật chuyện, nói:

- Anh à, nếu anh đi, lúc trở về, anh không còn gặp em còn sống nữa.

Moritz lần này tức giận hỏi:

- Em có chuyện gì vậy? Em lạ kỳ quá!

- Không có chi hết. Anh có thể không tin em được. Song em cảm chắc khi anh trở về là em đã chết mất rồi.

- Không, em không chết. Em vẫn ở với ba má em như bây giờ. Em không có điều chi lo lắng, vì em không cô độc, không ở với người dưng, mà ở với ba má em.

Suzanna khóc thút thít. Moritz hỏi:

- Sao em? Em có chuyện gì?

Anh vừa nói vừa hôn môi Suzanna. Môi lạnh và ướt đầy nước mắt mặn mặn.

Suzanna đáp:

- Anh sẽ cho là những ý nghĩ điên cuồng, ý của đàn bà. Tốt hơn đừng nói với anh gì cả.

- Em nói đi. Anh không cho là ý nghĩ của đàn bà đâu!

- Em chắc ba em muốn giết em!

Moritz giận hỏi:

- Ai nhét vào đầu óc em tư tưởng xằng bậy này vậy? Tại sao em muốn ba em giết em?

- Em biết anh không tin, nhưng em quá lo sợ rồi. Em chắc ông sẽ thi hành ý định vì ông đoán biết có chuyện gì rồi. Em không rõ lắm, song chắc vì đó mà ông muốn giết em.

- Ba em thấy chuyện gì mới được chớ.

- Ba em đã biết mối tình của chúng ta.

Moritz nằm dang ra xa. Vóc mình Suzanna lộ hẳn như pho tượng đá cẩm thạch trên nền cỏ.

Moritz hỏi: - Ông có nói gì với em chưa?

- Chưa.

- Ông có rầy em không?

- Không.

- Vậy sao em nói ông biết chuyện rồi?

- Linh tánh báo cho em biết trước.

Nàng khóc to, nói tiếp:

- Tiếng nói của lòng chưa đủ. Hồi trưa này, khi bưng món ăn lên, ông ngó em một cách khác thương. Một cái ngó căm thù. Ông hét lên: "Xây lưng vô vách coi?". Em xây lưng vô vách. Em cảm thấy ông nhìn vào hông em. Ông hét thêm: "Ngó ra cửa sổ!". Lần này ông nhìn kỹ và lâu hơn. Trông bề nghiêng, ông ngó bụng, ngó hông em như xem con ngựa của ông vậy. Rồi ông quát lên: "Mày đi mau cho rảnh mắt, đồ đĩ!". Ông bỏ ăn. Em vội chạy ra. Em biết ông đã rõ sự thật. Khi em nhỏ, ông có la, có rầy, có đánh đến chảy máu nữa, nhưng không bao giờ mắng em là "đồ đĩ", và đuổi xua em như hồi trưa này.

Moritz hỏi:

- Làm sao ông biết được? Có khi nào ông bắt gặp hai đứa mình đâu?

- Không gặp, nhưng ông biết.

- Làm sao biết cho được?

- Chỉ nhìn vào em thôi.

Moritz phì cười, hôn lên trán Suzanna, nói:

- Dẫu cho ông dùng ống dòm cũng không thấy được. Chuyện đùa! Em tưởng chỉ nhìn vào người rồi biết em có nhân tình sao?

- Em cũng biết thường thường thì khó nhận ra. Song ba em khác đời lắm. Những ngựa cái của ông, ông chỉ nhìn sơ là biết con ngựa có chửa hay không. Bạn ông, ai cũng phục ông hết.

- Hay là em có thai rồi?

- Không, em không có.

- Vậy thì không sao. Trong hai, ba năm, anh trở về, có tiền. Chúng ta sẽ mua đất, làm lễ cưới tại nhà thờ mục sư Koruga. Ta sẽ cất một cái nhà thật đẹp, rồi sống một cuộc đời hạnh phúc. Không phải vậy sao, em Suzanna?

Nàng siết chặt Moritz, như rất sợ hãi. Nàng run lên, và nói:

- Anh ở đây thì em không sợ, mà anh đi rồi, em sẽ chết vì sợ vậy! Nếu ba em không bắn giết, em cũng không sống nổi, em quá lo sợ rồi anh à! Mỗi đêm, em đều khóa cửa phòng và gài chốt chặt. Khi nghe tiếng giày của ba em, là em chui đầu vào gối, run lên.

Moritz đặt tay lên vai nàng, ôm sát vào lòng. Hai người yên lặng. Suzanna thấy sung sướng gần Moritz, mà anh cũng bằng lòng thấy nàng nín khóc.

Gà gáy sáng. Cả hai đứng dậy. Suzanna mặc áo vào, áo ướt lạnh vì hơi sương. Moritz cũng mặc áo sơ-mình và nắm tay Suzanna đưa tới hàng rào. Song vừa đi qua lọt, Suzanna kêu lên một tiếng thất đảm. Moritz khom lưng dòm xem chuyện gì, thì không thấy Suzanna ở trên sân. Nàng trở lại hồi nào, đến Moritz cũng không trông thấy. Nàng ôm chặt anh một cách tuyệt vọng. Toàn thân nàng run lên, mình nàng nóng ran như đang lên cơn sốt. Moritz dòm qua sân thấy cửa sổ phòng Suzanna mở rộng. Iordan mặc sơ-mình, đi qua, đi lại, tay cầm lồng đèn như tìm một vật gì. Moritz vuốt tóc Suzanna và ôm sát nàng vào mình, cố ý che không cho nàng thấy cha, song nàng đã thấy quá rõ ràng. Và, vì thế, nàng càng ghì chặt Moritz. Nàng run lên, không khóc được nữa. Hai người nghe tiếng mắng chửi của Iordan. Moritz nhìn thân hình khổng lồ của hắn. Sau bóng hắn, thấy dạng Iolanda. Bà đứng trước mặt chồng có một lát, một lần thôi. Iordan xây lưng ra cửa sổ. Moritz không còn thấy vợ của hắn nữa. Bà đã khuất hẳn sau thân hình to lớn của chồng. Kế nghe tiếng bà Iolanda kêu la, rên xiết như xé ruột xé gan. Đèn tắt, cửa sổ mở trong đêm tối. Tiếng rên la của bà Iolanda càng lúc càng đau thương, tuyệt vọng, rồi dịu lần. Moritz và Suzanna còn nghe thêm một hồi nữa tiếng kêu thảm thiết ấy như uất nghẹn. Đôi lứa run lên. Tiếng than khóc im bặt. Bà Iolanda đã té xuống đất. Iordan còn đạp, đá người đàn bà trong phòng tối.

Suzanna rền rĩ:

- Trời, má ơi! Ba giết má chết rồi!

Nàng xô Moritz ra, muốn chạy về sân, nhưng Moritz nắm chặt lại, vỗ về nàng. Đoạn anh buông Suzanna, cũng muốn chạy đến tiếp cứu người đàn bà thọ nạn, nhưng nghĩ lại là đã trễ rồi. Các thớ thịt anh căng thẳng. Anh không có khí giới trong tay, mà Iordan thì có súng và hình vóc vạm vỡ. Bản năng anh không cho anh đối chọi vô ích.

Anh bèn ôm Suzanna vào lòng. Nàng cố vùng vẫy. Nhưng anh ôm thật chặt và dìu nàng đi rất mau. Anh có cảm tưởng gã hộ pháp ấy đang đuổi theo nàng với khẩu súng cầm tay. Anh muốn giấu nàng, đem nàng thật xa, xa biệt nóc nhà ngói đỏ này. Hai người nhắm mắt chạy càn. Bên tai như thoảng nghe tiếng gót giày Iordan đang rượt theo, để bắn chết người con gái mà Moritz đang ôm trong lòng.

Moritz băng ngang đồng, không dám đi đường cái. Anh vấp mấy gò mối nhiều lần và đứng không muốn vững. Anh thấm mệt, chắc anh đã đi lâu lắm rồi nên thấy đuối sức, tay rã rời, mồ hôi chảy ướt đầm làm mờ mắt anh. Anh ngừng lại giữa một đám bắp và để Suzanna xuống đất. Anh đã kiệt sức. Anh để nàng nằm trên đất ướt, kéo áo đắp đầu gối nàng lại, và đặt tay lên ngực nàng. Anh bứt một mớ lá bắp làm gối kê đầu Suzanna; rồi bứt thêm một mớ lá khác trải trên bãi cỏ ướt, đoạn để Suzanna nằm lên. Nàng vẫn im lặng. Moritz vuốt tóc, màng tang và má nàng. Đoạn anh đứng dậy. Nỗi đau đớn cấu xé ruột, gan và tứ chi anh, như muôn ngàn mũi kim châm sâu vô xác thịt.

Anh thầm nghĩ: "Chắc mình chạy lâu lắm!". Anh nhìn lên nền trời xanh và thấy mình ở gần rừng gồi, cách chừng vài bước. Ban đầu anh không tin cặp mắt anh, tưởng anh mơ, nhưng lần lần anh định tỉnh và run lên như cây sậy. Anh không chiêm bao. Anh và Suzanna đang ở trong đất của Nicolae. Cuộc chạy bấn loạn dắt dẫn anh đến đây. Lá bắp mà anh vừa giựt ra để lót cho Suzanna nằm, và nàng hiện còn nằm, là của vườn bắp mà anh đã đưa tiền cọc để mua đất, mới ngày hôm qua.

Nước mắt hòa với mồ hôi chảy dài theo má Moritz. Anh khóc trên đám đất mà anh biết chẳng thể nào mua được nữa, vì anh sẽ không sang Mỹ quốc.

Chỗ anh đứng, Moritz thấy rõ hết cảnh xóm làng. Anh nhìn từng nhà, từ đầu đến cuối làng, rồi nhìn Suzanna đang nằm dưới chân anh, trên lá bắp. Anh phóng tầm mắt nhìn xem nhà nào có thể trọ nàng được. Anh phải tìm cho nàng một chỗ trọ. Phần anh, anh đã từ bỏ sự ra đi; anh từ bỏ luôn ý định mua đất, vì hiện giờ người yêu của anh cần đến anh.

Anh không thể bỏ bê nàng được. Anh phải kiếm cho nàng một chỗ ở. Anh chỉ thấy có hai nơi: nhà ba má anh, và nhà mục sư Koruga; các nhà khác không tiếp anh được, vì mấy anh nông dân đều sợ Iordan; tất cả đều sợ ông ta. Nhà cha mẹ anh thì chỉ có một phòng, không dư chỗ cho Suzanna. Còn nhà mục sư, thì anh chưa cưới nàng, làm sao dẫn đến được. Anh không muốn làm liên lụy đến mục sư. Nếu mục sư chứa nàng, thì ắt ông sẽ xách súng đến hạch hỏi. Anh biết chắc như vậy, và không nên để chuyện chẳng lành xảy ra. Nhưng Suzanna cũng không thể ở trong vườn bắp này. Suy nghĩ một chặp, Moritz bồng Suzanna đi về làng. Nàng mét xanh, Moritz chắc nàng quá sợ nên thành bịnh. Anh rờ tim nàng thấy đập chậm chạp, anh vội vã rảo bước đi mau về làng.

Mặt trời đã lên cao khi Moritz về tới nhà. Anh để Suzanna nằm trước thềm dựa tường, nhìn mặt trời và nói thầm: ""Chắc Ghitza đợt mình lắm". Anh cắn chặt răng để lấy can đảm, rồi xây lưng, bước vô nhà. Anh muốn xin với cha mẹ cho nàng ở đó. Ba má anh còn ngủ. Aristitza, mẹ Moritz, là một người khắc khổ. Anh muốn tránh bà, để nói thẳng với cha. Nhưng vừa bước vô thì Aristitza ngóc đầu lên khỏi gối, hỏi:

- Mày lấy bao đồ phải không? Để chỗ cửa đó!

Moritz không trả lời. Bà nói to:

- Làm gì mà đứng sựng đó vậy? Lại đây hôn mẹ, rồi qua từ giã cha mày cho mau. Rán ăn xài tiện tặn và đem tiền về.

Moritz đáp: - Tôi không đi Mỹ nữa!

Bà già ngồi phóc dậy gọn gàng, hỏi:

- Mày không đi à?

- Không!

- Ghitza cũng không đi hả?

- Ghitza thì đi.

Aristitza nhận thấy có chuyện gì mờ ám; bà mặc vội áo và hỏi:

- Tại sao? Mày gây với Ghitza hả?

- Không!

Bà đứng giữa nhà, hằn học, tiến gần đến con, hỏi:

- Vậy chớ có chuyện gì?

- Không có chi hết. Tôi muốn cưới vợ nên không đi.

Giọng Moritz run run. Anh không biết nên khởi đầu câu chuyện như thế nào, phải cắt nghĩa làm sao. Mẹ anh hai tay bấu chặt vai anh và lắc mạnh.

Anh nói tiếp:

- Tôi muốn nói chuyện với ba. Tôi không muốn cãi với má.

Bà la lớn: "Mày phải nói chuyện với tao. Chính tao đẻ ra mày chứ không phải mày ở trong bụng ổng mà chun ra".

Cha Moritz thò đầu ra khỏi mền, nói:

- "Thôi bà nguôi bớt đi". Ông muốn khuyên giải bà. Aristitza không nghe, vỗ vào hông nói:

- Mày banh da rứt thịt tao, mày bú sữa tao mà bây giờ mày không muốn nói chuyện với tao hả?

Moritz đáp: "Rồi tôi cũng sẽ nói với má".

Bà mẹ khóc tức tưởi. Moritz muốn bà bớt giận, năn nỉ:

- Má nín đi, tôi sẽ nói chuyện với má, tôi xin thề.

Bà già ngồi bên cạnh giường, tay ôm đầu. Bà thấy bị tổn thương. Nỗi đau tủi không thể làm nguôi cơn giận của bà, bà không thể nín được.

Bà hét lên:

- Mày cưới ai?

- Tôi sẽ nói liền, nhưng má bớt giận đi!

- Tao muốn biết mày cưới đứa nào? Tao là mẹ mày, tao có quyền muốn biết.

Cha Moritz khuyên:

- Nói đi con, nói cho bả nghe, cho bả nín.

Ông thừa biết bà ta sắp la lối nữa. Nhưng Moritz cũng biết rằng cái tên Suzanna không làm cho bà yên, mà trái lại, làm bà nổi tam bành thêm. Anh đành đáp:

- Tôi cưới Suzanna, con gái ông Iordan.

Aristitza nhảy a lại, không phải để đánh mắng Moritz, mà ôm anh ta hôn. Bà nói:

- Ừ, phải mà, tao biết tại sao mày không đi!

Bà ôm con hôn khắp mặt, trên mắt, trên trán, trên má. Bà vồon vã nói:

- Mày không dại gì sang Mỹ, làm vất vả như thằng mọi, và vài năm sau, ốm yếu, bịnh hoạn trở về với vài ngàn "lơ". Mày đã nghe lời tao, mày cưới con gái nhà giàu, (vừa nói mắt mụ sáng lên). Tao sẽ giàu. Tao sẽ có áo nhung, xe và ngựa. Tao sẽ qua ở nhà Iordan. Đó là quyền của tao. Quyền của tao, mày biết không? Chính tao sinh mày ra, khôn ngoan, đẹp trai, nên mày mới gò được con gái giàu nhứt trong làng, một đứa con gái có nhà gạch, có hầm rượu, có nhiều đất, xe và ngựa!

Ông già chận lại:

- Thôi, nín đi, mụ ơi!

Tiếng ông run run. Ông cũng xúc động. Nhiều tiền của quá làm ông ngẩn ngơ. Ông nằm vấn thuốc hút, không ngồi dậy.

Aristitza nói với Moritz:

- Tao sẽ ở nhà Iordan, cha vợ mày. (Xây qua chồng, bà nói). Còn ông thì ở đây. Tôi cần phải ở gần con trai tôi. Ai mà hơn tôi, lo cho vợ nó được?

Moritz ngắt lời:

- Nhưng còn chuyện này nữa, má à!

- Cứ nói đi, cưng, mẹ sẽ nghe con!

- Má phải hứa điềm tĩnh nghe tôi mới được.

Bà vuốt má Moritz, trả lời:

- Ừ, má hứa nghe con tất cả.

- Má à, tôi cưới Suzanna không có phép của Iordan.

- Điều cần nhứt là mày cưới được nó thì thôi. Tao sẽ là mẹ chồng con gái lão Iordan, lão nhà giàu. Thây kệ, nếu lão bằng lòng hay không!

- Má sẽ là mẹ chồng nàng, nhưng má không giàu được.

- Vậy tiền của về ai? Lão ta có độc một đứa con gái. Không lẽ lão ta lại không cho của hồi môn? Ai lại không biết lão chôn cả hũ vàng trong hầm rượu lão. Con đừng lo, má sẽ tính cho. Con mà biết gì?

- Má à, con cưới Suzanna, vì nàng chớ không phải vì tiền!

- Mày muốn tao tưởng mày thích gái hơn tiền à!

- Sự thật mà má!

- Dại! Nhưng tao cũng biết mày rồi. Để đó cho tao. Không ai ăn qua tao được đâu.

Mụ hình dung thấy đang cãi vả với Iordan về tiền nong và nhứt định không chịu ly một đồng nào.

Moritz bèn thuật chuyện hồi hôm. Aristitza giựt mình, hỏi:

- Sao? Nó không muốn trở về nhà ba nó nữa sao?

Moritz đáp:

- Không! Nếu nàng trở về, ba nàng sẽ giết chết.

Ông già cũng nói:

- Phải, lão ta sẽ giết con gái. Không phải chuyện chơi đâu! Con gái lão biết ý cha nó. Thằng cha ấy tàn bạo lắm. Chọc nó giận, nó xách súng bắn liền. Ngựa yêu quý của nó kia còn không khỏi thay! Và trời ơi! Ai cũng biết lão ta yêu quý ngựa của lão là dường nào. Lão dám bắn chết con Suzanna nếu nó mò về, nhứt là nó mới trốn nhà bỏ đi đây.

Moritz nói: - Ba nói thật đúng.

- Với chuyện như vậy khó gì mà không hiểu. Tao biết lão già ấy lắm mà!

Aristitza nói:

- Thôi để đợi vài ngày nữa sẽ dẫn nó về. Tôi dẫn đi cho.

Moritz đáp:

- Chắc Suzanna không trở về đâu. Tôi cũng không muốn Suzanna trở về nhà.

Mẹ anh hỏi:

- Rồi nó không có tiền bạc mày sẽ làm gì? Mày chết đói với nó phải không? Đàn bà thiếu gì, ở đâu lại không có. Không ai dại gì đi cưới vợ không của hồi môn. Sao mày ngu ngốc vậy?

Moritz quả quyết:

- Tôi lấy nàng không của hồi môn!

Mụ già giận dữ:

- Mày điên rồi! Từ bỏ tất cả vì một con đàn bà à? Không đi Mỹ cũng vì ai? Vì ả! Và bỏ tất cả, vì một đứa không giá trị gì ráo!

Ông già nói tiếp:

- Má mày nói phải. Đừng làm bậy, đi sang Mỹ đi. Lúc về sẽ mua đất, cất nhà và cưới vợ. Đàn bà thiếu gì!

Moritz đáp: - Tôi không đi nữa!

Cha anh nói:

- Mày sợ trễ rồi sao? Ghitza chắc còn đợi ở đầu làng. Mặt trời mới vừa mọc, đi mau có thể kịp.

Moritz buồn rầu nói:

- Ba bảo tôi đi Mỹ rồi bỏ người con gái này à? Lòng ba như vậy sao?

Aristitza hỏi: - Nó ở đâu?

- Ở ngoài trước cửa!

Hai cụ giựt mình, mặt thừ ra. Aristitza ngó ra cửa sổ. Moritz đứng chận cửa cái, không cho bà ra và khẩn nài:

- Xin má cho nàng ở đây vài ngày, tới chừng nào tôi tìm được chỗ ở cho nàng. Bây giờ thì nàng là dâu của má rồi.

Bà già tức giận nói:

- Mày muốn nuôi nó ở đây sao? Mày muốn lão Iordan giết cả hai vợ chồng tao hả?

Ông già nói tiếp:

- Con cũng biết nhà chỉ có đủ chỗ cho ba với má thôi. Nó sẽ ngủ ở đâu? Không, con à! Không thể được.

Aristitza nói:

- Bộ chắc mày lại muốn chúng tao nuôi ăn nó nữa hả. Mày muốn chúng tao nhịn ăn để cho nó hay sao?

Moritz ngó xuống, não nề suy nghĩ. Anh định trước sẽ phải đương đầu với mẹ, song tin rằng cha anh sẽ không nói gì. Bây giờ không phải vậy.

Moritz bèn nói:

- Vậy thôi để nàng ở đây tới chiều. Tôi chưa biết đem nàng đi đâu. Chiều nay tôi sẽ dẫn nàng ra thành phố kiếm việc làm. Nàng đang bịnh, cần phải nghỉ ngơi một chút để lấy sức, đặng đi tới tỉnh thành mới được. Cũng vì chuyện kinh khủng hồi hôm nên nàng mới đau.

Mẹ anh nói:

- Bữa nay không có gì ăn. Nếu mày muốn nó chết đói thì cứ để nó ở đây.

Moritz đáp:

- Tôi sẽ đem đồ ăn về. Nàng cần phải ngủ, vì nàng đứng không được vững.

Aristitza nói:

- Ba mày đau phải nằm trên giường luôn. Bây giờ để nó nằm đâu? Nằm chung với ổng à?

- Nếu không có chỗ trong nhà thì nàng ra nằm ngoài đống rơm, chỗ tôi nằm đó.

- Vậy thì được. Nhưng tao không có gì cho nó ăn đâu. Hết cả rồi.

Moritz xây lưng ra đi. Tới thềm, anh ngừng lại, nói với cha:

- Trong giờ phút nàng tạm ở đây, ba thương nàng với. Đau khổ như thế là nhiều quá rồi!

Mẹ anh giận dữ mắng:

- Đồ khốn! Mày lại dạy khôn chúng tao à? Trứng mà dạy gà mái ấp chớ? Trong lúc phải đi Mỹ để kiếm tiền, mày lại vác xác một đứa con gái đem về xô sấp bắt chúng tao nuôi, mà mày lại còn thêm một bài học khôn dại nữa!

Bà cúi xuống lấy thanh củi đập Moritz. Anh đã quen với sự chửi rủa và đánh đập này rồi. Trọn đời thơ ấu của anh, toàn là một chuỗi dài đánh và mắng. Anh cười gượng nói:

- Ba má nên thương nàng. Tôi đi kiếm cái gì cho nàng ăn, và về liền.

Anh đi ra. Suzanna không cục cựa, vẫn nằm yên trước nhà. Anh vuốt tóc nàng và nói:

- Anh đi một chút rồi về ngay. Em ngủ đi. Khi thức dậy sẽ ăn một chút gì, rồi ta đi ra tỉnh thành.

Nàng sợ hãi khi nghe nói còn phải đi nữa, nàng hỏi:

- Chúng ta không ở đây sao?

- Không. Em lại đây!

Vừa nói anh vừa dìu nàng ra sau nhà, chỗ chứa đồ nghề làm vườn, và đặt nàng lên đống rơm. Anh nói:

- Ngủ đi! Nếu không thì em không thể đi bộ tới tỉnh thành được. Gần hai chục cây số ngàn lận.

Suzanna ngó anh và mỉm cười biết ơn. Nàng mừng được ngủ yên một mình, vì nàng đang lên cơn sốt, lỗ tai lùng bùng, không còn nghe rõ ràng tiếng gì nữa.

Moritz nói:

- Nếu má có ra kiếm chuyện, thì em đừng trả lời! Bà đang giận mình đó!

Moritz đi ra. Tới đường còn ngó lại nhìn nàng và cười, song nàng đã nhắm mắt lại.

Moritz vừa đi rồi thì Aristitza ra khỏi phòng. Bà đứng chống nạnh ngó Suzanna nằm trên đống rơm. Nàng mở mắt thấy mụ già có cái mũi nhọn như mỏ ó, đôi má vàng võ nhăn nheo, nàng liền ngó qua chỗ khác. Nàng đâm sợ. Mụ già nói:

- Tao là mẹ của Moritz.

Suzanna gật đầu như để trả lời và chào bà. Nàng kéo áo dài xanh che đầu gối lại. Bà già nhìn vào đầu gối, vào hông nàng như muốn lột trần nàng.

Ba nhăn mặt hỏi:

- Mày muốn lấy chồng hả?

Suzanna đáp:

- Vâng!

- Tao thấy mà! Mày đã lớn như con ngựa cái rồi!

Suzanna giấu mặt trong đống rơm. Bà lại gần, kề tai nàng nói:

- Mày chưa tìm được thằng ngốc nào lấy mày đâu. Không của hồi môn, ai thèm cưới mày. Nếu mày lấy con tao, thì mặc mày, nhưng nó không nhìn mày chính thức đâu.

Suzanna chỗi tay ngồi dậy. Nàng muốn ra đi. Nhưng bà già lại cúi xuống trên mình nàng. Sợ sệt, nàng hỏi:

- "Iani đâu rồi?". Nàng muốn nói chuyện gì khác nữa.

Bà già trố mắt ngạc nhiên hỏi:

- Iani nào? Tao không biết ở đây có ai tên đó.

Suzanna ngơ ngác nhìn bà. Nàng không biết phải nói làm sao. Mụ già hỏi dồn:

- Mày muốn nói Iani nào! Hay mày mất trí rồi? Hay mày tưởng đang ở đâu?

Suzanna ngập ngừng nói nho nhỏ:

- Iani, con bà!

Bà già đổi giọng, dữ tợn nói:

- Con tao tên Ion. Đó là tên tao đặt cho nó. Không ai có quyền sửa tên tộc của nó cả. Mày biết không?

Suzanna thấy hai tay bà cung lên, như hăm dọa. Nàng nhớ lời Moritz dặn phải hòa dịu, nên nàng đáp:

- Tôi biết rồi. Iani hay Ion cũng một tên, theo tôi tưởng.

Lời phân trần càng làm cho bà hăng tiết lên. Bà quát to:

- Mày lại muốn dạy tao học tên con tao hả? Tao chẻ đầu mày ra. Mày dám à! Đồ đĩ!

Suzanna nói:

- Tôi đâu dám làm phiền bà.

Aristitza bấu hai vai nàng lắc mạnh. Suzanna la lên. Nghe tiếng la, ông già tốc dậy, chạy ra cửa sau nhà, miệng ngậm điếu thuốc, còn mặc áo ngủ.

Aristitza buông Suzanna và xây qua chồng, giận mét xanh. Bà nói:

- "Ông có nghe chuyện quái gở này không? Con khốn đó cho tôi biết tên con tôi. Nó làm tôi nổi xung". Cúi xuống lượm cục đá, bà nói tiếp: "Tôi chẻ đầu nó ra! Tôi chà nó như chà một con rắn độc!".

Ông nắm tay bà đẩy vô cửa, can gián:

- Thôi bà, giận mà làm gì?

Đoạn ông lại gần Suzanna, cầm tay nàng tỏ dấu thương hại, khuyên nàng:

- Thôi đừng khóc nữa! Chuyện không có gì đâu!

Suzanna hỏi: - Iani đâu?

- Nó sẽ về. Nằm im đi.

Suzanna thấy được che chở. Bàn tay ông to lớn và sần sùi.

Ông nói tiếp:

- Này bé con, tao khuyên mày điều này, mày nên nghe tao. Về nhà cha mẹ mày đi!

Nàng khóc. Ông nói thêm:

- Mày không thể ở đây được. Mụ ấy sẽ bóp cổ hay bửa đầu mày. Tao biết trước sẽ có như vậy. Và còn gì đau thương khi máu chảy ra. Nếu Moritz đứng trước cảnh ấy, nó sẽ giết mẹ nó thì càng gây thêm tội ác. Đừng để xảy ra tai họa, mày hiểu chưa?

Suzanna mấp máy: - Tôi hiểu rồi!

- Tao khuyên mày nên đứng dậy đi liền đi. Đi lập tức trước khi Moritz về. Mày cứ băng qua vườn bắp trở về nhà cha mẹ mày đi. Chừng Moritz trở lại, tao sẽ nói mày đi ra đường cái rồi. Nó sẽ không tìm mày được nữa. Rồi chúng bay quên nhau. Tuổi trẻ chóng quên lắm! Thôi, dậy đi lẹ lẹ đi!

Suzanna nằm im, đầu quay mòng như điên. Nàng bịt hai tai lại, và cũng không màng để ý nghe ông già nói những gì. Ông hỏi:

- Mày không muốn đi à?

Ông muốn nằm tay nàng kéo dậy, dẫn nàng về nhà trả, nhưng ông chắc Moritz không bỏ qua cho ông. Ông bèn đứng lên, nói:

- Thôi phận sự tao phải nói cho mày hay trước, nếu tai họa xảy đến là tại mày.

Ông trở vô nhà. Suzanna nằm một mình. Moritz trở về, tay cầm một bình sữa. Anh lo đi nấu nữa. Bà Aristitza mắng lớn:

- Với vợ chồng tao, mày chẳng khi nào đem sữa về cho. Còn với con voi giày này, mày lại bưng đem dưng. Thiệt, tao mà dè thì tao đã vặn cổ mày hồi còn nhỏ cho rồi! Cho bú mớm bồng ẵm chi vô ích!

Moritz quỳ gối trước lò lửa, nhìn lửa cháy, như không nghe mẹ nói gì. Bà Aristitza bước lại xua đuổi:

- Mày đi ra khỏi nhà tao lập tức, đem con khốn ấy đi cho khuất mắt tao. Không thì tao giết nó, tao bóp cổ nó cho mà coi. Đây dòm bàn tay tao đây. Để tao chận cổ nó cho chết mới nghe.

Moritz trả lời, không buồn ngó đến bàn tay của mẹ, bàn tay "sắp chận nghẹt cổ Suzanna".

- Để nàng uống sữa rồi, chúng tôi đi liền, đi luôn ra tỉnh không bao giờ má thấy mặt nữa.

Bà già gay gắt:

- Bà hoàng chưa uống sữa thì không đi được phải không? Mẹ mày không cần uống sữa buổi sáng, còn bả thì chẳng có chẳng được.

Moritz nhắc bình sữa đi ra, không nhìn hai cụ. Sữa chưa sôi nhưng đã nóng. Suzanna giựt mình nghe tiếng chân đi. Moritz đưa bình sữa cho nàng và nói:

- Anh đây mà! Sữa nóng đây em!

Nàng nói nhỏ:

- Em không uống sữa.

- Uống một chút đi.

Suzanna đỡ lấy bình sữa. Moritz trở vô nhà lấy bao đồ đã sửa soạn để đi Mỹ. Aristitza hỏi:

- Mày đi với nó hả?

- Dạ!

Bà nghiến chặt hai hàm răng lại, nói: - Thôi được!

Khi Moritz cúi xuống giường lấy đôi giày thì bà ta ra sân.

Suzanna đang cầm bình sữa, thấy bà đi ngay lại mình, nàng sững sờ chết điếng. Mụ già nói:

- Mày còn đứng được thì phải đứng dậy ngay! Tao sẽ đánh cho mày biết tay. Đồ khốn kiếp!

Chưa dứt lời, mụ ta nắm tóc Suzanna đánh túi bụi. Suzanna la rú lên. Moritz nghe tưởng như là tiếng bà Iolanda, mẹ nàng. Anh vội chạy ra, nói lớn:

- Má! Má làm gì vậy?

Bà già ném một cái nhìn thù hằn về phía Moritz, đập thêm Suzanna vài cái nữa, rồi chạy trốn trong vườn bắp.

Mặt Suzanna đầy máu. Môi mắt đều sưng húp. Bình sữa đã bể, miểng cắt tay nàng mấy đường lớn. Máu trộn sữa làm vấy áo xanh của nàng. Moritz vội ẵm nàng ra đi. Tới cửa, anh ghé lấy bao đồ. Đoạn anh ra sân, lưng vác bao, tay ẵm vợ. Người và đồ đều nặng trĩu, anh đi không ngước mặt lên được. Anh nặng nề bước đi chậm chạp, đầu rút vào hai vai.

Trời vừa rựng sáng, Iordan cho ngựa uống nước và ăn lúa. Hắn vuốt ve chúng. Có cả thảy tám con. Hắn giữ bốn con để cỡi, không bắc kế. Ngựa tốt giống lắm, đều là ngựa nòi á-rạp, đen tuyền, cẳng nhỏ và tráng kiện. Đó là bạn yêu quý của hắn. Hắn thuật chuyện Suzanna cho chúng nó nghe, và nói với chúng những gì chất chứa trong lòng hắn. Con người không làm hắn tin cậy. Ngựa nhìn hắn chân thật hơn, với cắp mắt trong suốt, sáng ngời, như mặt kiếng soi.

Hắn nòi: "Và bây giờ đây, vợ ta đang nằm dưới đất, máu chảy, xương nhừ!". Không thấy ngựa nhúc nhích, hắn cho là ngựa có ý trách móc hắn, hắn nói tiếp: "Thôi để ta đem nó vô nhà thương, nếu bây muốn!".

Thế là nửa giờ sau, hắn bắc kế ra tỉnh. Hắn quấn vợ trong cái mền, để nằm trên xe, tấn giữa hai cái gối. Iolanda nằm xuội lơ, mắt nhìn xa xăm. Xe đến nhà thương sớm quá, phải ngồi ngoài xe chờ tới tám giờ. Chưa có vị bác sĩ nào đến. Trong lúc chờ đợi, Iordan chỉ nói chuyện với ngựa, không hỏi han ngó ngàng gì đến vợ lần nào. Tám giờ đúng, Iordan ẵm vợ, cả mền lẫn gối như ôm một gói đồ, đem vô phòng khám bịnh. Vợ hắn được xem trước nhứt. Khi người khán hộ cởi áo choàng Iolanda ra, bác sĩ thấy đầu bịnh nhân sưng to lên, thân mình đầy máu. Iolanda nằm dài, chỉ mặc một áo ngủ dính khắn vào da. Thật chỉ là một gói máu! Bịnh nhân nằm êm rơ. Bác sĩ hỏi:

- Ai đánh người này?

Iordan trả lời:

- Quan hệ gì đến ông. Ông cứ chữa bịnh đi, chuyện khác đừng lo đến. Bởi thế ông mới làm bác sĩ và tôi mới đem bịnh tới nhà thương.

Hắn không muốn nói rõ vụ gì.

Bác sĩ khám bịnh Iolanda và đem liền vào phòng mổ, cứu cấp.

Iordan vừa lấy nón, vừa đi ra cửa, nói:

- Tôi đi về, ông lo phận sự ông. Tôi sẽ trả tiền đủ. Nếu ông tính tiền được trước khi mổ, thì tôi trả tiền, hay đưa trước chút ít.

Hắn đưa tay vô túi móc bóp tiền ra. Bác sĩ nói:

- Ông chưa về được, chờ đây một chút!

- Tại sao phải chờ?

Y không thích ai giữ y lại. Y muốn đi khỏi nhà thương mau lẹ. Mùi thuốc men xông lên đầu y. Và y động lòng trắc ẩn. Y hối hận đã quá tay đánh vợ. Y nghĩ thầm: "Mình đánh đạp chưa đủ sao, bác sĩ còn mổ xẻ nữa". Y thương bại nhưng không muốn tỏ ra ngoài mặt. Y không muốn như vậy. Y chỉ muốn đi ra ngoài để chờ. Thở được khoan khoái, hít cho đầy phổi hơn.

Một khắc đồng hồ sau, ông biện lý đến với một viên hiến binh. Ông cho gọi Iordan vô phòng xử tại nhà thương để lấy khẩu cung. Ông hỏi đủ thứ: nào y phải tên Iordan không, nào chỗ ở nơi đâu, y mấy tuổi, và có phải chính y có đánh vợ trọng thương chăng? Y quạu quọ trả lời, mắt lờ đờ. Sau cùng, ông biện lý tuyên bố y bị bắt giam vì tội đánh vợ. Iordan thản nhiên, không cãi lẽ. Nhưng lúc viên hiến binh nắm vai y dẫn đi, thì y tái mặt hỏi:

- Ông dẫn tôi vô khám à?

- Phải!

- Còn mấy con ngựa của tôi? Mấy con bắc kế xe đậu ngoài cửa đó, ông làm sao?

Ông biện lý ngó viên hiến binh, rồi hỏi Iordan:

- Chú không có ai coi sóc nó sao?

- Không!

Viên hiến binh nói:

- Thôi bán lại cho lính chữa lữa đi. Họ có nuôi ngựa, họ sẽ nuôi luôn. Ở trong khám không chỗ nhốt ngựa.

Ông biện lý mỉm cười, tỏ dấu cám ơn viên hiến binh đã gỡ rối cho mình. Ông không biết phải xử trí làm sao với mấy con ngựa ấy. Ông mới đổi tới đây vài ngày. Ông tên là Damian, và đây là vụ án thứ nhứt của ông.

Đến trưa, khi ông sắp sửa đi ăn, thì có tin báo Iordan nhảy cắm đầu xuống sàn xi-măng, định tự tử. Tờ phúc trình của viên chủ ngục như sau:

"Tên tội đã khai tại nhà thương rằng y muốn tự tử vì không thể chịu được, khi nghĩ đến mấy con "ngựa thuần giống á-rạp của y chết đói, chết khát! Nghe đâu y là một tay cuồng nhiệt mê thích ngựa. "Bịnh tình y trầm trọng".

Cùng một lúc ấy, lại có tờ phúc trình cho hay: "Iolanda, vợ y, đã chết".

Ông biện lý Damian thấy lợm giọng. Nơi tiệm ăn, trước khi ngồi bàn, ông rửa tay thật sạch sẽ với nước lạnh và xà bong. Ông nghĩ: "Luật pháp sẽ xử Iordan về tội đánh chết vợ. Đánh đập người, hay quý ngựa hơn người không phải tội trọng của y, đó chỉ là kết quả của một tâm trạng. Sự dã man mới là tội nặng duy nhứt của Iordan. Cũng như mọi kẻ dã man, y coi rẻ con người đến đỗi hủy diệt mạng người. Về trọng tội ấy, do đó gây ra các tội lội khác, chẳng luật pháp nào trừng trị bao giờ. Sự dã man chỉ là một trạng thái bất hợp pháp trong vài trường hợp riêng biệt thôi".

Suzanna đi bộ được vài cây số ngàn, rồi ngồi xuống lề đường. Nàng nóng hầm và mệt nhừ, nàng nói:

- Iani ơi! Em không ráng nổi nữa!

Nàng nằm dài trên cỏ. Ở đây mới nửa đường ra tỉnh. Moritz để nàng ngủ, và chờ coi có xe nào chạy ngang đặng chở nàng. Nhưng chỉ thấy toàn người đi bộ và cỡi ngựa. Tới năm giờ chiều, trời mưa. Hột mưa lạnh ướt má anh. Moritz nghĩ: "Nếu chiều hôm qua mà mưa thì mình đâu có lại thăm Suzanna, và bây giờ nàng vẫn còn ở nhà, mình thì ở trên tàu tại bến Constantza rồi! Nếu trời mưa chiều hôm qua... Thôi thây kệ!".

Trời tối rồi mà chưa dứt hột mưa. Moritz tự nghĩ phải quyết định mới được.

Anh ái ngại nhìn Suzanna rồi nói:

- Anh trở về nhà mướn xe nhé!

Suzanna ngồi núp dưới tàn lá cây, áo và tóc ướt dầm. Nàng run lập cập vì lạnh. Nàng đáp:

- Anh tính sao cũng được.

Moritz hỏi:

- Em ngồi đây một mình, có sợ không?

- Nếu anh trở lại thì em không sợ.

Moritz hôn nàng và đi. Tới làng Fântâna thì trời tối đen như mực. Nông dân đều ngủ hết. Anh gọi cửa từng nhà, nhưng không một ai giúp anh. Họ muốn biết tên người đàn bà. Vừa nghe đến tên con gái Iordan là họ đều từ chối, viện lẽ không có chỗ chứa nàng. Tất cả đều sợ lão Iordan. Đến nửa đêm, Moritz vào sân nhà mục sư Koruga. Phòng sách còn sáng. Trước cửa, một chiếc xe hơi lớn, đen bóng, chiếu sáng dưới trời mưa. Trong nhà tiếng người nói chuyện vọng ra. Moritz nói thầm: "Chắc mục sư đang tiếp khách". Anh định đi ra, không muốn làm phiền mục sư. Nhưng trời mưa to thêm và mái nhà dột mưa chảy từng giọt. Moritz im lặng nghe ngóng một hồi lâu. Chừng nhớ đến Suzanna đang chờ anh một mình bên bờ lộ, anh bèn gõ cửa nhẹ nhẹ.

- "Con về kịp lúc! Ba muốn gặp con". Mục sư Koruga nói với con trai ông là Traian, và tiếp với con đem mấy va-li trong xe vô nhà. Xe đậu trước bao-lơn, phân nửa dưới giàn hoa trường xuân và hường rừng.

Trời vẫn mưa như trút.

- Con đi một mình hả.

Lúc ấy một thanh niên vừa bước xuống xe. Traian bèn giới thiệu với cha:

- Thưa ba, đây là anh Damian, bạn học và bạn thân của con. Con vừa mới gặp anh ngoài thành phố hồi trưa này. Anh là tân biện lý Tòa Hòa giải tỉnh mình.

Mục sư bèn xin lỗi về cách phục sức đơn sơ, vì không dè có khách. Ông dẫn hai người vô phòng khách rồi vào trong. Ông biện lý ngồi ngắm một hồi lâu con chim bồ câu trên đồng hồ, mấy tấm tranh treo trên tường, và mấy kệ đầy sách.

Traian cười và nói:

- Tôi biết anh đang nghĩ gì rồi! Anh ngạc nhiên về một nhà văn tân tiến nhứt trong xứ, viết những chuyện về máy bay, xe hơi, quán rượu và đèn điện, lại sanh trưởng ở một nơi mà thời gian dường như ngưng hẳn, tất cả đều cổ xưa hàng mấy thế kỷ, không chút gì thay đổi, phải không anh?

Ông biện lý đỏ mặt, gật đầu đáp:

- Thật vậy, đúng như tôi nghĩ!

Mục sư bước vào phòng, hai tay ngón búp măng và khô gầy châm lửa đốt cây đèn dầu, và trịnh trọng bưng để ngay giữa bàn. Traian mở va-li da, lấy mấy gói bao kỹ lưỡng để lên bàn. Đoạn, anh khui chai rượu chát và cho mời má anh lên. Khi bà ngồi rồi, Traian bèn rót hai ly rượu đầy, lấy trong cái hộp đựng sách mạ vàng, hai bổn đóng bìa toàn da, và nói:

- Đây là tác phẩm chót của con. Quyển tiểu thuyết thứ tám. Hai bổn này là bổn in riêng trước tiên, và cũng như thường lệ, xin để dành kính tặng cha mẹ. Và chúng ta uống rượu này khao mừng nó, cũng một thứ rượu chát hiệu "Capsa" mình đã từng uống mỗi khi xuất bản bảy quyển tiểu thuyết trước. ba má còn nhớ nỗi vui của con khi quyển thứ nhứt chào đời chăng?

Mục sư đỡ lấy quyển sách trên tay con, trịnh trọng như cầm cuốn kinh thánh trên bàn thờ. Bà mẹ nhón tay cầm quyển sách để dựa bàn, nói:

- Tay má dính dầu mỡ, má không muốn làm dơ sách của con.

Traian day qua Damian nói:

- Bổn thứ ba về phần anh.

Mục sư hôn trán con. Damian siết tay chàng. Bà mẹ hôn con nơi má rồi kề tai nói, nhưng rất to cốt để mọi người nghe:

- Má chưa đọc hết mấy quyển kia, con đừng phiền! Ba con có thuật lại cho má nghe hết rồi, nhưng quyển này má muốn tự má đọc. Má không muốn khi chết rồi mà chưa có đọc trọn quyển sách nào của con viết!

Traian cảm động, cụng ly với mọi người. Bà mẹ xin kiếu để xuống bếp. Traian bèn nói:

- Má ở đây một chút nữa. Con về đây còn một chuyện khác cũng quan trọng như vậy.

Chàng bèn móc túi lấy một bao thơ, đưa cho cha và nói:

- Đây là tiền tác quyền cuốn sách của con, xuất bản kỳ thứ nhứt. Con muốn mua một miếng đất tại làng Fântâna mình để cất nhà ở. Gần ba má càng tốt. Con sẽ ở suốt đời con.

Mục sư tươi cười lấy bao thơ để trên bàn. Bà mẹ vén vạt áo lau khóe mắt, nói:

- Má chắc con nói cho vui lòng ba má thôi. Con có bao giờ ở đây được quá ba ngày đâu. Lần nào con cũng tính ở cả tháng, mà mới hai ba ngày thì lại đi! Có khi bặt hằng mấy tháng không thấy con về.

- Thưa phải, nhưng bây giờ, con cất nhà mà!

Traian ngó cha và bạn. Chàng thấy hai người đều lộ vẻ ngạc nhiên, cho điều dự tính của chàng là một việc khác thường, bèn nói:

- Ai cũng không tin tôi có thể thực hiện được chuyện ấy. Nhưng trong hai năm nữa, cũng ngày này, nếu tôi còn sống, tôi sẽ mời tất cả đến nhà mới của tôi tại Fântâna. Chừng đó mới tin tôi được. Hiện giờ tôi không nói thêm gì nữa.

Ăn tối xong, mục sư hỏi con dự tính trước tác gì thêm. Traian ngập ngừng trả lời:

- Nội dung quyển tiểu thuyết tương lai của con sẽ là một chuyện thật. Phần văn chương của nó chỉ thuộc về phần kỹ thuật mà thôi. Các vai trong truyện của con có thật trong đời sống thực tế. Độc giả xem sách đều có thể gặp họ và chào hỏi họ ngoài đường. Con còn nghĩ muốn biên vào sách cả địa chỉ và số điện thoại của họ nữa.

Mục sư cười hỏi :

- Họ là những nhân vật nào mà con muốn làm quảng cáo như thế vậy?

- Họ là những người sống trên mặt đất! Cũng như Homère, con không thể đem cả chục triệu người ra viết truyện, nên con chỉ lựa lối mười người thôi. Không cần nhiều. Nhưng họ sẽ sống một cuộc đời như tất cả kẻ khác.

Ông biện lý hỏi:

- Có phải các nhân vật của anh sẽ được chọn theo một tiêu chuẩn khoa học, để trình bày nhân loại đúng với bản tính họ không?

- Không. Các vai truyện, tôi sẽ ngẫu nhiên chọn, không cần tiêu chuẩn khoa học. Việc gì xảy ra cho họ có thể xảy ra cho người khác, xê xích chút đỉnh thôi. Đó là những biến cố không một ai thoát khỏi. Tôi không cần lựa người phi thường, chỉ chọn đại trong số hai triệu người, những ai mà tôi biết nhiều hơn. Một gia đình chẳng hạn, gia quyến tôi đây: ba má tôi, tôi và anh, người ở của ba tôi, vài người bạn và ít người láng giềng.

Mục sư mỉm cười và rót rượu. Traian nói:

- Tôi sẽ chép truyện của từng người một trong những năm sắp tới. Chắc có nhiều chuyện lạ kỳ. Tương lai dành cho mỗi chúng ta nhiều sự bi đát mà không sử sách nào nói đến.

Ông biện lý nói:

- Nếu tương lai quả đáng kinh khủng như anh nghĩ, thì tôi ước mong nó chỉ lả ở trong truyện của anh mà thôi!

Traian đáp:

- Chừng biến cố bi thảm xảy ra trong đời rồi, tôi mới viết vào truyện sau.

Ông biện lý hỏi:

- Vậy thì tôi cũng sống những giờ phút kinh khủng nữa sao? Anh biết rằng tôi có một cuộc đời trưởng giả, không ai chú ý đến. Đời tôi trái hẳn với đời một người mạo hiểm phiêu lưu mà!

- Anh Damian à! Phần đông những người sống trên trái đất này đều không phải là người mạo hiểm, nhưng họ phải trải qua những hoàn cảnh mạo hiểm mà chẳng một tác giả quyển truyện nào tưởng tượng được.

Ông biện lý mỉm cười hỏi:

- Và chuyện gì dữ dội sẽ xảy ra mà kích động như thế?

- Thôi đừng mỉa mai nữa, anh à! Tôi cảm thấy vừa có một biến cố nghiêm trọng xảy ra chung quanh ta. Tôi không rõ nơi đâu, chừng nào và bao lâu mới dứt. Nhưng tôi cảm thấy nó có. Và chúng ta sẽ bị lôi cuốn trong trận giông tố nhiễu loạn làm nát thịt, tan xương, hết người này đến người khác. Tôi linh cảm biến cố ấy như lúc một chiếc tàu sắp đắm chìm mà chỉ có đàn chuột thoát được thôi, khi chúng vụt chạy tứ tung; có khác một điều là tôi không biết trốn vào đâu? Trên thế giới này không có nơi nào cho chúng ta ẩn trốn được.

- Anh muốn ám chỉ biến cố nào vậy?

- Nếu anh muốn, anh có thể gọi là một cuộc cách mạng. Một cuộc cách mạng khổng lồ phi thường. Và tất cả con người đều là nạn nhân.

Vẫn chưa tin lời nói của Traian là thực, ông biện lý hỏi:

- Vậy chừng nào nó xảy ra?

- Cuộc cách mạng đã bùng nổ rồi bạn ạ! Dầu bạn có mỉa mai nghi ngờ, thì nó cũng đã khởi mào rồi. Ba tôi, má tôi, anh, tôi và mấy người khác sẽ lần lượt nhận ra nguy tai và nên ráng tìm cách tự cứu, ẩn trốn đi. Có người đã khởi sự lẩn trú, như thú rừng chạy tìm chỗ ẩn khi biết cơn giông bão sắp đến. Phần tôi, tôi muốn rút về làng. Phe cộng sản cho rằng phe độc tài chịu trách nhiệm, và mối nguy tai chỉ có thể tránh được khi nào tiêu diệt hết bọn độc tài. Nhóm quốc xã muốn cứu lấy mình, phải giết dân Do-thái. Nhưng đây mới chỉ là triệu chứng của nỗi lo âu của con người trước hiểm họa. Hiểm họa, tuy nhiên, thì ở đâu cũng vậy. Chỉ có sức phản ứng của loài người trước nguy cơ là khác nhau thôi.

- Hiểm họa to tát nào hăm dọa chúng ta vậy anh?

- Tên nô lệ kỹ thuật (điện lực)! Anh cũng biết nó rồi. Tên "nô lệ kỹ thuật" là tay sai đắc lực, mỗi ngày giúp ta muôn ngàn việc mà ta phải cần đến luôn, không thể thiếu được. Nó đẩy xe hơi ta chạy, cho ta ánh sáng, đem nước ta tắm giặt, đấm bóp ta, thuật chuyện vui cho ta nghe khi ta vặn nút máy phát thanh, nó phóng đường, dời núi...

- Tôi nghĩ đây là một lối cẩn dụ ngữ nên thơ thôi!

- Đây không phải là ẩn dụ ngữ, anh à! Tên "nô lệ kỹ thuật" là thật sự. Sự hiện có của nó không chối cãi được.

- Tôi không phủ nhận sự hiện có của nó. Nhưng tại sao anh gọi nó là tên "nô lệ kỹ thuật" trong khi nó chỉ là một sức mạnh cơ giới thôi.

- Người nô lệ thời cổ, người "nô lệ nhân lực", bạn của tên "nô lệ kỹ thuật", bị người La-mã và Hi-lạp xem như một sức mạnh mù quáng, một động vật vô giác. Họ cũng bị bán, bị mua, bị biếu làm quà, và bị giết chết được. Họ chỉ được đánh giá theo sức mạnh của bắp thịt, và khả năng làm việc thôi. Cũng giống với một thứ tiêu chuẩn giá trị mà ta dùng ngay nay cho tên "nô lệ kỹ thuật".

- Khác xa lắm chớ! Ta không thay thế một người nô lệ nhân lực bằng một tên nô lệ kỹ thuật.

- Sao lại không! Đúng là ta làm được chuyện ấy! Và tên nô lệ kỹ thuật lại tỏ ra ngăn nắp và ít tốn kém hơn người nô lệ nhân lực. Trước tiên, nó khởi sự thay thế rất mau chóng công việc làm của người nô lệ nhân lực. Tàu thủy thay thế thuyền chèo. Ngày nay tàu chạy bằng sức mạnh của các tên nô lệ kỹ thuật chớ đâu có do người nô lệ chèo chống nữa. Tối đến, nếu người giàu có mướn đày tớ cho thêm sang trọng, thì cũng không cần vỗ tay để thấy tên đày tớ cầm đèn sáp bưng lên, như thuở xưa ở La-mã hay ở Athènes, mà chỉ vặn nút là tên "nô lệ kỹ thuật" thắp đèn sáng trong căn phòng. Tên "nô lệ kỹ thuật" sưởi ấm nhà, nấu nước tắm, mở cửa sổ, tạo nên gió lùa cho có thoáng khí. Nó còn tiện lợi gấp mấy lần bạn đồng nghiệp nô lệ nhân lực của nó. Dễ sai, dễ biểu, không biết nghe ngóng, không dòm ngó gì. Tên nô lệ kỹ thuật chỉ có mặt khi ta cần đến nó thôi. Nó đem thơ tình của bạn trong nháy mắt, và cho đến tiếng nói của người yêu, bạn cũng nghe từ chỗ tận xa. Những tên nô lệ kỹ thuật thật là những đày tớ hoàn toàn. Nó cày ruộng, đánh giặc, làm cảnh sát, lam việc hành chánh. Nó học tất cả ngành hoạt động của người và thi hành toàn mỹ. Nó làm toán trong phòng văn, chải gỡ, hát múa, bay trên không, lặn dưới nước. Nó cũng trở thành viên hành hình kẻ tử tội. Trong nhà thương, nó chữa lành bịnh nhân cạnh bác sĩ, và nơi thánh đường, nó cũng giúp mục sư cử hành lễ mi-xa.

Traian ngừng một chặp, nhắp chút rượu. Ngoài trời mưa vẫn đều đều rơi.

Chàng nói tiếp:

- Tôi xin kết thúc nghị luận lạc đề này. Phần tôi, tôi xin thú thật lúc nào cũng thấy còn ở trong toàn thể xã hội, mặc dầu bề ngoài tôi chỉ ở một mình. Tôi vẫn có chung quanh tôi những tên "nô lệ kỹ thuật" luôn luôn sẵn sàng phụng sự và giúp đỡ tôi. Nó đốt thuốc tôi hút, thuật cho tôi nghe tin tức thế giới, soi sáng đường tôi đi ban đêm. Đời tôi theo nhịp cử động của chúng nó. Chúng nó làm bạn đồng hành với tôi hơn tất cả mấy người bạn khác. Tôi có thể hy sinh cho chúng nó. Vì thế nên tôi không ở lâu tại làng Fântâna này như má tôi vừa trách móc. Mấy tên nô lệ kỹ thuật của tôi còn chờ tôi ở Bucarest. Chúng ta ngày nay giàu hơn các bạn đồng nghiệp chúng ta hồi hai ngàn năm trước. Hồi đó, họ chỉ có vài chục tên nô lệ. Chúng ta lại có cả trăm, cả ngàn. Và hiện giờ, tôi xin hỏi: "Ước được bao nhiêu tên nô lệ kỹ thuật đang hoạt động trên trái đất này? Ít nhứt cũng vài chục tỷ. Và có bao nhiêu người?".

Ông biện lý đáp:

- Hai tỷ người ta.

- "Đúng vậy! Con số đông hơn của các nô lệ kỹ thuật trên mặt đất thật vô cùng to tát. Nếu kể đến việc những tên nô lệ kỹ thuật nắm các then chốt tổ chức trật tự xã hội ngày nay, thì nguy cơ thật rõ rệt. Nói theo thuật ngữ quân sự, các tên nô lệ kỹ thuật nắm trong tay các yếu điểm dụng binh trong xã hội: binh bị, giao thông, lương thực và kỹ nghệ, đó là chỉ kể sơ mấy điểm quan trọng. Các tên nô lệ kỹ thuật hợp thành một giai cấp vô sản, nếu ta hiểu theo nghĩa đen chữ này, "giai cấp vô sản" là một nhóm trong xã hội ở một giai đoạn lịch sử, nhóm đó không được nhập chung với xã hội. Vận mạng các tên nô lệ kỹ thuật ở trong tay của loài người.

"Tôi không viết một quyển tiểu thuyết kỳ dị, nên vì thế, tôi không diễn tả, một ngày kia, khi các tên nô lệ kỹ thuật nổi dậy bắt nhốt loài người vào trại giam như thế nào, thủ tiêu họ trên đoạn đầu đài hoặc trên ghế điện ra làm sao.

"Những hành động cách mạng bạo tợn ấy là việc làm của loài người, của các tên nô lệ nhân lực. Tôi chỉ diễn tả những chuyện có thật. Và trong thực tế, "giai cấp" nô lệ kỹ thuật ấy làm cách mạng mà không dùng đến chướng ngại vật như các đồng chí nô lệ nhân lực của chúng nó. Trong xã hội hiện tại, các tên nô lệ kỹ thuật chiếm phần đại đa số; việc này thấy rõ ràng. Trong khuôn khổ của xã hội loài người, chúng nó lại hành động theo kỷ cương cố hữu của chúng, khác hẳn với pháp luật đặc biệt của chúng: tự động tính, trạng thái nhứt trí, và vô danh.

"Một xã hội có đến vài chục tỷ tên nô lệ kỹ thuật nhưng chỉ có độ hai tỷ người (dẫu rằng loài người cai trị xã hội ấy đi nữa), tất nhiên xã hội ấy sẽ có tính cách một đại đa số "giai cấp vô sản".

"Hồi thời đại dân Romains xưa, người nô lệ nhân lực biết nói năng, cầu khẩn và sống theo tục lệ của họ. Họ là dân xứ Hi-lạp, xứ Thrace hoặc của các xứ bị chiếm khác bị bắt đem về La-mã. Các nô lệ kỹ thuật của xã hội chúng ta ngày nay cũng giữ bản tính đặc biệt của chúng và sống theo kỷ cương tổ chức của chúng. Bản tính ấy, hay nếu anh muốn, sự thật ấy, hiện có trong khuôn khổ xã hội chúng ta. Ảnh hưởng của chúng càng lúc càng rõ rệt. Con người muốn cho chúng phụng sự mình, bắt buộc phải biết và bắt chước những thói thường và luật tắc của chúng. Mỗi chủ nhân đều cần phải biết chút ít ngôn ngữ và phong tục của người giúp việc mình để dễ điều khiển họ. Hầu hết luôn luôn như vậy. Khi kẻ chiếm cứ thuộc nhóm thiểu số, thì phải học tiếng nói và theo tục lệ của dân tộc bị chiếm, để được thuận tiện, hoặc vì lợi ích thiết thực. Họ làm đúng vì họ là kẻ chiếm cứ và là chủ nhân quyền thế.

"Lối quá trình diễn tiến ấy cứ bành trướng mãi trong khuôn khổ xã hội ta, mặc dầu ta không chịu nhìn nhận. Ta học lề lối và cách nói năng của người nô lệ ta, để điều khiển được chu đáo. Và như thế, lần lần, ta rời bỏ bản tính con người và luật lệ của ta mà ta không để ý đến. Ta tự bỏ nhân bản mình để chịu theo lề lối đời sống của mấy tên nô lệ kỹ thuật của chúng ta. Triệu chứng đầu tiên của sự giảm hạ nhân bản ấy, là sự khinh rẻ con người. Người văn minh ngày nay biết rằng mình và đồng loại là những phần tử có thể thay thế dễ dàng. Xã hội hiện đại đã liệu tính một người phải dùng đến một vài chục tên nô lệ kỹ thuật tất phải tổ chức và điều hành theo luật tắc kỹ thuật. Đó là một xã hội thành lập tùy theo nhu cầu cơ giới, chớ không phải tùy theo nhu cầu nhân sinh. Và đến đây là khởi đầu tấn bi kịch.

"Loài người bắt buộc phải sống và cư xử theo luật tắc kỹ thuật, khác hẳn với luật pháp nhân loại. Khi luật của cơ giới đã được cất nhắc lên luật xã hội, ai mà không theo sẽ bị trừng phạt. Con người sống theo tính cách thiểu số, thì với thời gian, sẽ thành một thiểu số giai cấp. Họ sẽ bị loại ra ngoài xã hội của họ, cái xã hội mà từ rày về sau họ không thể gia nhập, nếu không chịu rời bỏ địa vị con người của họ. Do đó nảy sinh nơi họ một mặc cảm tự ty, họ muốn bắt chước kỹ thuật cơ khí và bỏ rơi đặc tính nhân bản của mình, để đừng bị cách biệt khỏi mấy nơi trung tâm hoạt động xã hội.

"Và cuộc tách lìa lần hồi ấy thay đổi tâm tính con người, khiến họ quên luôn tình cảm, xã giao: con người tiết giảm đến thành quả quyết, chính xác và tự động như các bộ phận ăn khớp nhau trong một cái máy. Nhịp đà và ngôn ngữ của các tên nô lệ kỹ thuật được bắt chước trong giới xã giao, hành chánh, hội họa, văn chương, khiêu vũ. Con người biến thành con kéc của mấy tên nô lệ kỹ thuật. Nhưng đến đây mới là khởi đầu thảm kịch mà thôi. Ấy là lúc khởi sự quyển tiểu thuyết của tôi, nghĩa là đời sống của ba tôi, của má tôi, của anh, của tôi, và của mấy nhân vật khác".

Ông biện lý vẫn hỏi một cách ngạo nghễ:

- Nghĩa là chúng ta trở thành "người máy" hết?

- Chính vì đó mà bi kịch xảy ra. Ta không thể biến thành máy móc được. Cuộc đụng chạm giữa hai thực thể, máy và người, nổ bùng; các tên nô lệ kỹ thuật thắng trận. Chúng nó sẽ tự giải phóng và trở thành "công dân kỹ thuật" của xã hội chúng ta.

Và chúng ta là loài người, chúng ta sẽ trở thành giai cấp "vô sản" của một xã hội, tổ chức theo nhu cầu và văn hóa đại đa số công dân, nghĩa là của "công dân kỹ thuật".

Ông biện lý hỏi:

- Theo thực tiễn, cuộc đụng chạm sẽ như thế nào?

- Tôi cũng tò mò muốn biết. Song, đồng thời tôi sợ. Tôi muốn thà chết trước, hơn là phải chứng kiến bị hành hình trên thập tự giá, tôi và các đồng bào tôi.

- Anh nghĩ đến những chuyện chắc chắn có thiệt à?

- Tất cả những biến cố đã xảy ra trên mặt đất và sẽ xảy ra trong những năm sắp tới, đều chỉ là triệu chứng và biến tượng của cùng một cuộc cách mạng, cuộc cách mạng của các tên "nô lệ kỹ thuật". Kết cuộc, con người không thể sống thành xã hội được, khi còn giữ đặc tính nhân bản của mình. Họ sẽ được xem ngang hàng nhau, y nhau, và được đối xử theo một thứ luật pháp đã áp dụng cho các tên nô lệ kỹ thuật, không chút nhân nhượng nào hợp với tính chất con người nữa. Sẽ có những cuộc bắt bớ tự động, những cuộc giải trí tự động, những cuộc xử tội và hành quyết tự động. Con người chẳng còn quyền cá nhân được sống, sẽ bị coi như một bộ phận trong máy móc và sẽ bị chế giễu nếu họ muốn sống riêng biệt cá nhân. Anh có thấy một bộ phận của máy móc cử động riêng rẽ được không? Cuộc cách mạng ấy sẽ thực hiện tràn khắp thế giới. Ta không còn trốn tránh đâu được, trong rừng sâu hay trên hoang đảo. Không chỗ nào được hết. Chẳng một nước nào có thể bảo vệ ta. Tất cả những đạo binh trên thế giới đều gồm những binh sĩ đánh giặc mướn, chỉ chiến đấu để củng cố cái xã hội cơ giới, mà nơi xã hội ấy con người cá nhân bị loại trừ. Hồi xưa đến giờ, quân binh đánh nhau để chinh phục thêm đất đai tài sản, đánh nhau vì vinh dự tổ quốc, vì quyền lợi riêng tư của vua chúa, không ngoài cứu cánh xâm lược hay chiếm thế lực. Đó là mục đích của loài người. Ngày nay thì quân binh đánh giặc để giữ quyền lợi cho một xã hội mà họ chỉ có vừa đủ quyền sinh sống, họ như những người của giai cấp vô sản thuở xưa. Có thể đây là một thời kỳ lịch sử đen tối nhứt của loài người. Chưa bao giờ con người bị khinh khi đến thế. Như trong những xã hội dã man, một người bị đánh giá rẻ hơn một con ngựa. Chuyện ấy ngày nay còn thấy nơi vài giống dân hoặc nơi vài cá nhân. Có phải anh mới thuật cho tôi nghe một nông dân vừa giết vợ mà không chút hối hận, lại muốn tự tử vì nghĩ đến chuyện không ai cho ngựa anh ta ăn uống, trong lúc anh ta ngồi tù chăng? Cách làm giảm giá trị con người trong xã hội thời cổ là như thế: dùng con người làm vật hy sinh cúng tế là việc thông thương. Trong xã hội hiện đại, việc hy sinh người lại còn không đáng nhắc đến, vì nó quá ư tầm thường. Mạng người chỉ có giá trị khi dùng làm nguồn năng lực. Các tiêu chuẩn giá trị đều toàn tính theo khoa học. Đó là luật của nền kỹ thuật man rợ đen tối của chúng ta. Chúng ta sẽ đi đến tình trạng ấy khi các tên nô lệ kỹ thuật toàn thắng.

- Vậy cuộc cách mạng mà anh tiên đoán đó chừng nào sẽ xảy ra?

- Nó đã xảy ra rồi anh ạ! Chúng ta sẽ tham gia vào sự bành trướng cảu nó. Phần đông chúng ta sẽ không sống sót được. Tôi rất sợ không bao giờ viết xong quyển sách này được, bởi vì tôi cũng chết mất nữa.

- Anh thật bi quan quá sức!

- Tôi là một thi sĩ. Tôi có một giác quan mà người thường không có, và nhờ đó tôi thấy được tương lai. Thi sĩ là một nhà tiên tri. Tôi rất buồn mà thấy tôi là người đầu tiên đã nói ra trước nhứt một chuyện não lòng như thế, song sứ mạng thi sĩ của tôi bắt buộc tôi phải nói. Tôi phải kêu la lớn lên để có tiếng vang khắp chốn, dầu là chuyện không vui tai chút nào.

- Anh tin chắc chuyện anh là thật chớ!

- Khổ thay, tôi tin chắc lắm!

- Tôi chỉ tưởng là anh viết văn thôi.

- Không phải văn chương suông đâu. Mỗi đêm tôi đều chờ việc gì xảy đến cho tôi.

- Việc gì mới được chớ?

- Bất cứ việc gì. Khi mà con người bị hạ xuống tới mức một khả năng kỹ thuật xã hội, thì chuyện gì lại không thể xảy ra cho họ được. Họ có thể bị bắt, bị đày khổ sai, bị diệt chủng, hay bị bắt buộc làm một chuyện gì, nào ai biết được, hoặc làm việc để cải thiện giống nòi, hay cho một mục đích nào khác, ích lợi cho xã hội kỹ thuật, mà không chút mảy may tôn trọng phẩm cách cá nhân họ. Xã hội kỹ thuật chỉ làm việc theo luật pháp kỹ thuật, chỉ thi hành theo các kế hoạch, và chỉ có một tinh thần là: sự sản xuất.

- Có thể chúng ta bị bắt chăng?

Ông biện lý không còn mỉa mai nữa, và có vẻ lo sợ, hỏi Traian như hỏi một ông thầy bói về tương lai mình, mặc dầu trong thâm tâm ông không tin tưởng.

Traian đáp:

- Sẽ không có ai được sống yên tự do trên toàn cầu này.

- Ta chết trong ngục tối, dẫu không có tội nữa sao?

- Không! Con người sẽ bị lôi cuốn vào xã hội kỹ thuật trong nhiều năm dài đăng đẵng. Họ sẽ không bị chết trong xiềng xích tù đày. Xã hội kỹ thuật có thể tạo đủ tiện nghi, nhưng không phát sinh được tâm hồn trí óc. Mà không trí óc thì không có thiên tài. Một xã hội không có thiên tài sẽ đi lần đến chỗ diệt vong. Xã hội kỹ thuật đã chiếm địa vị của xã hội Tây phương và sắp chiếm cả hoàn vũ, cũng sẽ bị tiêu diệt nữa. Ông Albert Einstein trứ danh quả quyết rằng: "Chỉ gián đoạn chừng hai thế hệ những hạng trí não đại tài chuyên môn vật lý học, thì tất cả các cơ sở kiến tạo theo khoa học ấy đầu sụp đổ". Sau cuộc sụp đổ của xã hội kỹ thuật sẽ nối tiếp cuộc tái sinh những giá trị nhân bản và tinh thần. Ánh sáng vĩ đại sẽ soi từ phương đông, từ Á châu. Không phải từ nước Nga. Dân Nga còn quỳ lụy dưới ánh sáng điện lực của Tây phương và không sống sót được. Người Á châu sẽ thâu phục xã hội kỹ thuật và dùng ánh sáng điện lực để soi đường sá, nhà cửa. Họ sẽ không trở thành nô lệ nó và không lập đền thờ nó, như ở xã hội kỹ thuật Tây phương này đã làm một cách man rợ. Họ không soi sáng đường lối của trí óc và tâm não bằng ánh điện nê-ông. Người Đông phương sẽ làm chủ các máy móc của xã hội kỹ thuật bằng trí khôn, như một nhạc sư điều khiển dàn nhạc do thiên tài âm điệu. Nhưng ta không thể biết thời đại đó. Ta đang sống một thời đại mà con người quỳ lụy dưới mặt trời điện khí như một dân dã man.

- Ta sẽ chết chùm với nhau sao?

- Mỗi người của chúng ta đều bị giết hại trong guồng máy kỹ thuật. Quyển sách của tôi sẽ là quyển nói về giai đoạn kết luận ấy.

- Anh cho nhan đề gì?

- Giờ thứ hai mươi lăm. Giờ mà mọi cứu cấp đều vô ích. Dầu cho Chúa Cứu Thế ra đời cũng không giải quyết được. Không phải giờ chót: ấy là giờ kế sau giờ chót. Thời giờ chính xác của xã hội Tây phương. Ấy là giờ hiện tại. Giờ thật đúng.

Mục sư ngồi im, vùi đầu trong hai bàn tay.

Damian nói:

- Thưa Cha, nếu lời tiên tri của Traian thành sự thật, và con người rồi đến phải bị đối xử như nô lệ, thì Giáo hội không làm gì được cho xã hội hiện tại sao? Nếu Giáo hội không cứu nổi nhân loại trong giờ phút nghiêm trọng ấy, thì sứ mạng của Giáo hội còn được những gì?

Mục sư Koruga suy nghĩ một lát rồi đáp:

- Giáo hội không cứu nổi xã hội, nhưng có thể an toàn sinh mạng cá nhân của con người hợp thành xã hội.

- Và Cha có tin lời tiên đoán của Traian chăng?

- Tôi thường hay tin tưởng các thi sĩ. Và, theo tôi, Traian là một đại thi sĩ.

Traian đỏ mặt, vui mừng như một đứa trẻ, nói:

- Cám ơn ba.

Mọi người đều im lặng. Traian nói:

- Hình như có ai đi trên bao-lơn.

Ba người lóng tai nghe. Bên ngoài chỉ có tiếng mưa rơi. Mục sư nói:

- Nếu có ai vô trong sân, ắt chó sủa. Chỉ có Moritz là người thân tín của tôi vô nhà thì chó mới không sủa thôi. Nhưng giờ này, chắc anh đã ngủ ngon trên tàu đi sang Mỹ quốc rồi!

Traian nói:

- Tôi chắc chắn nghe tiếng người leo lên bực thang. Tôi thính tai lắm và nghe tiếng động rõ ràng.

Ông biện lý mỉm cười, nói đùa:

- Chắc có tên nô lệ kỹ thuật nào vừa mới thoát khỏi xe hơi anh. Hay cách mạng đã bùng nổ, và chúng nó đến bắt giam chúng ta ngay đêm nay chớ gì? Anh có bao nhiêu tên nô lệ kỹ thuật trong chiếc xe hơi anh?

- Anh cứ tính: 55 mã lực, mà một mã lực là sánh với bảy người.

- Con số của vài trung đội. Còn chúng ta chỉ có ba người. Nếu chúng nó tấn công, chắc ta phải đầu hàng vô điều kiện.

- Không có sự đồng lõa của một người thì những tên nô lệ kỹ thuật không làm gì người được. Nếu có một công dân đồng lõa, mà công dân ấy không phải người, thì các tên nô lệ kỹ thuật trở thành quái vật của Apocalypse thời cổ.

- Anh nói công dân nào? Chúng ta đều là công dân đây?

- Công dân là một người chỉ sống trong khuôn khổ xã hội của cuộc đời. Như nòng ống thụt của một cái máy, nó chỉ làm có một cử động, và cứ lặp lại cử động ấy mãi mãi. Nhưng khác với nòng ống thụt, một công dân có ước vọng thiết lập hoạt động của mình thành một biểu hiện, để làm gương mẫu trong khắp thế giới, và để cho mọi người bắt chước. Công dân là một con thú nguy hiểm nhứt, sinh ra trên địa cầu, từ lúc người và các tên nô lệ kỹ thuật gặp nhau. Nó có tính tàn bạo của người và của thú, với tính lãnh đạm của máy móc. Người Nga đã phát sinh ra một kiểu mẫu công dân hoàn toàn: người ủy viên.

Hai tiếng gõ cửa nhẹ dội lên. Traian nói:

- Tôi đã nói tôi nghe rõ mà! Thính giác của một thi sĩ không khi nào sai lầm.

Mục sư ra ngoài bao-lơn, để cửa mở. Ông trở vào dẫn theo sau một thanh niên. Người này mặc áo sơ-mình, quần dài, đầu trần và ướt dầm.

Mục sư giới thiệu: "Đây là anh Iohann Moritz".

Ông đưa cho anh một ly rượu và mời anh ngồi. Moritz từ chối, và đứng dựa cửa. Anh sợ ướt tấm thảm và cái ghế. Từ trên tóc anh, nước mưa chảy xuống có giọt, đủ biết anh đã đi lâu dưới trời mưa.

Mục sư hỏi:

- Anh muốn nói chuyện một mình với tôi à?

- Tôi có thể nói ở đây được chăng?

Mục sư nói:

- Tôi rất tiếc, hồi mới này anh không tới lấy bao đồ tôi tặng anh.

- Tôi không đi Mỹ nữa.

Moritz ngó hai người thanh niên, rồi day qua mục sư và hỏi:

- Hôm qua Cha cho phép tôi ngủ ở phòng gần nhà bếp phải chăng?

Mục sư bây giờ mới hiểu tại sao Moritz đến gõ cửa nhà ông trong đêm tối như vậy. Ông đáp:

- Phòng đó là của anh. Anh cứ đến ở lúc nào cũng được, tùy ý.

Moritz hỏi:

- Nếu có ai khác đến ngủ đêm nay, Cha cho không?

- Sao lại không. Nếu người ấy cần dùng, mà anh muốn giúp đỡ, thì anh làm một chuyện phải.

- Chính Suzanna, con gái của Iordan. Nàng trốn nhà vì cha nàng muốn giết nàng.

Moritz nhớ đến mấy người làng đều từ chối, không cho anh ở trọ khi nghe đến tên người con gái. Anh ngó ngay mục sư. Mục sư vẫn điềm tĩnh đáp:

- Nếu trong phòng có lạnh, anh nhúm lửa lên. Anh biết chỗ để củi chớ?

Moritz đứng ngần ngại dựa cửa. Trước khi ra đi, anh thuật lại, như xưng tội, chuyện đã xảy ra. Khi anh thuật dứt chuyện và nói Suzanna đang còn ở giữa đồng, nửa đường từ làng Fântâna ra tỉnh, thì Traian liền đứng dậy, khoác áo choàng, ra xe, chở Moritz đi.

Nửa giờ sau, xe trở về, đậu y chỗ cũ. Moritz đỡ Suzanna trên tay. Ông biện lý đứng trên bao-lơn ngó xuống, thấy bà mục sư đi kề bên trái Moritz, ông mục sư, bên mặt. Người con gái nằm trên tay Moritz như đứa trẻ đang ngủ, áo xanh ướt đẫm, dính sát vào mình. Traian vô phòng khách. Ông biện lý đi theo sau, nói:

- Anh ướt hết rồi!

Traian đỏ mặt, nhìn giày dính đầy bùn, quần áo ướt dầm, nước nhểu có giọt xuống gạch. Chàng làm ướt mình vô ích, vì Moritz đã một mình bồng Suzanna lên xe. Chàng khỏi cần giúp tay vào, thế mà chàng cứ đứng ngoài mưa, gần kề anh. Traian suy nghĩ về hành động của mình và tự nói, nếu từ rày về sau, có xảy ra trường hợp y như thế, chàng cũng sẽ làm như vậy. "Ấy là sự cần thiết chia sẻ nỗi đau thương với người bên cạnh mình, dẫu sự giúp đỡ không có giá trị thực tiễn, hay dẫm làm giùm không công cũng vậy".

Mục sư vô phòng, ông cũng ướt hết, nước chảy từ trên trán, trên má, trên râu ông. Ông cũng đi theo Moritz, dưới trời mưa. Như con ông, ông không cần giúp tay vào.

Traian lại nghĩ: "Thượng Đế cũng hành động vô ích như thế, khi tạo lập vũ trụ. Thượng Đế sáng lập nhiều vật không lợi ích thật tiễn, nhưng đó là những công trình tuyệt mỹ. Đời người là một sáng tạo vô ích. Cũng vô ích và vô lý như hành động của ta và cha bây giờ. Song le, sự nhiệt tâm rất cao quý. Dẫu là vô ích, nhưng nhiệt tâm ấy không có gì so sánh nổi!".

Mục sư nói:

- Coi chừng con lạnh, Traian à!

- Con không lạnh. Người bịnh ra sao?

- Nàng đang cơn sốt. Má con đã làm cho nàng một tách nước trà nóng rồi. Con sẽ được ban phước về cử chỉ của con đã chở nàng về. Người nghèo cần được giúp đỡ.

Đồng hồ gõ mười hai giờ khuya.

Moritz gõ cửa. Anh không chờ đến mai sáng để cám ơn mục sư và Traian. Trong những chuyện tai họa dồn dập cho anh từ 24 giờ qua, anh chỉ nhớ có lòng nhân từ của mục sư mà thôi. Anh mang ơn ông rất nặng. Anh thỏa lòng được thấy Suzanna có chỗ yên thân, nếu không thì sẽ nguy hại đến bực nào! Traian ngó chăm chỉ Moritz, ngắt ngang lời anh, nói với mục sư:

- Thưa ba, chừng nào con có về đây, con sẽ ở nhà ba. Tiền con gởi ba cất giùm đó, ba cho Moritz đi, để anh cất một cái nhà nhỏ tại làng Fântâna. Anh còn cần hơn con nhiều.

Mục sư lấy bao thơ đưa cho Moritz một cách tự nhiên, cử chỉ giản dị như tất cả mọi cử chỉ cao thượng khác. Ông không khuyên bảo gì thêm, chỉ đưa bao thơ cho Moritz mà thôi. Moritz mở bao thơ ra. Anh không biết mình có nghe lầm hay không? Khi thấy xấp giấy bạc, mắt anh mở to, thật to như mắt người thấy những hiện tượng phép màu kỳ lạ. Anh không thốt nên lời. Lòng anh không còn chỗ nào xen lời nói vô được. Anh nắm chặt bao thơ trong tay, đứng im lặng.

Sau một lát, mục sư nói:

- Anh cám ơn Traian đi, rồi về ngủ. Đưa tiền cho Suzanna cất. Đàn bà biết giữ tiền bạc hơn đàn ông.

Ông biện lý nói:

- Chắc anh Moritz còn muốn uống một ly rượu mừng, bây giờ anh đã là một điền chủ tại làng Fântâna rồi!

Bà mụcsư bước vô phòng. Moritz để ly trên bàn và ngó bà trân trối. Bà cho hay Suzanna đỡ nhiều. Đoạn bà kéo mục sư riêng ra, và nói nhỏ vào tai. Ông già cau mày, rồi mỉm cười. Moritz ngó theo từng cử chỉ của ông. Ông lên tiếng:

- Anh vững lòng, đừng lo sợ, không phải một tin xấu đâu. Vợ tôi cho hay anh sắp làm cha. Vậy phải lo làm đám cưới trước.

Moritz siết tay từ giã Traian và ông biện lý rồi đi ra. Trời vẫn mưa. Trước khi xuống thềm, anh cất tiền vào áo sơ-mình cho khỏi ướt. Bao thơ ấm áp, và êm tay. Kẹp nó vào mình, Moritz thấy trước mắt nào nhà cửa, hàng rào, giếng nước, vườn cây trái, như lòng anh hằng mơ ước. Khi anh vô phòng, Suzanna còn ngủ. Anh để tiền dưới gối và nằm ngủ trên đống rơm.

Mục sư vừa đi ngang cửa sổ phòng sách vừa huýt sáo, rồi nói với Traian:

- Phải dè ba không nói chuyện đám cưới với nó. Mẹ Suzanna chết rồi. Thây còn để ở nhà xác, còn cha nàng thì ở tù. Thật không phải lúc.

Traian đáp:

- Nhưng hai người chưa biết. Họ tính chuyện tương lai. Họ đã có tình yêu và tiền bạc. Họ sung sướng đấy!

- Chúng nó sung sướng, song thật tình chúng nó phải khóc.

Ông biện lý nói:

- Đúng vậy! Chúng ta đã biết chuyện, nên thấy nỗi vui mừng của họ như một xúc phạm.

- Một khi phân tách cho kỹ lưỡng và đem tường thuật trong đại thể, thì những sự vui mừng nào trên thế giới đều là hành vi xúc phạm cả.

Đồng hồ gõ một giờ. Đêm ấy, ba người ngồi nơi phòng sách của mục sư, lắng tai nghe gõ giờ và trời mưa.



CHƯƠNG THỨ NHỨT

Hai năm sau, Iordan được thả ra. Hắn định trở về nơi hắn đã ở hồi hai mươi bảy năm về trước. Trước khi ra đi, hắn ghé qua làng Fântâna lần cuối cùng, để bán nhà.

Viên quản đồn hiến binh đi qua một đường nhỏ trong làng, cạnh nhà ngói đỏ, thấy cửa nẻo đều mở bét, thường khi thì đóng kín, mới vô nhà để xem coi sự gì.

Iordan đang đóng thùng dọn đồ ở sau nhà, viên quản nói:

- Ông giàu thiệt mà! Chắc ông tốn tiền nhiều mới ra khỏi khám mau như vậy.

Gã hộ pháp ngó anh ta và đáp cộc lốc:

- Tôi không hiểu.

Viên quản cắt nghĩa:

- Tôi hỏi ông vậy chớ ông trả bao nhiêu mới khỏi ở tù? Tội ông ít nhứt cũng mười năm.

Iordan bỏ búa, móc túi lấy miếng giấy đưa cho viên quản, và tiếp tục vừa đóng đinh, vừa nói, gằn từng tiếng:

- Tao đưa cho mày coi để mày biết tao là ai. Trong vài ngày nữa, tao sẽ mặc sắc phục hạ sĩ quan S.S. Tao là công dân Đức và tao sẽ phụng sự tổ quốc tao. Bây giờ chắc hẳn mày biết tại sao tao được ra khỏi khám. Không phải như ý mày tưởng đâu!

Viên quản lấy giấy gọi nhập ngũ và đọc.

Y biết rằng tất cả công dân Đức bị ở tù, đều được ân xá, nếu bằng lòng trở về nước và sung vào quân đội. Y bèn xếp tờ giấy lại, mỉm cười trả cho Iordan.

Hắn lại lấy ra một miếng khác và nói:

- Đây, còn cái này nữa, đọc đi!

Đó là bức thơ cám ơn. Hắn đã dưng hết gia tài cho quân đội Đức để mua một chiếc xe thiết giáp. Lãnh sự Đức ở Bucarest có gởi vô khám một bức thơ cám ơn hắn. Viên quản giở tờ giấy ra, nhưng không biết đọc, vì viết chữ Đức. Y trầm trồ ngắm bức thơ, trên đầu giấy có hình con ó với chữ Vạn, và có dấu đóng. Y hỏi:

- Ông bán hay giữ cái nhà này?

Iordan không trả lời theo câu hỏi, lại nói:

- Xe thiết giáp mới mua bằng tiềin của tôi, vừa được xuất trận lần đầu. Tôi sẽ đi theo nó lập tức. Tôi không còn trẻ, nhưng Chánh phủ Đại Đức quốc sẽ chấp thuận tôi.

Iordan xếp giấy tờ bỏ vô túi, lấy búa lo đóng mấy thùng đồ, không ngó viên quản nữa. Khi người này chào hắn ra đi, hắn cũng không ngước mặt lên, mà chỉ lẩm bẩm trong miếng mấy tiếng mẹ đẻ.

Viên quản ra khỏi nhà Iordan thì tạt qua quán rượu. Trời tháng năm. Y đi giữa lộ, sợ bụi dính giày. Y muốn giày luôn luôn bóng như gương. Y cũng ưa thích đàn bà và rượu. Rượu thì có tên Do-thái chủ quán cho y uống, khỏi phải trả tiền. Y nghĩ thầm: "Nếu thỉnh thoảng không lập thêm một luật mới thì chắc mấy viên hiến binh chết khát". Chánh phủ thật đã chu đáo lo việc ấy. Hôm tháng giêng lịnh truyền cho y phải gởi mấy người Do-thái trong làng đi trại làm việc. Ở Fântâna chỉ có một người, là Goldenberg, tên chủ quán. Y có đưa tờ trát cho chủ quán xem. Tờ trát cơ mật, y hối hận đã đưa cho người khác xem. Nhưng, suy nghĩ kỹ, y cho là y làm đúng. Từ đây, cứ ba tháng, y gởi một giấy thầy thuốc chứng nhận chủ quán bịnh tật, không đi trại được. Như vậy, mỗi tháng y được chủ quán đưa ba ngàn "lơ". Lương của y được lên gấp hai. Y sống dư dả và có cảm tưởng mình làm một việc phải nữa. Lão chủ quán già ở yên buôn bán, hơn là đi trại làm xâu, khổ cực dường nào.

Khi nốc xong cốc rượu, viên quản vén màn ngó qua cửa kiếng căn phòng chủ quán, cốt để chào Rosa, con gái chủ quán, như thường bữa. Rosa có làn da trắng mịn. Và khi véo cánh tay nàng, y có cảm giác như rờ vô nhung. Da của Rosa không phải như da mấy mụ nhà quê trong làng. Thường khi, nàng ngồi gần cửa sổ, đọc tiểu thuyết. bữa nay, lại có một thanh niên ngồi gần nói chuyện với nàng. Viên quản gắt gỏng hỏi chủ quán:

- Ai đó vậy?

Chủ quán ngập ngừng, không biết có nên nói thật hay không, nhưng rồi cũng phải nói:

- Thằng Marcou, con tôi, vừa ở Ba-lê về.

- Ông giới thiệu với tôi đi!

Y chưa hề gặp người nào đi Ba-lê về. Chắc có thể học hỏi được nhiều chuyện lạ với những người đã ở Ba-lê. Nhưng Marcou cộc cằn quá, phải gợi hỏi chuyện mà không thấy gã trả lời nhiều. Y tưởng người du học ở Ba-lê chắc khác, y lại thất vọng. Gã này bản tính cộc cằn, không cảm tình được. Lại còn không thèm uống ly rượu của y mời nữa. Tuy vậy, trước khi về, y cũng nói với Marcou:

- Chiều nay đến đồn chơi. Ta đánh một ván cờ.

Ra khỏi quán, y nghĩ lão già Goldenberg phí của cho con đi Ba-lê ăn học, thật như quăng tiền qua cửa sổ.

Đi ngang nhà Moritz, viên quản ngừng lại. Suzanna đang nhồi đất làm gạch ngoài sân. Moritz cất nhà đã hai năm. Hai vợ chồng làm việc suốt ngày đêm. Nhà thật đẹp, lại có bao-lơn nữa.

Viên quản hỏi Suzanna:

- Nhà cất rồi, mày còn làm gạch chi vậy?

Y muốn vô sân, nhưng cửa ngõ đã khóa. Suzanna đáp:

- Chúng tôi cất chuồng bò.

Nàng tiếp tục nhồi đất bằng chân. Viên quản thấy bắp đùi nàng trắng trong. Y hỏi:

- Chồng mày không có ở nhà hả?

Suzanna cười đáp:

- Iani vô nhà máy xay.

Hai đứa con của Moritz dan nắng ở cuối sân. Đứa nằm trong nôi, đưa chơi vọc cát. Suzanna ngó chừng chúng nó, và chế nước vô đất sét nhồi thêm. Nàng mặc áo chẽn nổi lộ thân hình tròn trĩnh của cặp đùi nàng.

Viên quản thử mở cửa một lần nữa. Y hỏi:

- Mày không mở cửa cho tao sao?

- Ông ở đó được rồi.

- Chẳng lúc nào tao gặp được mày một mình. Và bây giờ chồng mày đi khỏi mà mày cũng không chịu mở cửa cho tao nữa!

- Vậy chớ sao! Ông đứng trước cửa lâu rồi. Thôi đi đi, để tôi yên!

- Mở cửa giùm một chút đi, đừng ác mà!

- Iani sắp về. Nếu anh gặp ông ở đây, anh sẽ bửa đầu ông đa!

- Mày tiếc nó lắm sao?

- Ông thiệt khôn nhứt đời mới hỏi tôi câu này. Im ông đi! Ông về cho rảnh mắt tôi. Moritz sắp về bây giờ!

- Tao hỏi mày một chuyện thôi, rồi tao về.

- Hỏi đi.

Suzanna ngừng nhồi đất, đứng chống nạnh chờ.

- Nếu mày không chờ chồng mày thì mày có mở cửa cho tao không?

Suzanna lại nhồi đất, và đáp:

- Ông muốn biết nhiều quá!

Nàng chưa hề nghĩ đến phải làm cách nào, nếu một ngày kia, Moritz đi xa, và viên quản đến nhà nàng.

- Mày có chồng rồi, sợ gì?

Suzanna giận dữ:

- Để tôi yên! Ông có đi đi không.

- Mày trả lời, rồi tao mới đi.

Suzanna nói cụt ngủn:

- Không biết!

- Nếu mày không nói: chịu hay không, tao cứ ở đây hoài.

Y chống hai tay dựa cửa ngõ, chờ đợi. Suzanna nói:

- Sao ông cứ muốn biết hoài vậy. Iani không bao giờ xa nhà.

- Nếu nó đi thì sao?

- Ông có gan làm thử coi! Iani không đi đâu hết. Chúng tôi còn lo cất chuồng bò, đào giếng. Đi đâu mà công việc còn mê mê như vậy?

Mt viên quản sáng lên. Y vừa đi vừa lẩm bẩm: "Tao biết mày đảm đang lắm". Y huýt sáo, đi khỏi xa. Suzanna ngưng làm. Nàng sợ hãi, rút chân ra khỏi đất sét và chạy lại hai đứa con. Nàng ôm đứa lớn vào lòng. Nàng cảm thấy như đã phạm một tội nặng, như đã làm một việc gì nghiêm trọng có thể gây tai vạ cho Moritz và hai con. Rồi nàng lại nghĩ: "Nhưng kỳ thật, ta có làm gì tội lỗi đâu? Cứ sợ vô lý!". Nàng bỏ đứa con xuống đất, chạy lại xăn áo lên, làm tiếp công việc...

Tuần lễ sau, một viên hiến binh đến gõ cửa nhà Moritz. Anh đang ngồi ăn, thấy dạng nón lính ngoài cửa sổ, bèn nói: "Để ra coi chú lính này muốn gì".

Anh ra sân. Lúc trở vào, tay cầm một miếng giấy. Anh ngồi lại ăn tiếp. Suzanna hỏi:

- Giấy gì vậy?

Moritz nuốt xong, trả lời:

- Một lịnh sung công. Để ăn rồi sẽ đọc, coi Chánh phủ muốn đòi gì nữa đây.

Anh vẫn điềm tĩnh vì biết tất cả nông dân đều được những lịnh sung công như vậy. Sung công ngựa, xe, và súc vật. Anh không có ngựa, cũng không có xe. Bây giờ anh hết tiếc không có mua mấy thứ này. Chánh phủ sẽ lấy hết và anh cũng vẫn đi bộ như thường. Anh nghĩ thầm: "Hay Chánh phủ muốn ta cho một bao bắp hoặc lúa mì!". Anh biết rõ, lúa mì cũng bị sung công.

Ăn xong, anh lau tay để khỏi dính dơ tờ giấy, và giở ra đọc. Suzanna nhìn thấy mặt anh từ đỏ sang trắng, rồi xanh dờn.

Nàng hỏi:

- Giấy nói gì ở trỏng vậy anh?

Hai đứa nhỏ nhìn cha. Moritz nằm dài trên giường, hai tay lót đầu. Suzanna hỏi dồn: "Anh không nói coi chuyện gì vậy?".

Sự im lặng của Moritz chắc là báo điềm bất thường. Moritz đáp:

- Dầu có nói, em cũng không hiểu. Chính anh đây cũng không hiểu.

- Chuyện dữ hay sao anh?

- Viên hạ sĩ quan lo việc sung công chắc lộn hay sao chớ. Mấy ông này thường hay nghĩ chuyện khác khi ngồi viết lắm!

Moritz đưa tờ giấy cho Suzanna rồi nói:

- Em coi, đây là một lịnh sung công. Mình đã nhận hai tấm rồi. Lần đầu về lúa mì, lần sau, về mấy bao đựng đồ mua của anh Porfirie. Bây giờ, lịnh sung công không phải đồ vật nữa mà là anh đây! Làm sao họ lại sung công người ta? Em hiểu được không?

Suzanna đọc chậm chậm từng chữ. Moritz nổi nóng, giựt tờ giấy lại, đọc to lên, rồi nói:

- Tại làm sao họ lại sung công tôi? Tôi là người đây mà! Họ có thể sung công ngựa, nhà cửa, bò cái, bao bị, chớ sung công người ta sao được! Em coi họ viết tên anh vô đây rành rành. Viên phó quản cơ chắc điên rồi!

Suzanna hỏi:

- Bây giờ anh tính sao?

- Mai sáng lối bảy giờ anh đến sở hiến binh hỏi lại.

- Chắc anh có lý, họ lầm rồi!

- "Thì chắc chắn họ lầm". Moritz trả lời, nhưng lại đâm ra nghi ngờ: Nếu họ không lầm thì sao?

Anh phải sửa soạn ra đi như đi nhập ngũ. Nếu lịnh không sai, thì có thể anh bị giữ lại một hoặc hai tháng không chừng.

Suốt buổi chiều, Moritz kiếm chuyện gây với Suzanna, nhưng nàng không giận. Nàng biết anh quạu quọ vì tờ giấy kia.

Chiều đến, Moritz lấy giấy nhựt trình gói tờ trát lại cho khỏi dơ và bỏ vô túi áo. Anh đi ra sân và nói với Suzanna:

- Anh đem giấy này cho mục sư coi.

Đến nơi chỉ có bà mục sư ở nhà. Ông đi ra tỉnh trọn ngày nay. Moritz muốn thuật cho bà nghe, nhưng lại thôi. Anh chào bà ra về.

Ngoài đường chó sủa vang. Trời tối dần, Moritz vấp cục đá, chửi thề om. Anh bước mau về nhà.

Thật là một đêm vô cùng khổ tâm khổ trí. Vừa nằm xuống, Moritz bị vấn vít những ý nghĩ đen tối. Suzanna xích lại ôm cổ anh, muốn cho anh quên nỗi buồn đi. Nhưng Moritz gỡ tay nàng, xây lưng lại, dang xa nàng, không thiết đến chuyện ấy. Muôn ngàn lo lắng xâm chiếm đầu óc anh. Còn bao nhiêu là công chuyện phải làm. Làm cả ngày lẫn đêm cũng chưa hết. Nếu ra đi thình lình, không biết là bao lâu, mà phải bỏ cả công việc, thì đáng lo ngại thật. Anh tuyệt vọng. Anh như sắp chết. Còn biết bao công chuyện phải thu xếp, một khi ra đi. Anh bị ám ảnh về những ý nghĩ này. Anh vừa mua tại rừng mười thước cây. Tiền trả rồi, cây đã đốn và sắp thành từng đống để tại rừng, chỉ còn có việc chở đem về nhà. Thế mà phải bỏ hết. Đó là mớ cây danh mộc, đắt tiền, dùng để cất nhà. Anh nóng lòng chờ nó được đem xong về sân anh. Anh đã tính chỗ cất nó, dựa hàng rào, vì toàn là cây lớn. Và bây giờ anh phải ra đi. Moritz day qua Suzanna. Anh không thể để cây trong rừng. Suzanna chưa biết chuyện mua cây, và cũng không biết cây chất chỗ nào. Khó kiếm chỗ đó lắm. Nhưng Suzanna đã ngủ. Moritz lắc vai nàng, nghĩ thầm: "Ta phải chỉ cho nàng biết cây để ở sau chỗ vựa cây trong rừng, cách bờ rạch vài trăm thước. Tại đó cũng có cây của người khác. Nếu không chỉ rành thì kiếm không ra".

Suzanna nghe tay Moritz nắm vai mình nên mỉm cười trong giấc ngủ. Trăng tròn tỏ rạng rọi vào phòng, sáng như ban ngày. Moritz biết một mình Suzanna không thể đem cây về nhà được, vì không phải công việc của đàn bà. Phải mượn ông già Artimie đi với nàng mới kiếm được cây. Cần phải cho nàng biết trước cây đã mua rồi, và phải đến xem tại chỗ. Thế nào cũng phải nói chuyện với nàng.

Moritz lắc mạnh vai Suzanna. Nàng lại mỉm cười. Dưới ánh trăng soi, nàng tươi cười le lưỡi liếm môi. Moritz thấy thương hại nàng, không dám đánh thức nàng dậy. Suzanna ngủ ngon như đứa trẻ. Anh nghĩ: "Thôi để mai sáng, dậy sớm, rồi sẽ cho nàng hay". Anh bèn rút tay lại, và nằm ngửa ra. Thường thường anh nằm ngửa như vậy thì ngủ mau lắm. Nhưng đêm nay anh không ngủ đươc. Anh nhớ tới giấy đòi anh. Mảng lo chuyện cây mà quên lửng nó đi. Anh tức mình nổi giận lên. Anh đã đi quân dịch, làm lính giữ biên giới. Anh có học tiếng Serbe. Anh biết rành luật quân sự, luật không thể thay đổi nay mai, mau lẹ được. Người ta không thể bị sung công như xe, bò cái, cày bừa, hay xe cam nhông.

Moritz xoa màng tang, cố quên chuyện này, vì nội ngày mai thì sẽ biết rõ. Có thể đằng cơ binh lầm, thì có phải lo lắng vô ích không? Chắc viên hạ sĩ quan nào muốn phá anh nên mới gởi lịnh sung công thay vì lịnh gọi nhập ngũ.

Vừa tạm yên để ngủ thì anh lại trực nhớ Balta còn thiếu anh 500 "lơ". Anh không biết phải vắng nhà bao lâu, và chắc Suzanna sẽ có chuyện cần tiền. Anh day qua Suzanna. Nàng đang ngủ mê, nằm nghiêng, tay ôm gối. Anh tự hỏi: "Không biết nàng mơ gì đây?" và một lần nữa, anh không dám đánh thức nàng. Mai sáng anh sẽ nói cho nàng biết.

Anh nhớ tới mùa mưa sắp đến, vách giếng sẽ sụp nếu không sửa lại. "Nhưng có thể mình trở về trước mùa mưa". Anh tự nói thầm như thế, và không lo đến cái giếng nữa. Bây giờ anh lại nhớ tới gạch làm chuồng bò, chưa nung. Gần tám trăm viên gạch chất chồng phơi gần vách nhà. Phải nung nó mới được, nếu để khô quá, gạch sẽ nứt và bể vụn thì hoài công. Nghĩ đến chuyện này, anh băn khoăn, lăn qua, trở lại. Anh ngó Suzanna một lần nữa. Anh muốn hỏi ý kiến nàng, nhưng nàng đang ngủ, đầu vùi trong gối. Moritz biết nàng không giúp ích được chút nào. Có kêu nàng thức dậy cũng như không. Đó là công việc của đàn ông. Anh nhớ đến mấy bạn quen trong làng, nhưng không tìm được ai để nhờ nung gạch giúp. Ai cũng có nhà và công việc riêng. Nếu ban ngày thì anh đi hỏi thử từng người. Bây giờ đang lúc nửa đêm, người ta ngủ hết, anh không thể kêu họ dậy để nói chuyện gạch của anh. Moritz tự nói: "Thôi mình lấy rơm và lá bắp đậy nó lại, gạch sẽ lâu khô, có thể để thêm được vài tuần nữa. Chừng đó mình chắc về được rồi". Anh chỗi dậy. Cửa trong nhà còn mở, anh ra sân, mình trần truồng. Anh muốn trở vô mắc áo quần, nhưng sợ vợ thức giấc. Anh lại thôi. Anh cầm viên gạch và xem dưới ánh trăng khuya. Gạch cần phải nung liền, trễ lắm là vài ba ngày nữa, để lâu không được.

Anh đi lại giếng, rồi rảo khắp sân. Anh quên mình trần truồng, đứng ngó vách tường, mái nhà. Anh thấy rõ ràng, vì trăng sáng như ban ngày. Đã lâu không có trăng sáng như đêm nay. Moritz quên chuyện phải ra đi. Anh dự tính cất chuồng bò, mua một cái xe với ngựa và một con bò cái. Anh đi lại đống rơm ở cuối sân, ôm một mớ sắp dựa đống gạch. Chuyện này mai Suzanna làm được, nhưng anh đã đứng gần đống rơm, tốt hơn anh nên làm để nàng khỏi thất công. Anh ôm lá bắp, phủ lên gạch. Anh làm việc mau lẹ, anh thấy nực; gà gáy sáng, anh giựt mình. Anh đã quên mất hết, giờ mới nhớ lại mình sắp ra đi. Anh mắc cỡ thấy mình trần truồng ở ngoài sân. Anh đi vô phòng, Suzanna còn ngủ. Moritz nằm kế bên, không đánh thức nàng dậy. Nàng không hay biết gì, lại đưa chân gác trên chân anh. Anh chợp mắt một lát, lại giựt mình thức giấc ngó chung quanh. Suzanna vẫn ngủ. Mặt trăng xế qua thành cửa sổ, giống như cái nón của viên hiến binh móc nơi đó. Moritz ngó sửng mặt trăng, và không thể nhắm mắt được, nằm thức luôn tới sáng.

Sáng bữa sau, Moritz đi đến đồn. Dọc đường anh gặp người làng đi làm việc vô nhà máy xay, ra đồng áng, và vô rừng. Anh ngó lơ để không thấy họ. Phần anh, anh cũng phải vô nhà máy xay và vô rừng nhưng anh lại phải bỏ hết ra đi. Anh bị sung công. Ý tưởng trốn tránh thoáng qua đầu anh. Nếu anh trốn trong rừng, hiến binh không thể tìm được anh và bắt anh sung công. Nhưng anh cố nhịn, và đi thẳng vô đồn, đứng sựng tại ngạch cửa. Anh có vợ, có con, có nhà cửa, làm sao trốn được. Anh bước vô sân, thấy viên quản đồn đang cạo râu trong phòng. Moritz đứng chờ để hỏi xem lịnh đòi anh có sai lầm chăng? Một mùi sữa khét xông lên. Có người đập vai anh. Anh xây lại, thì ra một người lính, không phải người đem giấy hôm qua, mà một người khác. Bên mặt người lính là gã Marcou, con của tên Do-thái Goldenberg ở làng Fàntâna. Moritz không hay họ đến. Họ làm như dưới đất chun lên, cặp mắt thù hằn. Người lính nắm cổ áo Moritz kéo anh đứng dựng như xách một bao đồ. Anh tuân theo, tưởng người lính phá mình chơi, nhưng dòm thấy Marcou bị còng tay, anh chợt hiểu.

Tên lính ra lịnh: "Đứng kế gần nhau!" Moritz nghĩ: "Nếu Marcou bị còng tay không phải chuyện chơi". Anh đứng xích lại gần tên Do-thái, và đâm sợ. Mỗi lần thấy người bị còng thì anh đều sợ hãi. Sau lưng anh, tên lính gác lên cò súng. Dầu không thấy, Moritz cũng biết rõ, vì anh đã có đi lính. Viên hiến binh gắn lưỡi lê vô súng. Anh đã biết chuyện gì rồi, anh nhắm mắt lại. Khi ra khỏi sân, anh ngó vô cửa sổ phòng văn. Viên quản còn để kiếng dựa cửa sổ cạo râu. Người đi đường đứng lại dòm họ. Đàn bà chạy ra cửa ngó theo.

Trước nhà Porfirice, một đám phụ nữa đi gánh nước về, lật đật để thùng nước xuống giữa lộ và làm dấu thánh giá. Moritz nhắm mắt lại. Lồng ngực anh như có cái gì tan vỡ. Anh biết đàn bà thường làm dấu thánh giá khi thấy người bị còng tay, có lính bồng súng kề hông dẫn đi. Anh nghe tiếng giày của tên lính đi sau anh. Tất cả đều êm lặng, ngoài tiếng chân đi ăn nhịp. Moritz bước theo điệu bước với Marcou. Bộ giò anh không còn thuộc về anh nữa. Nó đi một mình nó. Cả da thịt và tinh thần anh cũng không còn là của anh. Nó thành xa lạ với anh. Cho đến thân hình anh, và tư tưởng anh. Tất cả tư tưởng của anh. Tất cả những vật ấy hiện giờ thuộc về một người khác. Anh không còn gì là của anh hết.

Viên quản cạo râu xong, bước ra sân huýt sáo. Trời bữa nay thật đẹp. Một người lính xối nước cho y rửa mặt. Anh này thấy y cạo râu kỹ lưỡng lắm, cạo đi cạo lại hai lần, nên vừa cười, vừa nói:

- Một người mới hả "Sếp"?

Anh lính đoán chắc viên quản sắp đi thăm một người đàn bà. Viên quản nháy mắt mà không đáp. Lau mặt xong, y mặc sắc phục mới và đi vô phòng làm việc. Y lật hồ sơ, lấy bản lưu của tờ phúc trình y vừa gởi vô thành lính, hồi sớm mai này, với hai tội nhân, và đọc:

"Chúng tôi hân hạnh xin gởi theo đây do lính hộ tống, hai tên: Marcou Goldenberg, tấn sĩ luật, ba mươi tuổi, và Moritz Ion, nông dân, hai mươi tám tuổi, phạm luật, chiếu theo lịnh trước về việc bắt sung công và đem vào trại giam, những người Do-thái hay người tình nghi trong làng chúng tôi"

Ký tên: Nicolae Dobresco

Chánh quản cơ, quản đồn Hiến binh làng Fântâna

Viên quản cất tờ phúc trình vào hồ sơ, tỏ vẻ bằng lòng. Y vuốt râu cho láng, lấy kiếng nhỏ ra soi. Đoạn y đứng dậy, vác súng lên vai và đi thẳng lại nhà Moritz.

Bây giờ Suzanna còn có một mình. Y chờ cơ hội này đã hai năm nay.

Y huýt sáo miệng.

Một giờ sau, viên quản trở về đồn. Trước khi đi, y có cho hay sẽ vắng mặt trọn ngày, mà bây giờ y lại ngồi trong phòng giấy. Vẻ mặt y giận dữ, không biết lấy cái gì để dằn cơn giận xuống. Nhìn thấy hồ sơ thơ từ, dở ra và đọc lại tờ phúc trình gởi vô thành lính hồi sớm mai, với hai tội nhân, y càng giận dữ thêm. Y muốn xé tờ phúc trình ra muôn mảnh, vì nó không ích lợi cho y được việc gì. Tuy có một mình, Suzanna cũng không chịu tiếp y. Và khi y cố sức mở cửa ngõ, thì Suzanna lấy rựa hăm bửa đầu y. Và đó không phải là lời nói dọa đâu. Y biết rõ không đùa với đàn bà được. Nếu y bước vô sân, thế nào nàng cũng chém y. Y đành nhượng bộ, quay trở về, mà lòng căm tức cực điểm. Y toan mưu, tính kế để bắt Moritz và chiếm đoạt người đàn bà, nhưng hoài công. Y đã thức suốt đêm để thảo tờ phúc trình.

Y tự nghĩ: "Ta đã phí giấy mực vô ích, chẳng ra gì". Y nghĩ đến Moritz và chửi thề om sòm.

Trong sân thành lính, đoàn người tù đã sẵn sàng để lên đường. Moritz dòm từng người.

Thấy có nhiều người mặc quần áo tốt, xách va-li da. Anh đã mệt, hai chân mỏi và đau. Marcou thì lầm lì suốt dọc đường không nói một lời. Y cũng mệt lã và muốn ngồi xuống. Sau lưng họ cửa đã mở. Đoàn tù khởi sự ra đi. Họ ra khỏi sân. Một sĩ quan, tay cầm xấp giấy, đi ngang qua, ngó Moritz và vẻ mặt xanh xao của Marcou, đoạn hỏi viên hiến binh:

- Cả thảy đều là Do-thái phải không?

Rồi không đợi trả lời, hắn giựt bao thơ vàng trên tay người lính và chỉ đoàn người đang đi ra cửa cho Moritz, hắn bảo:

- Sắp hàng tư!

Moritz ngó viên sĩ quan, không hiểu. Viên trung úy bèn chụp vai anh, xây như con vụ, và đá anh nhào vô trong hàng người đang đi. Moritz đi ăn nhịp với họ; ra khỏi sân, anh quay đầu lại, thấy Marcou theo sau anh.

Đi như vầy đến chiều. Khi ngừng nghỉ thì họ đã đến gần thành phố. Marcou lại gần Moritz và nói:

- Mở giùm tay tôi đi.

Rồi xây lưng cho Moritz. Bàn tay Marcou trắng và nhỏ, cổ tay có lằn đỏ rướm máu. Moritz mở trói xong, Marcou nói: "Cám ơn" mà không cười, cũng không ngó ngay mặt Moritz . Y ngồi xuống cỏ, nhìn chân trời với đôi mắt lạnh lùng. Moritz ngồi kề, muốn gợi chuyện, nên đưa sợi dây vừa mở trói cho y và hỏi:

- Anh cần dùng dây này không? Cho tôi nghe?

Marcou đáp:

- Anh cứ giữ lấy.

Giọng y bớt cứng xẵng. Moritz quấn sợi dây lại và cất kỹ lưỡng vào túi quần, nói lẩm bẩm: "Có một sợi dây trong mình càng tốt. Biết đâu chẳng có chuyện cần dùng".

Marcou mỉm cười. Đây là lần thứ nhứt Moritz thấy y cười.

Chiều hôm ấy, đoàn tù Do-thái đi đến bờ rạch Topolitza. Lòng rạch cạn khô, hai bên bờ toàn cây liễu và những bụi cây cằn cỗi rậm rạp.

Chính tại đây đoàn Do-thái phải đào một con kinh. Xa xa thấp thoáng mấy nóc nhà. Không có làng nào ở kế cận. Chỉ có trơ hai chuồng ngựa bỏ hoang như canh giữ vùng đất hẻo lánh này. Lúc trước, khi còn tu viện, thì chuồng cất để nuôi ngựa giống. Chuồng ở ven rừng. Một xe cam-nhông chở đầy cuốc, cúp, xuổng, mai và một cái chảo đụn để nấu ăn, đến đậu gần đoàn tù. Họ đều ngó xe, vì không có gì khác để xem.

Đêm ấy, tù ngủ trong chuồng ngựa. Moritz nằm dài trên cỏ, ngoài trời. Đất im mát, nên anh ngủ liền. Nhưng trong đêm, anh thức giấc mấy lần. Trăng đẹp sáng như ban ngày. Moritz tưởng như còn ở nhà. Chừng thấy mấy người nằm kề bên anh, mình quấn trong áo choàng, anh mới biết đã xa làng Fântâna, và anh nhắm mắt lại.

Ngày mai đoàn tù Do-thái bị chia làm hai hàng để điểm số. Moritz và Marcou ở cạnh nhau. Moritz chào y thì y gật đầu, và như mỉm cười.

Một viên phó quản đứng giữa hai hàng người và phát cúp xuổng cho họ. Mười người khiêng một cái chảo đụn xuống xe cam-nhông, đặt tại gốc cây, trước chuồng ngựa. Xong đâu đấy, viên phó quản có răng bịt bạc và bộ râu đen mới diễn giải cho họ nghe, đại ý nói người Do-thái phải lo đào kinh này để bảo vệ tổ quốc. Hắn còn tự giới thiệu rằng hắn ta- viên phó quản-cơ đây- là chúa tể của Do-thái, và hễ nói chuyện gì thì đến thánh Moise trên trời cũng phải công nhận. Y còn cho biết tên y là Constantin, có hai con, đứa làm trạng sư, đứa làm sĩ quan. Đoàn tù lặng trang nghe y nói. Có vài người cười, nhưng họ đều sợ y. Constantin nói tiếp:

-"Bữa nay không có gì ăn, vì bếp chưa sắp đặt xong. Kể từ ngày mai sẽ có trà và cháo đậu, mỗi ngày hai lần, thêm nửa ổ bánh mì".

Công chuyện làm bắt đầu. Mỗi người phải đào bao nhiêu diện tích đất mỗi ngày. Nếu làm xong thì được nghỉ tới tối. Nếu không rồi thì bị phạm tội phá hoại, bị còng đem xử ở Tòa án Binh như kẻ thù của tổ quốc. Viên phó quản đã quả quyết như vậy, và tù binh phải tin nghe theo.

Moritz ra khỏi hàng mình đứng, nói với viên phó quản rằng anh không phải là Do-thái. Y trả lời chưa xem xét được, trước khi đặt phòng-văn của y. Moritz trở về hàng ngũ, cạnh Marcou và chờ đợi. Anh biết trong cơ binh, phải tập lần biết chờ đợi mới được.

Mười ngày sau, phòng giấy mới làm xong. Một nhà tròn nhỏ bằng cây, có vài bàn ghế và giường cho lính canh. Khi Moritz đến cửa trình diện, thì viên phó quản bảo tuần sau trở lại, vì y chưa có thì giờ xem xét những vụ kêu nài.

Lúc cuốc đất đào kinh, Moritz gợi chuyện hỏi tên người làm phía bên mặt anh. Anh ưa nói chuyện với người chung quanh, vì anh nghĩ: "Ai mà không nói chuyện thường nuôi nấng sự căm hờn". Người ấy hỏi:

- Bộ anh thẹn mà không nói tiếng Do-thái sao?

Anh đáp:

- Tôi không biết tiếng Do-thái!

Tên Do-thái bèn khạc dưới đất, ngó lảng nơi khác và nói:

- Thế thì nhục lắm!

Moritz day qua người bên trái để phân trần thì người này lại đáp:

- Anh cứ nói bằng tiếng Do-thái với tôi đi.

Moritz trả lời:

- Thì chính vì thế mà tôi mới cắt nghĩa cho anh nghe. Tôi không biết tiếng ấy.

Mấy người Do-thái đều ngó anh một cách thù hằn. Moritz ngưng làm và cố giải thích nhưng không ai thèm nghe. Anh tự nghĩ: "Họ giao ước chỉ nói tiếng Do-thái với nhau, đó là theo ý họ. Họ là dân Do-thái thì họ nói tiếng mẹ đẻ của họ. Còn mình, sao lại phải nói tiếng đó?".

Có người bảo anh:

- Thì anh nói tiếng Hébreu, nếu anh quên tiếng Do-thái.

Moritz ngẩng đầu lên, định trả lời. Tất cả đều ngưng làm, để ngó anh, rồi cười rộ lên.

Moritz giận đỏ mặt, không nhịn được nữa, bèn nói:

- Đó là ngôn ngữ lạ đối với tôi. Chính tôi đây mới có quyền cười chớ không phải các anh! Tôi biết rành bốn thứ tiếng (rồi quay qua người bên mặt, anh hỏi): "Còn anh, anh biết nấy thứ tiếng?"

Người này trả lời thật mau:

- Tôi biết tiếng Do-thái.

Moritz cắm mạnh vá xuống đất. Anh biết tụi Do-thái chế nhạo anh. Họ đều biết tiếng Roumain, thế mà họ không nói.

Khi công việc xong, ông già Lengyel cầm đầu đoàn tù, kêu Moritz ra riêng nói:

- Do-thái chúng ta đang trải qua một tình thế khó khăn. Và chỉ có chúng ta ở chung với nhau thì tốt hơn ta nên nói tiếng mẹ đẻ.

Moritz đáp:

- Nhưng tôi không phải dân Do-thái.

- Anh còn giấu gì nữa, khi anh đã ở đây rồi! Trước khi bị bắt, anh có thể trốn được, và như vậy càng tốt cho anh. Còn bây giờ anh ở đây, thì không còn gì nữa. Nếu anh cố mà nói dối, đối với chúng tôi, thì anh là một tên phản bội.

Giọng Moritz run run:

- Nhưng, thưa ông Lengyel, tôi không phải Do-thái.

Ông già đáp:

- Đó là tự nơi anh... nếu anh muốn làm người phản bội.

Moritz đứng một mình. Không ai tin anh không phải là Do-thái. Ai ai cũng cho anh dối trá, kiếm chuyện để ra khỏi trại giam. Họ chắc chắn anh không phải dân Roumain. Trong quyển sổ tên do ông già Lengyel giữ, người ta ghi anh là người Do-thái, tên là Moritz Jacob.

Ông Lengyel quả quyết nói:

- Không có ai dân Do-thái mà tên Iohann cả! Tên Do-thái là Jacob, và từ đây, anh phải mang tên này. Còn Ion, cũng không phải tên anh nữa. Nó là tên Jacob dịch ra tiếng Roumain.

Bạn trong trại lại kêu tên anh bằng Yankel, anh cũng không cãi, nhưng anh tập nghe tên mới này rất khó khăn. Anh nói:

- Các anh kêu tôi bằnng Jacob hay Yankel cũng được, nhưng tôi lấy làm buồn khổ sao các anh không tin tôi.

Moritz được biết các người Do-thái trong trại giam này đều có giấy sung công. Bây giờ anh mới hiểu Chánh phủ sung công Do-thái như sung công ngựa, xe, và bột mì... nhưng anh không phải Do-thái. Nên anh muốn nói với viên phó quản. Không còn ai khác để anh có thể nói được. Song viên phó quản không bao giờ rảnh. Một hôm anh tìm cơ hội nói được, thì viên phó quản nổi giận lên:

- Đã bốn tháng nay, anh cứ làm phiền tôi. Anh là phần tử phá rối trật tự. Hễ mỗi lần mở cửa phòng-văn là thấy anh ngồi chờ rồi. Bữa nào anh cũng có chuyện kêu nài! Anh ăn không đủ? Anh không làm việc được? Anh không thể xa vợ anh được?

Moritz đã định sẵn những gì phải nói với viên phó quản và mỗi ngày lặp đi lặp lại một mình cho thuộc. Anh sắp kể hết chuyện mình cho ông ấy nghe, nhưng ông ta lại gắt:

- Nói vắn tắt đủ hiểu thôi!

Moritz nói:

- Tôi muốn ra khỏi nơi đây, vì tôi không phải Do-thái.

Viên phó quản ngó xéo anh, rồi hỏi:

- Anh không phải Do-thái hả?

Y lấy cuốn sổ tội nhân để trên bàn, lật nơi chữ "M" và đọc:

- Moritz Jacob, hai mươi tám tuổi, có vợ hai con, ở tại làng Fântâna. Vợ tên là Suzanna. Phải anh không?

- Phải!

- Vậy sao anh lại nói anh không phải Do-thái?

- Thật tên tuổi tôi, nhưng tôi không phải dân Do-thái.

- Anh nói chuyện này quan hệ lắm đấy, anh biết không? Nói láo thì bị tù, biết chưa? Những gì viết ở đây- và đây là công văn quân vụ- mà anh cho là sai hết! Anh biết sự gì đang chờ anh, khi anh quả quyết anh không phải Do-thái chăng?

- Thật tôi không phải Do-thái.

- Vậy anh làm gì ở đây?

- Tôi cũng không biết!

- Tại sao bây giờ anh mới nói cho tôi hay. Tôi đã viết và ký tên trên tất cả giấy tờ công văn rằng: hai trăm năm mươi người đào kinh, dưới quyền tôi đều là Do-thái cả. Bây giờ anh nói anh không phải Do-thái. Vậy ra tôi nói và ký tên sai sao? Thế thì tôi phải ngồi tù à?

Viên phó quản đỏ mặt, giận dữ, nói tiếp:

- Tôi muốn tát anh vài phát cho anh ù tai năm bảy ngày cho biết chừng tôi. Nhưng thôi, tôi cũng ghi lời khai của anh, vì chuyện này rất quan hệ. Vậy anh viết tờ khai và ký tên đi. Ai mà gởi anh tới đây sẽ bị tù, nếu anh không phải là dân Do-thái. Còn nếu anh là Do-thái thì anh sẽ ra khỏi trại để đi đày, anh biết chưa?

Moritz đứng gần cửa chờ viên phó quản viết tờ khai, rồi đưa cho anh ký tên. Trong tờ khai nói anh không phải dân Do-thái, và vì thế anh xin được thả về.

Viên phó quản nói:

- Anh về đi. Mai tôi gởi tờ này, rồi chúng ta chờ trả lời.

Moritz vừa đi ra vừa mỉm cười, tưởng chừng được thả về nhà trong nay mai.

Người lính gác chạy theo anh, kêu trở lại cho viên phó quản nói thêm:

- Anh Moritz à! Anh nghe tôi nói đây nhé! Tôi làm việc hơn hai mươi lăm năm rồi. Tôi là cha trong một gia đình, tôi không thể bỏ nghề nghiệp tôi vì lời khai của anh. Chuyện này không phải dễ như anh tưởng đâu? Anh tên Moritz. Nếu không phải Do-thái thì sao anh lại tên Moritz. Đó là một điều. Anh nói tiếng Do-thái, đó là hai điều. Anh có thấy người Roumain nào nói tiếng Do-thái không? Tôi đây, tôi đâu có nói tiếng đó?

Moritz đáp:

- Tôi mới học khi vào trại này! Tôi biết tiếng Đức nên khi mỗi ngày nghe tiếng Do-thái, thì tôi thuộc nó, vì không mấy khó.

Viên phó quản bèn nói:

- Đây này: thứ nhứt, anh có một tên Do-thái; thứ hai, anh nói tiếng Do-thái; thứ ba, giấy tờ của anh cũng ghi rõ anh là Do-thái. Làm sao tôi tin anh là người Roumain được?

Viên phó quản cầm tờ khai của Moritz vừa ký và quăng trên bàn viết, như quăng vào sọt giấy.

Moritz không ra khỏi phòng. Anh nghẹn ngào nói:

- Tôi thề các đấng thiêng liêng rằng tôi không phải Do-thái, ông à?

- Thì rồi sẽ rõ! Bây giờ tôi giữ tờ khai của anh đây, và làm phúc trình những nhận xét của tôi. Tôi là một người công bình và suốt đời tôi đều luôn luôn như vậy. Ngoài tờ khai của anh, tôi ghi thêm anh có một tên Do-thái mà anh không biết nguồn gốc ra sao. Anh nói tiếng Do-thái, song khai rằng anh vừa học ở trại, có chứng có cớ. Vậy trước khi anh tới đây, anh chưa biết tiếng đó phải không?

- Dạ không.

- Còn chuyện khác nữa. Anh đạo nào?

- Dạ, đạo chính thống.

Viên phó quản ngó anh một cách nghi ngờ rồi hỏi:

- Anh biết dân Do-thái làm lễ theo đạo của họ ra làm sao không?

- Dạ biết.

- Vậy anh không phải như họ sao?

- Tôi không có như vậy.

- Chắc không?

- Dạ, chắc ông à.

- Lại đứng gần cửa sổ, chỗ ánh sáng để cho tôi xem anh có phải như họ không!

Moritz đến gần cửa sổ; mở nút quần cởi ra, rồi đứng trần truồng ngó viên phó quản.

Ông này quở:

- Chuyện gì mà mắc cỡ đỏ mặt như đàn bà vậy? Đứng ra chỗ ánh sáng coi! Tôi muốn thấy tận mắt để biết rõ, đặng phúc trình.

Viên phó quản bước khỏi bàn giấy, đến quỳ xuống trước Moritz để xem xét kỹ lưỡng chỗ cắt da quanh quy đầu (theo lễ tục Do-thái). Y so sánh chỗ mắt thấy với chỗ đã thấy trước kia hoặc nghe nói lại, nhưng rồi y cũng không phân biệt được ra làm sao? Trong phúc trình lại phải nói cho rành rẽ. Y giận đỏ mặt, đứng dậy đốt điếu thuốc hút, rồi nói:

- Anh thật là làm lắm chuyện bận rộn! Bộ anh tưởng chánh phủ gởi tôi tới đây để xem cái này của anh sao? Tôi là một quân nhân, chuyện này không phải chuyện của tôi, nhưng tôi làm như thế là vì tôi muốn cho công bình. Biết đâu anh không phải Do-thái, mà tôi giữ anh ở đây làm gì?

Viên phóquản mở cửa hông, kêu Strul, tên lính gác, và biểu:

- Anh xét coi Moritz có bị cắt như của anh không?

Tên lính gác trước kia làm việc trong ngân hàng, nên việc gì cũng kỹ lưỡng rành rẽ và chăm chỉ như tính toán con số. Y quỳ trước Moritz, đưa tay rờ rẫm và xem tỉ mỉ. Chặp lâu, anh đứng dậy, ngay thẳng theo điệu nhà binh, nói:

- Nếu có chịu lễ cắt, thì chỉ sơ sơ ở ngoài thôi.

Viên phó quản hỏi:

- Sơ sơ là sao? Nói cho rành coi? Có hay không vậy là đủ rồi!

- Tôi không thể nói rõ ràng được. Hình như có dấu cắt một phần, nhưng không dám quả quyết là dấu của pháp sư Do-thái hay dấu do nguyên nhân nao khác gây nên.

Viên phó quản nói với Moritz:

- Anh thấy chưa? Chuyện anh rắc rối quá! Nhưng tôi cũng chuyển giấy tờ cho. Anh về đi. Strul ở lại giúp tôi thảo phúc trình.

Moritz đi ra, vừa nghĩ ngợi vừa gài nút quần.

Sau khi Moritz bị bắt, mục sư Koruga đi tỉnh thành trở về, liền tới đồn hiến binh. Lúc ấy lối chín giờ sáng. Viên quản cũng vừa đi ra làng trở về. Y còn giận dữ, nên trả lời với mục sư:

- Tôi được lịnh sung công thì tôi cứ thi hành. Tôi không thể chỉ dẫn hơn được nữa. Tôi không biết gì hơn ông. Ông cứ đến tỉnh mà hỏi.

Mục sư nói:

- Moritz bị giam ở đồn hiến binh tỉnh sao?

- Không phải vậy. Tôi không biết. Nếu tôi biết cũng không nói với ông được. Đó là mật vụ quân sự. Sung công đàn ông để làm pháo lũy thì không được tiết lộ chỗ họ ở.

Mục sư đứng dậy, cám ơn rồi ra về. Buổi chiều, ông đi hỏi đồn hiến binh tỉnh. Moritz không có tại đó. Không ai nghe đến tên Moritz cả. Một viên sĩ quan hỏi mục sư:

- Người ấy phải dân Do-thái không?

- Anh ấy có đạo chính thống và là người trong giáo khu thuộc quyền tôi.

- Vậy thì không có gởi đến chúng tôi rồi. Ông về làng hỏi lại viên quản xem giấy tờ gởi người ấy số hiệu mấy? Hôm qua và bữa nay chúng tôi chỉ có nhận được mấy đoàn người Do-thái thôi. Người của ông không phải Do-thái thì không có trong số này.

Mục sư quả quyết:

- Anh ấy không phải là Do-thái.

Bữa sau, ông trở lại với số hiệu tờ phúc trình. Viên sĩ quan hôm qua kiếm trong sổ và trả lời:

- Rất tiếc tôi không cho ông được biết sự này vì là một hồ sơ cơ mật. Phải có Bộ Chiến tranh cho phép mới được.

Mục sư nói:

- Tôi chỉ muốn biết coi Moritz có bị bắt hay không, và chỗ ở hiện giờ của anh mà thôi. Chuyện ấy chắc đâu phải là cơ mật.

Viên sĩ quan đáp:

- Anh ấy bị bắt, nhưng chúng tôi không được phép cho biết là bị đem đi đâu. Vả lại, chúng tôi cũng không rõ nữa. Anh ấy đã bị giao qua Bộ Tham mưu, và Bộ Tham mưu không cho chúng tôi biết nơi họ đã gởi mấy người của chúng tôi giao cho, hoặc họ đã sử dụng mấy nấy như thế nào.

Giọng nói của viên sĩ quan trở thành gắt gỏng, khi y thấy có tên Moritz trong sổ tù. Y ngó mục sư một cách khinh bỉ.

Mục sư ra về. Viên sĩ quan nói lớn sau lưng ông:

- Đó là một mục sư mà lại nói láo như anh chàng nhổ răng dạo. Hắn nói tên ấy có đạo chính thống ở trong giáo khu của hắn, thế mà trong sổ lại biên rõ tên ấy là Do-thái. Nếu hắn có trở lại, đuổi hắn ra ngoài.

Mục sư viết thơ cho Traian để thuật chuyện Moritz bị bắt và yêu cầu con ông đến Bộ Chiến tranh biện hộ giùm. Ông tiếp được thơ của Traian trả lời đã vận động cùng khắp những nơi nào có thể được, và chỗ nào cũng hứa rằng Moritz sẽ được thả ra.

Sau khi nhận thơ ấy, hai, ba rồi bốn tuần lễ qua. Rồi hai tháng. Mùa hè đã hết, sang thu. Moritz vẫn chưa thấy về. Mục sư đến viếng ông quận. Dọc đường, ông gặp lão già Goldenberg, cha của Marcou, và mời lão lên xe đi. Lão Do-thái gầy ốm nhiều.

Lão quán nói:

- Từ ngày Marcou bị bắt đến nay, tôi không có tin tức gì của nó hết. (Lão thở dài). Tôi phí cả một gia tài để cho con đi học ở Đại Học đường Bucarest và Paris. Nó đậu tấn sĩ vừa mới về nhà, thì họ bắt nó và gởi đi đào hầm đào kinh. Làm như đi đào hầm mà nó phải học tới tấn sĩ luật!

Mục sư lấy ra ổ bánh mì nóng, cắt làm hai và đưa cho Goldenberg một phần. Hai người lẳng lặng ăn. Đường lên dốc, ngựa đi từng bước. Tới đỉnh đồi, lão Do-thái nói:

- Họ sung công nhà của tôi. Trong vài ngày nữa, tôi phải đi. Nếu không thì hiến binh tống cổ tôi ra. Cái nhà mà tôi cất với mồ hôi, công khó của tôi đó. Ban đầu Marcou bị sung công, bây giờ là nhà cửa. Tôi có tội gì vậy, ông mục sư?

Lão Do-thái ngưng nói. Con ngựa đứng lại.

Ông lão lại nói tiếp:

- Tôi chắc phải tự ải quá. Tôi kiệt sức rồi!

Con ngựa lại bước đi. Vô tới tỉnh thành, Goldenberg xuống xe. Mục sư thấy lão mất dạng trong những đường hẻm chật hẹp của xóm người Do-thái.

Khi chia tay lão Goldenberg, mục sư đi thẳng lại dinh quận trưởng. Ông cho ngựa đi thong thả để ngó xem nhà cửa hai bên đường, nhà phố đông ken chồng chất, mấy từng lầu cao vòi vọi, cứ cao mãi lên...

Đến trước dinh quận, con ngựa tự ngừng một mình. Cứ mỗi tuần, mục sư đều đi đến đây để dò nghe tin tức Moritz. Con ngựa của ông đã quen thuộc đường lối mỗi khi ông lên tỉnh, nên khi tới trước dinh quận thì nó ngừng lại. Ông quận trưởng không mấy khi có tại văn phòng. Và lúc nào có thì ông lại mắc việc luôn. Mục sư Koruga chẳng khi nào được tiếp chuyện với ông. Mấy viên thơ ký và người gác cửa đều biết mục sư, nên mỗi lần đều mỉm cười chào ông, như để chia sự chờ đợi với ông. Hôm nay, viên thơ ký ngó ông cười, khác hơn mọi lần, và nói:

- Ông quận trưởng sẽ tiếp ông. Ông chờ chừng nửa giờ thì tới phiên ông.

Một giờ sau, mục sư mới gặp được ông quận trưởng. Ông bèn trình bày:

- Một thanh niên trong giáo khu tôi bị bắt, hơn sáu tháng nay. Tôi ước ao được biết chỗ anh ở hiện giờ tại đâu, và tại sao anh bị bắt? Tôi nghe nói anh ấy ở chung trại giam với người Do-thái. Nhưng anh ấy là dân Roumain và có đạo chính thống. Chính tôi làm lễ thánh cho anh ta. Tôi ước ao muốn xin cho anh ta được thả.

Ông quận trưởng nói:

- Theo lệ, tôi không chịu xét tới những vụ can thiệp.

- Nhưng người tôi nói đây không có tội gì hết.

Ông quận trưởng cãi lại:

- Song ông vừa mới nói người ấy ở trong trại giam Do-thái đây!

- Nhưng nó không phải dân Do-thái.

- Thì cũng vậy. Khi anh ấy ở trong trại giam Do-thái, thì anh đã ở trong luật hình và thể thức riêng biệt không thuộc quyền của tôi. Đó là điều thứ nhứt. Còn điều thứ nhì mà tôi cho là quan trọng hơn, bởi đó nên tôi mới tiếp ông đây, tôi nói cho ông biết: tôi không thích các mục sư trong vùng của tôi, thay vì lo chuyện trong giáo khu mình, lại lo chạy chọt, can thiệp luôn luôn với nhà cầm quyền đủ thứ điều yêu sách. Ta ở trong tình trạng chiến tranh thì mỗi người phải ở trong chức vụ mình. Đây là lời tôi chánh thức cảnh cáo ông. Tôi không muốn bắt buộc phải thi hành những biện pháp trừng trị đối với ông.

Mục sư nói:

- Làm việc ích lợi cho người và cho Công lý, tức là làm việc cho Giáo hội và cho Chúa. Tôi can thiệp cho Moritz tức là can thiệp cho Giáo hội và cho Chúa. Đó là nhiệm vụ mục sư của tôi. Những chuyện xảy đến cho Moritz thật là bất công.

- "Chỉ bất công trong trí tưởng tượng của ông mà thôi". Giọng của ông quận trưởng trở thành gắt gỏng: "Chúng ta đang ở vào tình trạng chiến tranh. Chúng ta chiến đấu vì Tổ quốc, và Giáo hội chiến đấu chống quỷ vương phản đối Cơ đốc giáo. Gởi một kẻ vô danh đi làm phão lũy để phụng sự cho mục đích tối cao của chúng ta mà ông quả quyết cho là bất công à?

Mục sư đáp:

- Tên ấy là một con người. Con người ấy bị bắt và bị đày đi khổ sai mà không có tội gì; vả lại, cũng không có lên án xử nữa.

- Chuyện nhảm! Thưa Cha, nếu phải lo đến từng người riêng rẽ, thì làn sóng đỏ sẽ tràn ngập ta và rồi ta sẽ bị chết treo trên một sợi dây, mà Cha là người trước tiên vậy. Chúng tôi đang quyết tâm chiến đấu cho Thập tự giá đây!

- Kẻ nào không kể đến một mạng người thì không thể tự cho rằng chiến đấu cho Thập tự giá được. Không ai vừa là người bảo vệ, vừa là kẻ thù của Thập tự giá.

- Bộ Cha muốn chúng tôi thả Moritz ra và để cho bọn Cộng sản tràn vô xứ sở, đốt phá nhà thờ, cưỡng bức đàn bà và xiềng xích chúng ta sao? Cha hiểu chiến đấu cho Giáo hội là như thế đó à?

- Dầu một lý tưởng cao cả đến đâu, quốc gia, xã hội hay tôn giáo, cũng không thể tha thứ được chuyện bất công đối với một người. Nhân danh Chúa mà bắt người vô tội làm tôi mọi, thật là một tội ác đối với Chúa.

- Cha có chắc chắn người ấy không phải Do-thái chăng?

- Tôi chắc chắn là không.

- Thế thì đó là một chuyện hết sức vô liêm sỉ. Kẻ thủ phạm sẽ bị trừng trị. Ai ra lịnh sung công vậy?

- Tôi không biết. Từ sáu tháng nay, tôi đi hỏi cùng khắp các cơ quan chánh quyền: nơi cảnh sát cuộc, sở hiến binh và trong quân đội. Đâu đâu cũng không ai chịu nói cho tôi biết. Họ đều trả lời với tôi là một cơ mật.

- Đó là lẽ dĩ nhiên. Các chuyện ấy là tối cơ mật. Tôi đây, tôi cũng không thể làm sao nói cho Cha biết được nữa. Trước hết Cha phải đến Bộ Tham mưu. Khi có giấy phép, Cha đem lại đây, chúng tôi sẽ lục trong hồ sơ và chừng đó mới biết ai ký giấy sung công. Nếu là một sự lạm quyền, thì chắc chắn người nào đó sẽ bị nghiêm trị để làm gương. Nhưng trước khi có tờ giấy phép chính thức cho Cha lo vụ này, thì chúng tôi không thể nói gì thêm được nữa!

Ông quận trưởng đứng dậy, chỉ nghĩa là cuộc tiếp kiến chấm dứt. Mục sư vẫn ngồi yên, nói:

- Thưa ông quận trưởng, có thể nào con người đi đến một mức độ vô giác lãnh đạm như một cái máy, mà làm ngơ như không nghe tiếng kêu cứu của đồng loại mình hay sao? Tôi không tưởng tượng được ông không hiểu lời yêu cầu của tôi. Ông là một Người. Con Người thì có cảm giác, có tâm hồn. Một Người đâu thể là một cái máy. Và thật tình, ông có nhận định chuyện oan ức của Moritz không?

- Thưa Cha, thành thật mà nói, tôi xin thú nhận rằng tôi lấy làm tiếc không thể làm hơn được nữa với Cha. Tôi tin Cha có lý. Tôi nói như thế vì tôi là con của một mục sư. Theo lẽ thì tôi không quan tâm đến vấn đề Do-thái, đảng France-Macon hay những kẻ giữ ngục, vì đó là những chuyện nguy hiểm, mó đến có thể gây vạ cho mình. Tôi là một công chức, và tôi không muốn làm hỏng đời công chức của tôi. Tôi không muốn xen vô, chỉ có thế thôi.

Mục sư đứng dậy. Ông quận trưởng bắt tay ông và nói:

- Tôi rất tiếc không làm được việc gì cho người của Cha. Anh ấy tên gì? Ờ, tên Moritz. Chuyện nào khác Cha cứ đến, tôi sẽ hết lòng.

Ra khỏi tỉnh thành, mục sư ghé vào một ngôi nhà thờ. Ông nghĩ đến mọi người, từ viên quản ở làng Fântâna, ông quận trưởng, viên sĩ quan trẻ tuổi ở đồn hiến binh, mấy người lính cảnh sát, đến các công chức đã bắt ông chờ ngoài cửa, và giam giữ Moritz trong tù. Ông giở nón ra, và đọc câu cầu nguyện của W. H. Auden:

"Và bây giờ xin cầu nguyện cho những người có nắm được một chút uy quyền, cầu nguyện cho "những ai, mà qua tay họ, chúng ta phải chịu nỗi chuyên chế tàn bạo chung của quốc gia, cầu nguyện "cho những người điều tra hết sức rồi còn thẩm vấn lại, cầu nguyện cho tất cả những người cấp giấy "phép và ban bố lịnh cấm ngăn, cầu nguyện cho họ không đến đỗi coi chữ viết và con số là thật sự hơn "máu và thịt... Xin Chúa ban phước cho chúng con, những công dân trên trần, cho chúng con đừng lầm "lẫn người với chức vụ của họ. Chúa ban cho chúng con luôn luôn được sáng suốt để nhận định rằng "chính do tật nóng nảy hay tật lười biếng, do sự lạm quyền hay lòng lo sợ tự do, do những chuyện bất "công của chúng con mà phát sinh ra Quốc gia này, cái quốc gia mà chúng con phải gánh chịu để được "giải thoát và được ân xá tội lỗi của chúng con!".

Mục sư đội nón lên đầu bạc phơ, ra xe, lên đường trở về Fântâna. Đến ngã tư, ông gặp lão Goldenberg cũng đi lên tỉnh về. Tới ngang lão Do-thái, con ngựa dừng bước. Nó biết lão và cũng biết chủ nó luôn luôn cho lão lên xe, khi gặp dọc đường.

Viên quản tại Fântâna được lịnh làm một bảnh kê khai tài sản của các dân Do-thái trong làng. Y đã khai những gì Goldenberg có, nhưng chưa gởi đi. Y biết Moritz cũng ở trong trại Do-thái. Lúc gởi Moritz với lịnh sung công cho sở hiến binh tỉnh, y không nói Moritz là Do-thái. Nếu khai như thế thì thành ra giả mạo, vì Moritz là dân Roumain. Lịnh sung công đi làm nhắm vào dân Do-thái và hạng bất hảo. Y liệt Moritz vào hạng sau này! Đó là hợp pháp. Ai cũng có thể bị y cho là một phần tử bất hảo. Vì luật pháp không quy định rõ rệt về điểm này. Nhưng tại sở hiến binh tỉnh thì Moritz bị ghi vào sổ dân Do-thái. Đó là lỗi nơi sở hiến binh, hay đúng hơn, lỗi của Moritz, vì anh ta có một cái tên Do-thái. Viên quản bắt đầu hối hận chuyện đã xảy ra. Y tưởng đâu Moritz bị giữ chừng vài tuần lễ thôi. Nhưng sáu tháng đã qua. Bây giờ lại được lịnh kê khai tài sản dân Do-thái. Theo lẽ công bình thì nhà Moritz không bị sung công. Nhưng trong sổ sở hiến binh gởi đến thì có tên hai người Do-thái trong làng: Goldenberg và Moritz.

Viên quản nát óc tìm một giải pháp. Nếu khai Moritz không phải Do-thái, và vì thế, không thể biên vô tờ kê khai tài sản nhà cửa Moritz, thì chắc sẽ có một lịnh tra xét coi tại sao Moritz bị bắt. Y không muốn bị điều tra. Y muốn bỏ qua, vì Suzanna có thể thưa y. Phải tìm kế khác. Y hỏi ý kiến Goldenberg.

Lão chỉ dẫn:

- Nếu Suzanna chịu ly dị, thì nàng có quyền giữ nhà cửa. Không có chứng cớ nàng là Do-thái. Vả lại, ở thành, mấy người Do-thái có vợ có đạo đều làm như vậy.

Viên quản suy nghĩ chắc không khi nào Suzanna chịu ly dị. Nàng biết Moritz không phải Do-thái, thì thế nào cũng vỡ lở to chuyện. Nhứt là khi nàng mướn trạng sư. Thế nào y cũng bị tra xét.

Lão Goldenberg nói:

- Cuộc ly dị dễ lắm. Miễn có chữ ký của người đàn bà khai rằng mình xin ly dị vì "lý do chủng tộc". Đơn xin sẽ được chấp thuận liền, khỏi có phiên thẩm vấn. Giấy tờ gởi theo hệ thống hành chánh là đủ. Đó là luật mới.

Viên quản viết đơn xin ly dị như chính Suzanna đứng xin, rồi đến nhà nàng để lấy chứ ký tên. Y nói với Suzanna:

- Chồng mày ở trong trại giam Do-thái. Tao được lịnh sung công nhà cửa mày vì trong giấy tờ thì Moritz là dân Do-thái. Nhưng tao biết nó không phải Do-thái. Bị cái tên nó hại nó. Tại sao nó lại có tên Moritz?

Suzanna đứng nghe, cằm dựa vào cửa rào. Nàng ngó sửng viên quản rồi hai hàng nước mắt tuôn dầm dề. Nàng nói:

- Ông bắt chồng tôi, ông lại muốn lấy luôn nhà cửa tôi nữa. Tôi sẽ giết ông, dẫu ông là hiến binh! Ông không lấy được nhà của tôi đâu!

Suzanna cúi lượm một viên đá lớn, liện bổng ra ngoài cửa. Viên quản nhảy trái một bên, nói:

- Tao đâu có lấy nhà của máy. Tao đem cái giấy này cho mày ký tên để có thể giữ cái nhà mày lại.

Y đưa tờ giấy và cây viết máy cho Suzanna. Nàng cầm mà không đọc được, vì còn đầy nước mắt. Nàng hỏi:

- Giấy viết gì ở trỏng?

- Đơn xin ly dị. Chỉ là một thể thức để mày có thể giữ cái nhà mày mà thôi.

Nàng la lớn:

- Mày muốn buộc tao ly dị hả?

Nàng như con hổ cái, muốn xé viên quản ra từng mảnh. Lòn tay qua cửa, y nắm tay nàng để trấn tĩnh nàng. Y nói:

- Không phải ly dị thật, chỉ làm cho có lệ thôi. Nếu mày không ký tên thì trong vài ngày nữa tao buộc phải đuổi mày ra khỏi nhà. Rồi mày đi đâu, trong lúc trời đông lạnh lẽo này, mày với mấy đứa con, tay dắt tay bồng?

Suzanna không thèm nghe, nói tiếp:

- Iani là chồng tôi. Thà chết chớ không lìa xa chàng!

Viên quản đứng ngoài cửa chờ hơn một giờ. Suzanna mệt mỏi vì đã khóc nhiều. Nàng vô nhà. Rồi nàng trở ra cửa. Nàng lượm đá liệng y. Nàng xách rựa ra hăm dọa y. Sau cùng, nàng nghĩ: "Thà ký tên một cái giấy hơn là bị đuổi ra khỏi nhà. Chừng Moritz về tất sẽ hiểu và tha thứ cho mình. Moritz sẽ thấy mình còn chung thủy và lo làm ăn, giữ được nhà cửa và săn sóc con cái. Mình là vợ chàng và chỉ có một mình chàng mà thôi!".

Thế là nàng ký tên.

Viên quản bỏ tờ giấy vô túi, đi về. Bây giờ y có thể ngủ yên: hết còn lo sợ điều tra!

Nếu đại úy có đến điều tra, y có thể bị câu lưu vài ba ngày thôi, không có gì nguy hiểm nữa. Y mỉm cười, huýt sáo.

Tù ở trại giam Moritz có thể trốn được, vì chỏ có năm người lính gác. Nhưng họ biết rồi một ngày kia cũng bị bắt lại nên không ai muốn trốn.

Marcou đã trốn, nhưng dọc đường lại gặp viên phó quản trại giam. Bây giờ anh đã trở lại tù. Viên phó quản tụ họp tù binh trước giờ đi làm và hỏi:

- Bây giờ ta phải làm sao? Giam Marcou giao cho Tòa án quân sự, hay để nó ở đây? Mấy người chịu bảo đảm giữ gìn nó đừng vượt ngục nữa chăng?

Bọn tù chịu lãnh trách nhiệm giữ Marcou. Từ trước đến giờ, hắn không có lúc nào đào kinh, vì cứ bịnh hoạn luôn, và được để ở phòng giấy coi về lương thực. Bây giờ ông già Lengyel đưa cho anh một cái xuổng và chỉ phần đất cho anh ta đào.

Marcou từ chối. Thà bị chặt tay hơn đào một tấc đất nào. Hắn nói:

- Việc này phản lại với chủ nghĩa chánh trị của tôi.

Bọn tù bao chung quanh hắn, không ai đào kinh vì chủ nghĩa chánh trị bao giờ. Vì vậy họ tò mò nóng nghe. Marcou bèn giải thích:

- Kinh này đào để chận làn sóng Cộng sản. Tôi là một đảng viên cộng sản. Tôi không muốn ngăn đường đi của đồng chí tôi!

Bọn tù khen cử chỉ can đảm của Marcou. Họ đều tán thành. Nhưng khi nghe nói phần đất mà Marcou không đào, thì họ phải đào, nhiệt tình của họ liền hạ xuống ngay, họ liền hết hoan nghinh. Ông già Lengyel ra lịnh đi làm việc và hứa sẽ thu xếp việc này.

Khi ai nấy khởi đào đất, thì ông Lengyel đến gần Marcou đang đứng gần mé kinh, hai tay thọc túi quần, ông nói:

- Do-thái chúng ta có một đức tính mà không một dân tộc Tây phương nào sánh kịp. Chúng ta biết nhân nhượng hòa giải nhau. Dân tộc ta cũng khá khọn ngoan để quý trọng sự thỏa hiệp và khinh khi cử chỉ quyết liệt. Đó là một đức tính cổ truyền Đông phương anh biết chớ? Kẻ nào biết dung hòa hai bên là một nhà hiền triết. Anh đã khinh thường sự khôn ngoan ấy và bày tỏ lập trường, quên rằng cử chỉ ấy là đặc tính của dân lạc hậu, dân háo chiến sao? Dân tộc văn minh và tinh nhã có thể có nhiều thái độ cùng một lúc, và có quyền lựa chọn trong các thái độ ấy, cái nào phù hợp với hoàn cảnh mình hơn. Nếu anh không muốn đếm xỉa đến lối khôn ngoan ấy, đó là tự nơi anh. Chúng tôi cũng hiểu rằng anh không muốn đào kinh.

Marcou quả quyết: "Không khi nào!"

- Nhưng phần đất của anh, mỗi ngày phải có người đào, suốt thời gian anh ở đây. Từ trước, anh nằm nhà thương. Kể từ hôm nay...

Marcou ngắt lời ông:

- Tôi biết, nhưng tôi không đào!

- Nếu anh không làm, thì chúng tôi phải làm thế anh. Bữa nay đã làm rồi. Không lẽ anh cứ ở không, thọc tay vô túi, trong lúc chúng tôi làm công việc của anh sao?

Marcou trả lời, giọng khinh bỉ:

- Nào tôi có xin làm đâu! Nếu các người muốn làm thì tự ý các người. Nếu ai thấy vui...

- Không ai vui hết, anh biết chớ! Nhưng chúng tôi cũng không thể cho viên phó quản biết để anh bị còng và bị giải qua Tòa án binh.

- Ông cứ nói tôi là kẻ phá hoại! Sao ông không đi liền đi?

- Nghe này anh Marcou! Anh có tấn sĩ luật, anh phải hiểu tình thế này. Chúng tôi không thể xin bắt anh và thấy anh bị giải đi giữa lưỡi lê. Không, chúng tôi không làm được. Hiện giờ, ở toàn cõi Âu châu, bọn phát xít ruồng bắt Do-thái như săn thú dữ. Bọn ấy là kẻ thù của chúng ta. Thì chúng ta, dân Do-thái, chúng ta không đành xin bắt một Do-thái cầm tù và giải ra Tòa án binh. Mà chúng tôi lại cũng không thể làm công việc của anh hoài hoài. Riêng phần của chúng tôi cũng đã mệt lắm rồi!

Marcou mỉa mai:

- Cần gì dài dòng chuyện ấy, ông muốn dùng tình cảm thuyết phục tôi à? Ông không làm tôi xiêu lòng đâu. Ông chỉ mất thì giờ thôi!

- Tôi không dại, tôi biết anh cuồng tín và người cuồng tín, thì như con thú điên, chẳng nên gần. Nhưng anh có cha, có mẹ. Tôi biết anh không khi nào tưởng đến mà chúng tôi thì lại tưởng nghĩ đến. Cha mẹ anh chờ anh ở nhà. Anh là Do-thái, chúng tôi không quên coi anh như ruột thịt với chúng tôi. Cùng một dòng máu chảy trong người chúng ta. Nếu anh có quên đi nữa thì sự cũng dĩ nhiên. Vì vậy mà chúng ta tìm cách để dung hòa cuồng tín của anh với quyền lợi chung của đoàn thể trại giam, và nỗi lòng của chúng tôi mà anh mỉa mai chế nhạo đó.

Bọn tù bao quanh họ để nghe. Ông Lengel nói tiếp:

- Anh không chịu đào kinh vì cho là một trở ngại cho các đồng chí anh trong đạo binh cộng sản, chúng ta không ép. Nhưng anh phải làm công việc khác, không có ý nghĩa chính trị hay quân sự. Anh muốn đổ cầu hay không? Chúng ta đã thay phiên nhau làm chuyện này. Nếu anh chịu làm mỗi ngày, thì người nào đến phiên đó, phải đào kinh thế anh. Nhưng tôi nói trước anh biết, công việc này cực nhọc và hôi thúi lắm.

Ông Lengyel tin rằng Marcou, khi phải lựa chọn, chắc sẽ lãnh phần đào kinh, vì ông biết không ai làm công việc này hai ngày liên tiếp, nhứt là một người trí thức. Ông nói:

- Anh ráng suy nghĩ, tôi cho anh đến chiều để xét kỹ lại.

Marcou đáp:

- Không cần chờ đợi. Tôi đã nhứt định rồi!

- Vậy thì sao?

- Tôi chịu đổ cầu. Đó là một công tác xây dựng. Đào kinh là một trọng tội, phản động, phát xít. Tôi thà đổ cầu mỗi ngày hơn chịu góp sức vào việc chận đường ngăn cản các đồng chí của tôi trong đạo hồng quân.

Lão Lengyel xám mặt. Dự định của ông thất bại. Ông nói:

- Anh nên suy nghĩ kỹ trước khi nhứt định đi.

Marcou xây lưng nói:

- Tôi không thèm!

Không một ai dám lại gần y để nói thêm, chỉ có Moritz mạnh dạn nói:

- Anh điên rồi! Sao anh lại chịu đi làm chuyện hôi thúi mỗi ngày được? Còn khổ hơn trong ngục tối nữa.

Marcou giận lên:

- Anh đi cho khuất, tôi biết chuyện của tôi mà!

Moritz cãi lại:

- Người ta không tưởng vậy đâu.

Lúc ấy anh nhìn vào mặt Marcou, thấy cặp mắt của y giống hệt cặp mắt lão Iordan.

Anh liền dang ra.

Ngày sau, ông già Lengyel thấy hối hận. Ông cho ông sai lầm đã hành động như vậy. Tính ông cũng đa cảm. Chiều lại, ông tìm Marcou để khuyên chàng hồi tâm. Ông muốn tìm mọi cách để đem chàng ra khỏi tình trạng ấy. Ông có cảm tưởng như chính ông đã buộc Marcou lãnh công việc đó.

Marcou làm chưa xong. Trọn ngày, anh xách các thùng phẩn từ cầu tiêu tới ranh đất trại và đổ ra ngoài đồng trống.

Trời mưa dầm, chỗ hố đào để đi cầu cứ đầy nước mãi. Công chuyện càng nhọc thêm. Marcou đã kiệt sức. Anh ốm yếu và đau phổi.

Ông Lengyel nói:

- Tôi chắc anh không làm nổi nữa. Không phải chuyện của anh.

Marcou lội xuống hầm, múc nước đầy thùng, rồi leo lên lấy xuổng xúc phẩn.

Ông Lengyel tiếp:

- Ở vào địa vị anh, tôi không thể ở suốt ngày trong cảnh dơ vẩn và hôi thúi này được.

Marcou vẫn không đáp. Anh chỉ còn ráng đứng vững, nhưng anh cứ tiếp tục làm. Anh xác hai thùng đi ngang ông già. Không anh trở lại, ông Lengyel còn nói nữa:

- Từ rày về sau, áo quần anh sẽ giữ mãi mùi hôi này. Đêm nay anh sẽ không ngủ được vì mùi ấy.

Ông sắp nói với Marcou, kể từ ngày mai, anh trở về phòng giấy làm công chuyện lương thực như trước. Nhưng Marcou không còn nhẫn nại được nữa. Anh giận cực độ rồi. Anh đang cầm cái xuổng. Anh giơ xuổng lên, nhắm mắt xáng xuống. Lưỡi xuổng trúng ngay sọ ông già, làm ông lảo đảo. Marcou vẫn không thấy, hai tay nắm chặt cán xuổng bổ liên tiếp hai ba lần, nhưng không trúng. Ông Lengyel đã té xuống đất. Marcou đứng nguyên chỗ, cầm xuổng trên tay, mở mắt thấy ông già nằm dưới chân anh, bể sọ. Anh không cố ý muốn giết ông. Anh đã hành động vì tuyệt vọng. Nhưng anh cũng không hối tiếc.

Từ ngày ấy đến nay, đã bốn tháng. Moritz vẫn còn thấy lại trong trí, đầu ông Lengyyel bị chẻ làm hai, và Marcou bị giải đi giữa lưỡi lê. Nhưng đối với anh, chuyện như đã xưa lắm, chôn vùi trong dĩ vãng. Anh còn tự hỏi không biết phải chuyện ấy đã xảy ra từ mấy mươi năm trước. Người chết qua mau. Marcou chưa chết, mà những người trong ngục tối cũng bị quên mau như người chết.

Hôm nay trời có tuyết. Viên phó quản cho biết tin, sắp sửa có thượng cấp đến thanh tra. Hắn giải nghĩa:

- Đức vua sẽ đến viếng chúng ta. Ngài xem kinh đào ra thể nào. Chính đức vua tự tay vẽ họa đồ, vì vậy ngài muốn đến xem tại chỗ.

Moritz nghĩ tới Marcou đang ở đâu đây, tận dưới một hầm muối. Rồi anh nghĩ đến vua đã vẽ họa đồ kinh này. Anh tưởng tượng vua ngồi trước bàn giấy, tay cầm viết chì mà vẽ, y như hình thấy trong sách. Kinh dài lắm, đâu gần một trăm cây số ngàn, theo lời người ta nói. Nhưng mỗi tội nhân đều chỉ biết có lỏm đất mình đào thôi, chớ không thể thấy xa hơn được nữa. Kinh sâu gần ba thước và hai bên thì dốc. Lòng kinh sẽ đầy nước. Moritz ráng tưởng tượng nước chảy chỗ anh đang đào. Anh nghe nói, sau khi hết giặc, thuyền tàu có thể qua lại kinh này được. Hiện giờ, nó chỉ dùng để chận đường tiến của đạo quân Sô-viết. Vì thế nên công việc mới giữ bí mật, chỉ có vua với vài đại tướng biết thôi. Đó là lời của viên phó quản. Moritz thường nằm chiêm bao thấy vua và mấy đại tướng nói chuyện kề tai nhau. Họ bàn bạc về kinh mà anh đang đào. Anh biết vì sao mà bọn tù không được phép viết thơ về nhà cho vợ con. Phải giữa kín đừng cho quân Nga hay. Viên phó quản nói quân Nga có dọ thám viên cùng khắp. Họ muốn chụp ảnh con kinh anh đang đào. Nhưng lần nào, họ cũng bị cảnh binh bắt được. Tù đào kinh cũng không được thả về, vì họ sẽ nói lậu chuyện đi.

Moritz ao ước rằng, khi yên giặc, sẽ trở lại đây để chỉ cho Suzanna, vợ anh, và các con anh thấy cái kinh mà anh đã dự phần đào. Kinh sẽ đầy nước. Và phần anh, anh đã ghi rõ trong trí chỗ nào anh đào để sau này nhớ lại. Con anh sẽ phục anh và lấy làm lạ. Chúng nó không thể tưởng tượng rằng chỗ này, hồi trước kia là một cánh đồng cỏ để cho thú vật ăn. Chúng nó sẽ thuật lại cho mấy bạn học ở trường nghe công việc cha chúng nó đã làm. Chúng sẽ hãnh diện có một người cha như thế. Các trẻ khác làm sao có được một người cha có công nghiệp như vầy. Moritz thấy tự đắc. Ban đầu anh còn băn khoăn lo nghĩ chuyện nhà. Có thể gạch phơi ngoài sân khô quá! Có thể Suzanna không chở cây ở rừng về được! Có thể nàng không hái hết bắp. Tối anh không ngủ được cũng vì đó. Nhưng đó chỉ là lúc ban đầu. Sau rồi anh lần lần ít nghĩ đến. Suzanna chắc đã thu xếp yên ổn. Những chuyện nào sức nàng không làm nổi, chừng anh về, sẽ làm tiếp. Từ khi viên phó quản xem xét anh, bắt anh cởi quần và biết rằng anh không phải Do-thái, thì Moritz cứ chờ đợi được lịnh thả ra. Anh độ chắc giấy thả đã gởi tới lâu rồi, nhưng anh chưa về được vì kinh đào chưa xong. Bữa nay, đức vua và mấy đại tướng đến coi kinh đào có vừa ý các ngài không. Sau đó, người ta chắc sẽ cho anh trở về nhà. Moritz không oán giận chánh phủ gởi anh tới đây nữa. Lúc đầu, anh rất ghét thù người lính dẫn anh từ làng tới tỉnh. Kế đó anh Traian hù viên quản. Anh tin chắc y gởi giấy sung công anh. Bây giờ anh cũng quả quyết như thế, song cơn giận hết rồi. Khi anh được thả về, và nếu anh gặp y ngoài đường, thì anh giở nón chào y như trước. Nhưng nếu anh được thả ra sáu bảy tháng trước, anh chắc sẽ xây lưng với hắn ngay. Có thể anh nguyền rủa hắn nữa, vì chính hắn khinh khi anh mới gởi giấy sung công anh. Nhưng bây giờ cơn giận nguôi rồi. Chuyện gì rồi cũng trôi qua với thời gian. Anh biết không còn bao lâu nữa, anh sẽ trở về. Anh vò võ nhớ làng, nhớ vợ. Con anh chắc lớn rồi. Thằng Petru sẽ chạy ra cửa đón anh trước nhà. Anh mơ màng thấy mình đi vô cửa, tay bồng Petru, tay ôm Nicolae cạnh mình. Cảnh như thiệt. Kế anh thuật lại cho Suzanna nghe công chuyện anh đã làm như thế nào, và anh đã ở đâu. Anh sẽ không nói đến chuyện bị đòn bọng và sự đói khát, để nàng đừng buồn vô ích. Anh chỉ nói, anh học tiếng Do-thái và không ai ở trại tin rằng anh là dân Roumain. Họ mới chịu tin khi viên phó quản bắt anh tra xét để coi... Suzanna chắc cười rộ khi nghe nói viên phó quản bắt tên lính gác cũng xem xét nữa. Anh sẽ nói cho Suzanna biết rằng viên phó quản với tên lính gác đều ngạc nhiên, miệng há hốc. Họ đã nói với anh: "Chúng tôi phải đuổi anh ra khỏi trại vì anh không phải Do-thái, mà vua chỉ bắt dân Do-thái đào kinh thôi".

Suzanna tất sẽ mừng rỡ thấy chuyện êm rồi và anh đã về nhà. Nàng sẽ đến bên anh, ôm anh vào lòng, và nói:

- Anh là người chồng yêu dấu của em, như vừng thái dương chói sáng trên trời vậy!

Đó là mộng tưởng của Moritz, trong khi chờ đợi mấy đại tướng viếng trại. Nhưng trong ngày, có tin cho hay đại tướng sẽ đến ngày mai. Bọn tù đợi đại tướng, đứng sắp hàng ba, cuốc xuổng cầm tay, đều đi tản mác.

Moritz được gọi vô phòng giấy.

Strul, người lính gác, nói:

- Ông phó quản muốn nói chuyện với anh.

Tim Moritz đập mạnh. Anh độ chắc lịnh phóng thích đã gởi tới, nên mới kêu anh. Nhưng anh không hỏi gì Strul. Anh ráng giấu nỗi vui mừng. Anh biết chỉ có thể được về là lúc kinh đào xong. Nay kinh đào chưa rồi mà lại có tin mừng như từ trên trời rớt xuống. Viên phó quản mặc sắc phục mới. Nền gạch được rửa sạch sẽ để chờ cuộc đón tiếp. Bàn viết trải giấy xanh, không chút bợn, giấy má hồ sơ sắp ngay ngắn từng chồng. Moritz đứng ngoài cửa và chào. Anh nóng nảy, nhưng anh làm như chưa biết chuyện gì. Anh không muốn tỏ vẻ hân hoan như đứa trẻ. Trên chiếc ghế, gần viên phó quản, bác sĩ Abramovici ngồi. Ông cũng là một tù binh, nhưng được làm thân với viên phó quản nên ở luôn trong phòng giấy với y.

Strul ngồi trong góc, trước một bàn nhỏ, cũng trải giấy xanh. Tất cả đều chăm chỉ ngó Moritz, mắt mở to. Ai nấy đều nghiêm trang. Viên phó quản bèn nói:

- Moritz à! Vợ anh ly dị với anh rồi. Nàng không còn là vợ anh nữa.

Hắn vuốt râu và nói tiếp:

- Tôi mới được tờ khai ly dị đây, anh phải ký tên để chứng nhận đã được cho biết.

Viên phó quản để tờ giấy trên góc bàn và đưa giấy cho Moritz. Nhưng Moritz vẫn đứng yên.

- "Cuộc xin ly dị vì lý do chủng tộc. Nàng không muốn làm vợ của một tên Do-thái". Viên phó quản còn nói thêm, giọng khiển trách. "Anh đã khai với tôi đủ thứ chuyện dối, rằng anh là dân Roumain, có đạo thiên chúa. Anh muốn gạt tôi hả? Anh không qua mặt con cáo già này được đâu! Tôi không gởi đơn của anh cũng phải. Vợ anh ly dị vì anh là Do-thái. Hơn ai hết, nàng biết rõ tại sao?".

Viên phó quản muốn nhích mép cười, nhưng khi thấy mặt Moritz xám xanh, y lại thôi. Y nói:

- Đàn bà như thế luôn. Khi anh ra đi họ có người khác rồi. Tất cả đàn bà là đĩ thõa. Ối! Đừng thèm lo nghĩ làm chi...

Moritz muốn xé viên phó quản ra từng mảnh. Anh không thể nghe y nói vợ anh là đĩ thõa. Anh nghiến răng; cơn giận sôi lên. Anh cố dằn xuống, cuống họng nghẹn ngào gần vỡ ra.

Anh nắm chặt tay để đừng đánh viên phó quản và tất cả người chung quanh. Anh đáp to:

- Vợ tôi không phải đĩ thõa!

- Thật vậy! Anh là một người đàn ông mà vợ không đĩ thõa, bởi vì anh không còn vợ nữa. Anh có vợ từ...

Viên phó quản lấy tờ giấy lại và đọc trên tờ khai.

- Từ trước đến 30 tháng giêng. Kể từ ngày ấy, cuộc ly dị được tuyên án, và anh trở thành trai không vợ.

Viên phó quản lại mỉm cười. Bác sĩ cũng nhích miệng cười. Moritz nói:

- Tôi chắc vợ tôi không có xin ly dị! Tôi biết vợ tôi lắm.

Viên phó quản đáp:

- Nếu anh không tin thì tùy anh. Nhưng anh phải ký tên ở đây để nhận biết cuộc ly dị, và anh đã trở lại người độc thân!

- Tôi không phải độc thân!

- Được, anh không độc thân, nhưng anh phải ký tên để chứng nhận đã đọc tờ này.

Moritz ngó sững cây viết máy của viên phó quản đưa ra, và nói to:

- Tôi không ký gì hết!

Viên phó quản nổi dóa, mặt đỏ gay.

Hắn nhớ lại hắn là quân nhân mà câu trả lời Moritz là một sự không tuân lịnh. Hắn quát to:

- Ký tên cho mau! Anh quên rằng anh ở đâu rồi à! Anh có mất trí không?

Moritz cầm viết ký tên. Lần này là một cái lịnh, nên anh phải vâng lời. Khi ký tên xong ở dưới tờ giấy bên phải, chỗ ngón tay viên phó quản chỉ, anh để viết xuống bàn và muốn đi ra khỏi phòng. Mắt anh đầy nước mắt, và đầu óc anh quay cuồng. Viên phó quản nói:

- Đọc coi, anh phải biết anh ký tên cái gì mới được chớ!

Moritz đáp:

- Tôi không cần đọc. Tôi biết không phải là chuyện thiệt.

Anh muốn mở cửa ra, nhưng tay anh sờ soạng như ở trong tối, và anh không tìm thấy chốt cửa.

Bác sĩ Abramocivi đưa bao thuốc cho anh và nói:

- Anh ở đây hút một điếu thuốc chơi.

Moritz trở lại lấy điếu thuốc. Anh không nhớ bác sĩ đưa quẹt máy cho anh hồi nào. Anh cố nhớ, nhưng chỉ thấy trước mắt anh một ngọn lửa cháy, một ngọn lữa vàng lấp lánh và to lớn lạ thường.

Bác sĩ hỏi:

- Anh có con không?

Moritz giựt mình như sực tỉnh cơn mộng. Anh trả lời, song chỉ là một người khác nói chuyện. Không phải môi anh mấp máy. Anh ra khỏi phòng cũng không biết bằng cách nào. Anh ở suốt ngày, dựa bờ kinh, trên đất giá lạnh. Anh không thấy lạnh. Muôn ngàn chuyện thấp thoáng qua đầu anh. Thỉnh thoảng tờ giấy anh ký tên thoáng qua trí anh làm anh nổi giận.

Bữa sau, anh trở lại xin viên phó quản cho đọc tờ giấy. Anh đã không tin, nhưng bây giờ anh mới biết là sự thật. Suzanna ly dị vì nàng cũng tưởng anh là Do-thái, và nàng đã có chồng khác rồi. Anh không giận nữa, khi viên phó quản nói anh là trai chưa vợ. Tim anh se lại, nhưng anh không giân nữa, vì biết đó là sự thật. Chính mắt anh đã đọc tờ ly dị rõ ràng.

Ngày sau, viên phó quản lại mặc sắc phục mới và bọn tù chờ đến trưa, sắp hàng dài theo kinh. Nhưng đại tướng không đến. Ngày thứ ba, viên phó quản mặc lại thường phục và nói đại tướng giận nên không đến coi kinh.

Trọn một tuần lễ không có làm việc, rồi trại dời lên phía bắc. Hồi nào tới giờ, họ đào đất sét vàng và mềm. Bây giờ phải đào trong đá. Viên phó quản đi xe cam-nhông tìm dụng cụ khác, những loại cũ chỉ dùng đào đất sét thôi. Y đi vắng ba ngày và trở về với hai xe cam-nhông đầy khí cụ chuyên dùng để đào và đập đá. Công việc rất nặng nhọc. Trời giá lạnh. Moritz vất vả suốt mùa đông. Đồ ăn lại thiếu thốn. Người nằm la liệt như ruồi. Kẻ bịnh, người chết. Moritz không đau, chỉ thấy cuống họng khan trong một tuần lễ. Công việc tiến thật chậm chạp. Đến tháng tư mà cũng còn ở chỗ làm hồi lễ sinh nhựt. Họ chỉ đào được có trên mười thước đất thôi. Nghe nói có đến năm trăm ngàn dân đào kinh trong mùa đông này. Công việc sẽ kéo dài trọn mùa hạ và sẽ hoàn tất trong mùa thu tới. Đến tháng mười thì sẽ cho nước vô được. Nhưng độ vài tháng sau, lại có lịnh ngưng công việc. Viên phó quản cho biết Bộ Tham mưu bỏ việc đào kinh này, vì vua Charles II đã bị truất ngôi và bôn tẩu rồi. Đồng thời với vua, các vị đại tướng đã góp công với vua khởi thảo kế hoạch đào kinh cũng đều trốn mất, hoặc bị cách chức. Từ trong đền vua, mấy vị đại tướng khác thay thế, cho rằng kế hoạch đào kinh của vua không hay, nên truyền bãi bỏ công việc. Mấy dân Do-thái lại bị lùa vô toa xe lửa chở đi về ranh giới miền tây xứ Roumanie, đặng dựng pháo lũy chống quân Hung-gia-lợi.

Khi rời bỏ trại ra đi, Moritz rất tiếc sao vua thảo kế hoạch xằng bậy để bao nhiêu công việc rồi phảo hủy bỏ như vậy.

Trại mới ở trong rừng gần ranh giới hai nước Roumanie và Hongrie. Họ đi suốt ba ngày ba đêm trên xe lửa. Họ đem theo tất cả dụng cụ đào kinh. Viên phó quản khuân cả phòng làm việc là một cái nhà cây nhỏ, chất lên xe lửa. Strul đem sổ sách. Bọn tù thì mang cả chí rận, mỗi người có hơn vài chục con. Nhưng dụng cụ đào kinh không dùng được. Phải đốn cây để làm pháo lũy. Moritz chưa thấy pháo lũy ở đâu, mà cũng không biết nó ra sao. Tuy nhiên, họ đã đốn cả mấy đám rừng và chở đây đến biên giới. Hằng ngàn dân phu lo đốn cây và tải tới triền núi. Moritz ráng tưởng tượng cái pháo lũy ra sao, nhưng không được. Theo anh thì với số cây đốn này có thể dựng một bức tường khổng lồ giữa hai dân tộc Roumain và Hung-gia-lợi. Biết đâu đó chánh là ý kiến của Bộ Tham mưu? Riêng anh, anh chẳng biết gì ráo. Anh nóng nảy chờ xem bức tường khổng lồ dựng lên ngăn chia hai nước. Khi tường dựng rồi, đứng trên rừng thì anh sẽ thấy được nó. Anh nghe nói dân Hung-gia-lợi cũng làm pháo lũy, trên đết họ, gần biên giới. Anh tò mò muốn biết pháo lũy bên nào làm cao hơn. Anh rất mừng nghe viên phó quản cho pháo lũy của dân Hung không đáng hai xu, và dân Roumain có thể vượt qua dễ dàng, nếu họ muốn, trong một đêm. Nhưng dân Roumain không muốn. Anh thường tưởng tượng quân lính Roumain tràn qua xứ Hongrie. Nếu một khi anh còn ở đây mà có trận đánh giặc, thì đứng trên rừng cao, anh sẽ thấy được họ. Viên phó quản nói pháo lũy của dân Roumain cao vòi vọi đến chim cũng không bay ngang qua được. Bởi thế nên anh tưởng tượng thấy pháo lũy cao, thật cao làm sao! Có nhiều con chim bay cao đến không còn thấy rõ, nếu chúng nó không bay vượt qua pháo lũy Roumain được- theo lời quả quyết của viên phó quản- thì người ở dưới đất làm sao thấy được chót pháo lũy, lút tận mây xanh. Moritz tự hỏi chừng đó những thân cây tự tay anh đốn sẽ ở nơi đâu. Anh muốn làm dấu cây, để khi pháo lũy dựng xong, sẽ tìm lại được. Không chừng các cây do tay anh đốn sẽ ở tận trên cao, gần chót pháo lũy. Mỗi ngày anh cứ nghĩ đến mấy chuyện như vậy, trong lúc đốn cây. Nhờ đó mà ngày giờ thấm thoát qua mau lẹ hơn. Buồn cười thật! Nếu ai biết được anh nghĩ như vậy, chắc sẽ bò lăn ra mà cười. Mà anh lại thích! Anh không muốn nghĩ đến nhà cửa làng mạc, vì anh cảm thấy xấu hổ.

Một bữa, Strul lên rừng kiếm anh về phòng giấy. Từ hôm ký tờ ly đị đến nay, anh không còn trở vô phòng giấy lần nào. Hễ ngó đến bàn viết và tên phó quản thì anh nhớ lại góc bàn để tờ ly dị, nhớ dáng điệu anh chống tay xuống bàn để ký tên. Vì thế, anh không muốn vô. Anh không muốn thấy phòng giấy, dầu ở xa cũng vậy.

Nhưng bây giờ bị kêu thì phải đi vô. Viên phó quản không có ở đây. Chỉ có bác sĩ Abremovici, Strul và Hurtig, người đầu bếp trong trại. Moritz chào mọi người. Họ niềm nở chào lại, rồi đưa một cái ghế cho anh ngồi.

Moritz chờ viên phó quản, vì nếu có lịnh kêu anh về là chắc viên này có điều gì quan trọng để nói với anh.

Bác sĩ nói:

- "Viên phó quản không có ở đây. Chúng ta cứ nói chuyện yên ổn". Ông đưa cho Moritz điếu thuốc hút. Luôn luôn ông có thuốc ngon và đắt tiền.

Bác sĩ nói:

- Anh Moritz à! Vợ anh bỏ anh.

Moritz xanh mặt đáp:

- Có phải chuyện của ông đâu? Chuyện của tôi chớ không phải của ai khác.

Bác sĩ nói tiếp:

- Tôi chỉ muốn nói với anh rằng, không còn ai chờ anh ở nhà, nếu anh ở trại ra. Theo tôi thì trước khi hết giặc, không một ai được về, mà giặc thì có thể kéo dài đến mười năm.

Moritz thở dài, nếu anh còn ở trong trại mười năm nữa thì tóc anh sẽ bạc.

Bác sĩ hỏi:

- Anh muốn đi đến một xứ khác không?

Moritz nhớ lại đã có lần anh muốn đi Mỹ với Ghitza. Anh nói thầm: "Nếu ngày ấy trời mưa thì bây giờ mình ở tận Mỹ quốc rồi. Nếu chiều ấy mình không gặp Suzanna?" Nếu chiều ấy không gặp Suzanna thì hiện giờ anh đã ở nơi thật xa rồi, anh không có ở trại giam này.

Moritz mừng rỡ đáp:

- Tôi muốn lắm. Tôi có lần muốn đi Mỹ, nhưng rồi không đi được...

Bác sĩ nói:

- Lần này thì được. Nếu anh muốn đi thì trong vài tháng anh sẽ tới Mỹ.

Moritz ngó bác sĩ, Strul và Hurtig. Mấy người này cũng ngó anh. Họ không ngạo anh đâu, vì nếu giỡn chơi thì đâu có kêu anh từ rừng về.

Moritz đáp:

- Tôi muốn lắm!

Bác sĩ nói:

- Vậy thì anh đi với ba chúng tôi. Chúng tôi muốn qua nước Hongrie. Anh có sợ vượt ngục không?

- Tôi không sợ!

- Ở Hongrie không có luật "bài Do-thái". Tôi có người chị có chồng ở thành Budapest và đã ở đó chờ tôi. Anh Hurtig cũng có bà con bên ấy. Chúng tôi cần một người vác hành lý. Tôi có nhiều lắm: sáu va-li. Tôi đem theo tất cả những gì có giá trị. Ra khỏi biên giới, trên đất Hung, ta còn phải đi bộ hơn mười cây số ngàn. Tôi không vác hết nổi. Mà cũng không ai biết tiếng Hung, nên chúng tôi mới nhớ đến anh.

Moritz hỏi:

- Làm sao ra khỏi chốn này?

- Viên phó quản chở chúng ta bằng cam-nhông tới biên giới, vì không còn cách nào khác. Lính tuần thành rảo khắp các nẻo đường, nhưng chúng ta đi xe nhà binh.

- Viên phó quản biết chúng ta muốn trốn sao?

Hurtig nói:

- Biết rõ lắm chớ! Hắn có gia đình đông, và cần tiền. Nếu anh ở vào địa vị của hắn, anh không làm như hắn sao?

Moritz không trả lời.

Bác sĩ nói:

- Hút thêm điếu thuốc rồi lo sắp hành lý đi. Coi chừng bọn tù thấy nghe!

Moritz hỏi:

- Phải đi liền sao?

- Mau chừng nào tốt chừng nấy. Chín giờ này viên phó quản đem xe chở ta trước cửa. Về lấy đồ rồi lại đây liền đi. Đừng lấy nhiều quá, vì anh còn phải vác đồ của tôi nữa. Chúng tôi đợi anh ở đây.

Moritz chạy đi rồi trở lại liền với một cặp da dồn một áo sơ-mình, một cái quần và nửa ổ bánh mì.

Chín giờ, họ ra khỏi trại. Viên phó quản chờ sẵn, chở họ trên xe và đưa họ tới biên giới.

Ba giờ sáng, Moritz vác rương của bác sĩ qua đất Hung. Mờ sáng thì họ tới một nhà ga. Bác sĩ đưa tiền cho Moritz mua bốn cái vé hạng nhì đi tới thành Budapest.

Trong cuộc tiếp rước phái đoàn Finlande ở Bucarest, Traian làm quen vị đại tướng Tauton, tổng trưởng bộ Chiến tranh xứ Roumanie. Vài ngày sau, ông tới tìm đại tướng để trình bày trường hợp của Moritz. Đại tướng ân cần nghe câu chuyện và biên tên, họ, nghề nghiệp, ngày sanh, và ngày Moritz bị bắt, rồi nói với Traian:

- Trễ lắm là một tuần lễ, người của ông sẽ trở về nhà. Tôi sẽ ra lịnh xem xét lập tức và làm giấy thả liền. Bữa nay là... (đại tướng ngó lịch) 21 tháng 8. Ông có thể trở lại ngày 28, tôi sẽ trao giấy phóng thích Moritz cho ông. Phải nó là đày tớ của ông thân ông không?

Traian đáp:

- Là người thân tín của cha tôi, hơn là người tớ.

Không đợi nghe nốt Traian, đại tướng nói tiếp:

- Ở thôn quê thiếu người làm công. Tôi hiểu vì sao ông lo cho tên ấy như vậy. Thêm một người thì giúp cho cuộc gặt hái mau lẹ, nhứt là ta đang mùa gặt.

Câu chuyện tiếp tục như thế.

Traian cố giải thích cho đại tướng nghe, sự lo giùm cho Moritz vlà vì nó bị bắt oan, chớ chẳng phải vì nó là đày tớ của mục sư và cần thiết giúp việc đồng áng.

Traian nói với đại tướng:

- Tôi can thiệp vì nhân đạo chớ không vì tư lợi.

Đại tướng đáp:

- Tôi cũng vậy. Tôi thường vô đồng điền làm lễ thánh đặt tên hay làm lễ kết hôn cho dân làng. Bây giờ phải dùng đủ phương pháp để khuyến khích họ làm việc. Phải để cho họ có cảm tưởng rằng mình là bạn của họ, và mình có thể ngồi cùng bàn ăn với họ. Tôi rất hiểu ông. Ông thân ông cũng ở một cảnh như tôi.

Đoạn đại tướng kéo ngăn tả, lấy quyển sách mới, chưa rọc, quyển tiểu thuyết chót của Traian, để trên bàn, và nói:

- Tôi sai viên hầu cận ra tiệm sách mua về đây. Ông vui lòng đề tặng cho con gái tôi. Nó tên Elisabeth, nó mới mười tám tuổi và mê tiểu thuyết lắm. Ông là một trong những tác giả nó ưa nhứt. Đến bữa ăn, tôi sẽ nói ông đã đến viếng, chắc nó hỏi đủ thứ về ông: y phục, chiếc cà-vạt ông mang, hiệu thuốc ông hút? Tuổi trẻ như vậy đó ông à!

Traian xuống thang lầu, chắc chắn lần này ông xin được lịnh phóng thích Moritz. Ông đến hàng bông tươi lấy bó hường trắng ông dặn trước từ sáng, rồi vô nhà bưu điện đánh một điện tín cho cha như vầy:

"Ngày 29 tháng 8 con và vị hôn thê con về Fântâna với tờ lịnh phóng thích Moritz".

Eleonora West, vị hôn thê của Traian, vui mừng hỏi chàng:

- Ngày 29 tháng 8, chúng ta sẽ về nhà ông thân anh, tại làng Fântâna. Còn một tuần lễ nữa, phải không anh? Em muốn tới ngày ấy liền!

Nàng lấy bó hường trên tay Traian: chàng nhìn chăm chú mấy lọn tóc hung hung đỏ xòa trên vai, trên áo hàng đen của nàng. Chàng ngắm thân hình yểu điệu mảnh mai của nàng, rồi nói:

- Nora à! Em biết anh tự hỏi gì mỗi khi anh nhìn em không?

Nàng tươi cười, quay đầu lại nhìn chàng và nghe chàng nói tiếp:

- Anh tự hỏi như thi sĩ Tudor Arghezi đã hỏi: "Mẹ nàng là một bà tiên, một con hươu, hay một cây sậy? Hột giống nào đã nảy mầm trong người bà? Hẳn là của một thần linh chớ không phải của người phàm..." Em quá đẹp... Trong tông tộc em chắc có người lẹ làng như cheo, mắt em láo liên sợ sệt như mắt sóc, và em cũng yểu điệu dịu dàng như chúng nó. Em chắc cũng có người thân tộc uyển chuyển như rong biển. Thân vóc em điều hòa cân đối như cỏ lác. Tánh em hay thay đổi như sự mơn trớn của con mèo Ba-tư.

Eleonora vẫn đứng xây lưng, mặt giấu trong bó bông hường.

Traian hỏi:

- Anh có làm phiền em không?

- Không!

- Tại sao em buồn. Dầu chẳng nhìn cặp mắt em, anh cũng đoán biết. Có phải tại mấy lời anh nói chăng?

Nàng gượng cười, đáp:

- Không, em chỉ tưởng nghĩ đến dòng họ em và khó tìm thấy ông hoàng, bà tiên, cheo, sóc, rong biển... trong ấy.

Hai người dùng bữa, chỉ có hai người trong phòng rộng lớn, bàn ghế bằng danh mộc xưa.

Nhà của Eleonora là một nhà sang trọng nhứt nhì trong các nhà đẹp tại thành Bucarest. Chính do nàng vẽ họa đồ. Bàn ghế và những tấm thảm đều cho nàng ra kiểu. Nàng được hai mươi chín tuổi và làm giám đốc tờ "Occident" (Tây Phương), một tờ báo lớn nhứt ở xứ Roumanie. Nàng theo học các trường đại học danh tiếng Âu châu, viết bài xã thuyết trong tờ báo của nàng, quản lý một nhà xuất bản với một tạp chí văn chương và mỹ thuật, tham gia những hoạt động chánh trị, văn hóa và xã giao lịch thiệp.

Traian biết nàng đã mấy năm rồi. Tình yêu của họ cũng vẫn thâm trầm như lúc đầu. Có thể nồng nàn hơn, nhưng họ chưa cưới nhau. Mỗi lần Traian có hỏi đến thì nàng trả lời:

- Em không thể nào là người nội trợ giỏi được. Em yêu nghề quá, nếu phải từ bỏ đi, thì như em đã phí mất vật gì quý báu nhứt đời, và làm hỏng tất cả.

Traian nói:

- Anh tin chắc Moritz sẽ được thả. Ông Tổng trưởng Bộ Chiến tranh hứa từ đây đến ngày 28 này. Anh đã đánh điện tín cho ba anh hay rằng anh sẽ về với "vị hôn thê" của anh và đem tờ lịnh phóng thích Moritz nữa. Người chắc sẽ vui mừng gấp đôi.

- Anh nhứt định giới thiệu em là vị hôn thê của anh sao?

- Phải đó. Anh tha thiết lắm. Nhưng nếu em không muốn thì anh sẽ thôi. Ba anh tất sẽ buồn, nhưng người từng hiểu rõ mà tha thứ cho.

- Sao anh lại giới thiệu em là vị hôn thê mà không phải là vợ? Nếu sáng mốt, ta làm lễ cưới, thì chừng về làng Fântâna, chúng ta là vợ chồng rồi.

Traian ngờ người nói chơi. Đã hai năm nay, chàng cứ nhắc nhở, nàng cũng yêu chàng nhưng không khứng làm vợ, và không muốn làm vợ ai cả. Bây giờ, bất thình lình, nàng đề nghị với chàng làm lễ cưới. Traian hỏi gặn:

- Em nói thiệt chớ?

Chàng đứng dậy, hôn tay nàng và hỏi:

- Có chuyện gì xảy ra vậy em? Hồi sáng mơi, trong điện thoại, em chẳng có nói gì cả, sao bây giờ em lại nhứt định?

Nàng trả lời:

- Không có chuyện gì hết. Anh đã hỏ em nhiều lần, thì ngày 29 về làng Fântâna, chúng ta là vợ chồng. Hay là anh đổi ý? Thì anh phải cho em hay chớ.

Traian biết chắc có chuyện quan hệ xảy ra, một biến cố xui khiến Eleonora ưng thuận làm vợ chàng, nhưng chàng không đoán được.

Nàng nói:

- Bây giờ ta làm lễ theo luật hộ. Còn làm phép giao thì để về làng Fântâna. Anh ao ước làm lễ cưới tại nhà thờ của ba anh. Anh muốn thấy em mặc áo dài trắng đi lần đến cửa thánh, giữa đám phụ nữ trẻ trung trong làng... Em sẽ xin khỏi làm lễ cưới theo luật hộ. Em đích thân gọi điện thoại xin ông chưởng lý.

Traian hỏi:

- Nora à! Chuyện gì đó em! Chắc chắn có chi quan hệ xảy đến cho em rồi!

Nàng đáp:

- Không có chuyện chi cả. Thật như vậy. Hoặc giả có chuyện này, là tự nhiên em muốn thành vợ anh. Em đột nhiên có ý nghĩ ấy, và muốn thực hành ngay để đừng có chuyện gì xảy đến cản trở. Hạnh phúc mà em ao ước rất cần thiết cho em, nên em muốn nắm lấy liền và nắm thật chặt trong tay, em sợ nó thoát ra nếu em chờ đợi mãi. Chỉ có thế thôi, anh tin em chăng?

Dùng bữa xong, Traian và Eloonora vô phòng sách, đọc sách và xem tranh.

Traian tin rằng Eleonora nói thiệt, nhưng hai người đều không bàn đến chuyện đám cưới. Họ thấy cần giải thoát khỏi những ý tưởng đang đè nặng trong lòng. Họ đứng lại trước một bức họa của Picasso. Eleonora nhìn tấm tranh vẽ một người đàn bà quá đau khổ đến nỗi nét mặt không còn là một diện mạo con người. Chỉ là một hiện tượng da thịt nát bét, một hình dáng thảm não của người bị đau khổ làm rũ chí, như một cái máy bị tháo gỡ. Tồn tại còn mấy bộ phận chính: mắt, mũi, miệng và lỗ tai, mỗi bộ phận sống riêng biệt vì đau khổ, chúng chống đối không hòa hiệp nhau. Thân hình con người mất vẻ đồng nhứt của nó.

Traian quay ngó Nora và cảm thấy thoáng qua nàng giống bức họa này. Không máy ảnh nào ghi được nét mặt nàng lúc đó. Sự đau khổ quá trầm trọng. Mặt Eleonora cũng bị tàn phá như mặt người đàn bà trong tranh Picasso, giả như có một luồng điện thật mạnh chạy qua mà không làm mình bị giựt, vì nó quá mãnh liệt. Traian hỏi:

- Em đang suy nghĩ gì đó?

- Không có chi anh à! Chúng ta đi uống cà-phê đi.

Và không đợi trả lời, nàng quay lưng lại như lúc Traian nói với nàng về dòng giống nàng có thân tộc với hươu nai và rong biển.

Đám cưới làm lễ tại dinh Đốc lý. Họ mặc y phục thường. Hai người bạn của Traian làm chứng. Xong, họ đi ăn ở một hiệu trong thành phố Baneasa.

Traian nói:

- "Để chừng cử hành hôn lễ ở nhà thờ sẽ làm đám cưới long trọng". Rồi chàng thuật lại lễ tục một đám cưới ở làng.

- Đám đi đến nhà thờ có năm chục thanh niên mặc quốc phục và cỡi ngựa kim dẫn đầu. Kế đó, một xe do bốn con bò kéo. Theo tục lệ, trong xe ấy chưng bày những đồ tặng cho cô dâu và của hồi môn của cô. Song cỗ xe của chúng ta sẽ chở đầy hoa tươi. Chúng ta có mười hai cha đỡ đầu. Khi hành lễ, trong lúc đôi vợ chồng mới cùng mấy cha đỡ đầu nắm tay nhau nhảy xây vòng tròn, thì từ trên nhà thờ một đám mưa kẹo rơi xuống. Trẻ nhỏ xúm nhau lượm đến cả dưới chân cô dâu chú rể. Đến phiên chúng ta, phải cho mưa từng bao kẹo đầy để trẻ con làng Fântâna tha hồ lươm. Lúc anh còn nhỏ, anh cũng đi lượm kẹo trong mấy đám cưới, nhưng được ít lắm, không khi nằo trên bốn viên. Anh muốn đám cưới chúng ta, trẻ con lượm được cả túi đầy. Chúng ta sẽ rước mười hai giàn nhạc vĩ cầm và lục huyền. Rồi sẽ đãi rượu trong thùng to để dân làng say sưa. Đám cưới sẽ cử hành trong một đám đất rộng, có thể mời được hàng ngàn người, và cuộc vui sẽ kéo dài suốt tuần...

Nora xem đồng hồ. Trong một khắc nữa, nàng có hẹn với trạng sư Stein. Nàng nói:

- Thôi chúng ta đi. Còn nhiều chuyện gấp chờ tôi ở phòng giấy.

Traian ngưng kể chuyện đám cưới ở làng Fântâna. Cả hai đều đứng dậy và ra đi.

Traian đưa Nora tới tòa soạn báo Occident. Đây là một tòa nhà tối tân nhứt, mặt tiền toàn bằng đá cẩm thạch trắng. Nora xây cất trên chỗ nền cũ của một tòa nhà in. Traian ngó sáu từng lầu chói lọi dưới ánh mặt trời và mỉm cười nghĩ thầm: "Đây là công trình của Nora". Chàng nói:

- "Anh đón em và đợi em ngoài xe nghen!" Chàng biết Nora luôn luôn tự lái xe về nhà khi xong công việc ở tòa báo. Nhưng bữa nay chắc nàng bỏ lệ thường, vì là ngày đám cưới của nàng. Nhưng Nora nói:

- Em sẽ về một mình, khi xong công việc!

Nàng chờ Traian lái xe đi khuất rồi mới bước lên bực thang bằng đá cẩm thạch và mất dạng trong tòa nhà lớn, sau cánh cửa to, bằng sắt đúc, mà người gác cửa mang "lon" vàng, mở rộng chờ.

Eleonora vào văn phòng một cách oai vệ nhưng hững hờ. Nàng làm như không để ý đến một ông già mặc áo đen đứng lên, khi nàng vào. Nàng để bóp và bao tay trên bàn, rồi ra hiệu mời ông già ngồi. Nàng lấy một điếu thuốc và cố kềm tay khỏi run, khi đốt lửa. Đoạn nàng ngồi lên ghế dựa và ngó ông già, nói:

- Tôi xin nghe ông, ông Stein.

Ông già mở cặp da để trên đầu gối, lấy ra một xấp giấy và để trên bàn.

Nora chăm chú từng cử chỉ của ông. Ông nói:

- Chuyện đã xong rồi, cô West ạ! Đây, giấy tờ đây!

Ông lấy hai tờ giấy trong hồ sơ đưa nàng.

Nora hỏi:

- Phải chỉ có bao nhiêu đây trong Văn khố Ploesti không?

Ông già đáp:

- Tới sớm mai này thì có bấy nhiêu thôi. Và bây giờ, nó nằm trên bàn giấy cô. Văn khố ấy không có gì nữa.

Eleonora West nhìn khinh bỉ mấy tờ giấy, rồi xếp lại cất vào ngăn tủ bàn giấy.

Ông già nói:

- Kỹ hơn là cô nên đốt nó liền đi.

Eleonora ngó ông, ngó cặp kiếng gọng vàng, ngó cổ áo cứng và cái áo kiểu xưa của ông, rồi nói:

- Một khi mà giấy tờ này ở trong bàn viết của tôi, thì không còn sợ chi nữa, ông Stein à!

- Về phần tôi, thì tôi không sợ, nhưng còn cô, tốt hơn nên đốt nó ngay bây giờ đi!

- Chuyện này ông tốn hết bao nhiêu?

Nàng muốn nói sang chuyện khác, vì thấy ông già sợ nhiều. Thế nào cuãng phải đốt giấy tờ ấy, nhưng nàng muốn xem nó ra sao đã.

Ông Stein đáp:

- Đúng 10.000 "lơ".

- Còn tiền công của ông?

- Tính luôn vô đó cả.

Eleonora lấy trong bàn viết hai xấp giấy bạc và trao cho ông già. Ông ngập ngừng muốn đếm, nhưng đành bỏ tật này theo thói quen, rồi để tiền vô cặp da. Eleonora nói:

- Thôi, tôi nhờ ông có bao nhiêu đó thôi.

Nàng muốn ngồi một mình để xem giấy tờ, nhưng ông già không nhúc nhích. Nàng hỏi:

- Còn có chi nữa không ông?

- Không có chi cả. Chuyện đã hoàn thành theo ý định.

- Đâu đó đều hợp pháp rồi chớ?

- Đúng vậy. Nhưng chuyện chỉ tạm giải quyết, là đốt giấy tờ. Ấy là ý tôi muốn nói. Tôi mạn phép nhắc cô chú ý đến sự này, vì tôi là bạn và cộng sự với ông thân cô, và bởi tôi biết cô từ hồi còn bé, tôi đã từng bồng cô ngồi trên đầu gối tôi. Tôi muốn nói với cô rằng, chuyện chỉ có một phần tạm yên về phía thủ tiêu giấy tờ.

- Ông cắt nghĩa rành giùm đi.

- Rõ ràng lắm cô West à! Cô muốn phi tang giấy tờ chứng tỏ cha mẹ cô là người Do-thái. Thì cô biết, tôi đã lấy cắp trong Văn khố.

- Thì chuyện đã xong rồi!

- Cô có thể làm tiêu mất giấy tờ mà không xóa được chuyện thật. Dầu thế nào cô cũng là người Do-thái, nếu có người nhìn nhận ra cô...

- Người đó không thể trưng bằng cớ ra được!

- Thì họ bảo cô đưa giấy tờ lý lịch của cô ra.

- Tôi sẽ tìm giấy tờ khác. Với tiền bạc, tôi có tất cả giấy tờ tôi muốn.

- Đúng thật, nhưng cô lại chạm vào hình luật. Nếu lơ đễnh mà đụng đến Luật, thì khác nào chơi với lửa.

Eleonora mỉa mai đáp:

- Ông không phải vừa mới ăn cắp mấy giấy tờ này ở Văn khố Ploesti hồi cớm mai này à? Thế thì có quyền nào ông dạy luân lý với tôi.

- Không phải một bài học, cô ạ, mà tôi muốn nói trước cho cô rõ sự nguy hiểm và cô không thể ở mãi trong tình trạng này.

Eleonora châm điếu thuốc khác rồi nói:

- Ông biết rằng chỉ có cách này thôi. Tôi không làm khác được. Một khi xã hội cấm tôi sống một cuộc đời của tôi, cấm tôi có một cái nhà, một nghề nghiệp, một người chồng thì tôi sẵn sàng chiến đấu đến kỳ cùng, dùng tất cả khí giới nào tôi có được. Tôi chiến đấu như một con vật bị thương. Bản năng sinh tồn của tôi tích cực hoạt động.

- Cô West ạ! Điều cần thiết không phải chiến đấu, mà phải thắng cuộc.

Eleonora dụi điếu thuốc vào dĩa đựng tàn thuốc và nói:

- Tôi sẽ thắng!

- Cô tưởng là cô sẽ mãi mãi làm chủ nhơn và giám đốc tờ báo của cô sao? Cô chưa chịu khai cô thuộc dòng giống Do-thái là bởi tính nết can đảm và trẻ tuổi của cô. Cô còn may mắn lắm. Vì sợ, hoặc vì hèn nhát mà không ai dám mở cuộc điều tra cô. Đã có nhiều thơ tố cáo và đòi sung công nhà in với tờ báo, theo luật mới về nhân chủng. Chắc cô mua chuộc được kẻ nào có phận sự điều tra. Và cô đã thắng. Hiện giờ cô vừa hủy bỏ được giấy tờ chứng nhận cha mẹ cô là Do-thái. Cô càng có thì giờ thêm. Nhưng luật lệ này càng lúc càng gắt gao. Không một người Do-thái nào thoát khỏi. Hiện giờ, chỉ mới là khởi đầu. Thế nên cô mới còn được làm giám đốc một tờ báo lớn, mặc dầu cô là Do-thái; theo luật thì cô không được đăng một bài nào. Nhưng cô nên nghĩ đến tương lai!

- Luôn về tương lai, tôi cũng sẽ còn làm giám đốc và chủ nhơn tờ báo Occident!

Ông Stein biết rất rõ tánh suy luận đúng đắn của người đàn bà ngồi trước mặt ông. Nhưng bữa nay, câu trả lời của cô có vẻ đầy cuồng tín, mà người cuồng tín thì đâu còn suy luận nữa. Ông không cãi lại, vì một khi con người không còn sáng suốt, thì không nên cãi với họ. Có muốn đem điều hơn thiệt ra chỉ cho họ thấy rõ sự thật cũng vô ích.

Eleonora nói:

- Hồi trưa này tôi đã làm lễ thành hôn với một người có đạo. Tờ báo Occident sẽ do chồng tôi đứng tên, và như thế, không ai sung công nó được, dầu xứ Roumanie có luật bài Do-thái hơn nước Đức Quốc xã đi nữa.

Ông Stein lấy làm lạ, chưa hoàn toàn tin, nên hỏi lại:

- Cô lấy chồng thật à?

- Kể từ nay, tôi tên là bà Eleonora West Koruga. Chồng tôi là nhà văn Traian Koruga. Ông sẽ là chủ nhơn và giám đốc tờ báo. Và ông cũng là người sở hữu của tôi nữa.

Nora tươi cười, ra vẻ bằng lòng lắm.

Ông Stein thọc tay vô tùi áo, cũng không biết để kiếm món gì, nhưng để trấn tĩnh, và để đừng nói gì, hoặc để tránh cái nhìn của Eleonora. Ông cần có ít phút để định tâm và tin thật câu chuyện vừa nghe nói. Ông lấy khăn tay đưa lên miệng vừa ho vừa hỏi:

- Nói cách khác, là cô nhường tờ báo, không quản đốc nữa à?

- Chẳng những tôi không nhường cho ai mà tôi còn chỉnh đốn lại, và lập thêm ngành mới. Tôi đã mượn một ông giám đốc mới.

- Thật là một ý tưởng phi phàm. Một ý tưởng tuyệt diệu. Mà ông ấy có chịu những điều kiện đó không?

Nora đáp cụt ngủn:

- Tôi không hiểu.

- Ông Traian Koruga, chồng cô, có chịu giải pháp đó không? Với một người đàn ông, như vậy thật là khó chịu cho họ. Như vậy có nghĩa như ông Traian bị một người đàn bà mua với kế hoạch định sẵn.

Nora nói xẵng xớm:

- Tôi không mua ai cả! Tôi kết thân với chàng vì tình yêu!

Ông Stein đứng dậy. Ông chúc mừng nàng. Nora không đưa tay ra. Nàng lật mấy tờ giấy khai sinh của cha mẹ nàng, mắt ứa lệ. Nàng nói:

- Người ta ở đời chỉ có quyền nhận lời khen tặng lúc chết! Với một ý thức khách quan, ông sẽ tự nhận như thế. Nhưng chết rồi thì còn lãnh lời khen tặng gì được. Tiếc thật! Họ mất cơ hội duy nhứt để xứng đáng hưởng nó thật sự.

Ông già lại ngồi xuống ghế, nói:

- Tôi tưởng cô lấy chồng vì tình yêu!

- Ông không tin tôi yêu thật sao? Thông minh như ông mà không hiểu được à?

- Vậy sao cô đau khổ quá vậy? Tôi có cảm giác rằng cô khóc.

Nàng nói:

- Tôi có cảm giác chắc ông mệt nhừ, ông Stein à. Tôi không biết ông có gì không mà ông chẳng hiểu gì ráo! Người ta sẽ không cho ông là Do-thái. Tôi yêu Traian và chàng là người tôi yêu trước tiên đã từ mấy năm rồi. Tôi tha thiết yêu say mê chàng. Nhưng tình yêu, theo tôi, không phải một cớ để kết hôn. Tôi làm đám cưới đây vì luật nhân chủng. Để vãn cứu tờ báo. Để cứu đời tôi. Bây giờ, ông hiểu tôi chưa?

Stein không tỏ ra đã hiểu. Ông hôn tay Eleonora và đi ra cửa. Nàng kêu ông lại và nói:

- Cuối tuần này tôi về quê cha mẹ chồng tôi. Ông thân Traian là một mục sư chính thống giáo. Tôi sẽ ở vài ngày. Chừng tôi trở về, tôi muốn có đủ giấy tờ tặng dữ tất cả tài sản của tôi, động sản và bất động sản, luôn tờ báo Occident, để Traian Koruga đứng tên. Nếu ông gặp khó khăn về việc tặng dữ, thì ông làm tờ văn tự mại khế. Nói tóm lại, ông cứ liệu thế nào cho đúng luật thì hơn. Ông làm cho mau mau đi.

- Cô thật là tài trí.

- Tôi không tài trí chi cả. Tôi là một người đàn bà đem hết sức mình, tất cả bình sinh và sáng suốt để tranh giành quyền sống của tôi. Thôi, chào ông.

Khi ông Stein về, Eleonora ngồi lại bàn viết, hai tay ôm đầu khóc. Nàng khóc một cách bi thảm, chỉ có đàn bà là khóc được thôi, khóc chẳng những bằng đôi mắt, mà cả thân mình. Đoạn nàng kêu điện thoại gọi Traian:

- Anh vui lòng đến tòa soạn đón em.

- Có chuyện gì đó em?

- Không có chi cả, nhưng anh đến đón em, anh đến mau. Em thì không có sự gì xảy ra hết!

Traian đứng dậy ra đi, nhưng trước khi ra khỏi phòng khách, chàng còn ngó lại bức họa của Picasso. Nửa con mắt người đàn bà cười, và phân nửa kia khóc. Vì thế mà con mắt bị chia đôi, đặng nàng có thể vừa cười vừa khóc, cùng một lúc và cùng một cường độ ngang nhau.

Trong khi chờ đợi Traian, Eleonora kêu điện thoại nói chuyện với ông Stein. Ông này ở kế cận tòa soạn báo, nên vừa về đến nhà. Nàng hỏi:

- Ông Stein à, ông nói thật coi tôi lấy chồng đây vì yêu hay vì lợi? Đừng vị nể, ông cứ nói thẳng ý của ông.

- Vậy riêng bà, bà nghĩ thế nào?

- Tôi không biết. Dầu có chặt đầu tôi, tôi cũng không biết nói sao cho đích xác. Có lúc tôi cảm thấy vì tình yêu. Có khi tôi tự nghĩ là vì cả hai. Nhưng cũng không giải đáp nào đúng hết. Có điều tôi chắc là tôi không thể chờ đợi nữa, và phải thực hiện việc kết hôn. Nhưng tôi lại muốn biết coi sự thật là ở đâu?

- Cả hai đều cũng không đúng hết.

- Vậy tôi không lấy chồng như một người đàn bà vì tư lợi sao?...

- Không! Bà West ạ! Bà quá tự ái nên không bao giờ lấy chồng vì tư lợi, dầu cho tờ báo của bà sắp nguy.

- Ông chắc vậy à?

- Chắc.

- Thế thì tôi vì tình yêu?

- Nếu yêu đượng thật, thì phải tin chắc nơi tương lai. Phải tin tưởng nơi hạnh phúc, và càng vô lý hơn nữa, là phải tin rằng hạnh phúc vĩnh viễn, và do người yêu mình đem đến cho mình. Bà đã quá sáng suốt để nhìn thấy sự này. Thế nên, xin lỗi bà, bà không phải vì tình yêu mà kết hôn.

- Vậy thì sao?

- Không vì tình yêu, cũng không vì tư lợi, mà vì sợ. Cử chỉ của bà có tính cách thật mau lẹ của sự tuyệt vọng.

- Không có chút tình yêu nào trong đó sao?

- Cũng có, nhưng tình yêu của bà giống tình trạng của các bà, khi ở rừng, ngày đêm lo sợ thú dữ ăn thịt. Các bà quýnh quýu bấu vào người đàn ông nhờ che chở, yêu đương, bảo vệ và tha thiết các nhu cầu này một cách nồng nhiệt ngang nhau. Người đàn bà chỉ cảm thấy yêu như thế, trong những lúc có động đất, ngập lụt, hay bị tai họa, như lúc mà trái đất sắp sụp đổ.

- Tại sao ông không nói với tôi như vậy khi ông ở trước mặt tôi?

- Tôi không muốn bà nghi ngờ sức mạnh và uy quyền của bà. Tôi thấy bà sợ run, bà hành động vì sợ. Và tôi thương hại bà. Bà đừng quên rằng khi bà còn nhỏ, tôi thường để bà ngồi trên đầu gối tôi!

Traian bước vô văn phòng. Eleonora móc ống dây nói lên và ra đón chàng. Nàng ôm chặt lấy Traian và tươi cười. Traian hôn nàng, nói:

- Anh rất hân hoan thấy em vui vẻ. Hồi nãy, khi nói điện thoại, hình như nghe em khóc.

Ngày 28 tháng tám, trước ngày đi về làng Fântâna, Traian tới Bộ Chiến tranh để lấy tờ lịnh phóng thích Moritz. Chàng vui mừng như đã có mảnh giấy này trong túi rồi.

Chàng lên lầu rất mau. Người hầu cận đã biết chàng quen thân với ông Bộ trưởng, nên mời chàng vô liền. Traian vô phòng văn Đại Tướng, trong túi sẵn một quyển sách thứ tốt, có hình, tác phẩm đầu của chàng và chàng đã đề tặng cẩn thận. Đại Tướng không lại tiếp chàng, cũng không đứng dậy như lần trước, mà làm như đang đọc.

Traian nói:

- Thưa ông Bộ trưởng, tôi có làm phiền ông chăng?

Đại Tướng lạnh lùng trả lời:

- Không, ông không làm phiền tôi. Mời ông ngồi.

Ông cũng không đưa tay. Traian đã để ý.

Đại Tướng vô đề ngay:

- Tôi rất tiếc báo cho ông một tin buồn. Người mà ông can thiệp tuần trước và có lẽ ông đến đây cũng vì đó, không thể thả ra. Hoặc ít nữa, chưa thể thả ngay bây giờ được. Còn phải đợi điều tra xem lời chứng nhận của ông về nguồn gốc chủng tộc của y có đúng chăng?

Traian muốn ra không hỏi phòng ngay tức khắc, nhưng nhớ đến Moritz, nên ngồi im. Đại Tướng nói:

- Có bấy nhiêu đó thôi. Ông chờ xem kết quả ra sao?

Câu nói chấm dứt cuộc hội kiến và Đại Tướng mời chàng ra về. Traian biết vậy, song không đi ra, vì ngày mai khi về làng, cha chàng chờ tờ lịnh phóng thích Moritz. Chàng hỏi:

- Thưa ông Bộ trưởng, một tuần lễ trước, ông hứa với tôi cho lịnh thả ra. Ông đã nói rõ, chỉ một lời xác nhận của tôi là đủ bảo đảm, khỏi cần phải điều tra.

- Một tuần lễ có thể thay đổi cuộc diện được!

- Tôi không thấy chi thay đổi cả. Moritz bị nhốt trong trại Do-thái, mặc dầu anh là dân Roumain.

- Thì để ban điều tra xem xét.

- Ban điều tra có thể kéo dài hàng tháng. Người oan ức kia đã bị bắt hơn một năm rưỡi nay rồi.

- Tôi biết! Cuộc điều tra có thể lâu đến cả một năm, và không chừng cả hai năm nữa. Hiện giờ chúng tôi không mất thì giờ điều tra như thời thái bình. Chúng ta đang ở trong tình trạng chiến tranh.

- Nhưng, thưa Đại Tướng, lời khai của tôi không đủ bảo đảm để thả Moritz, rồi sẽ điều tra sau hay sao?

- Không!

Traian đứng dậy nói:

- Tôi rất ân hận thấy ông thay đổi y kiến tuần này qua tuần sau.

Đại Tướng đáp:

- Tôi cũng ân hận nữa, nhưng tôi không làm gì được trong vụ này.

- Thưa ông Bộ trưởng, đây có phải một lời nói bóng không?

- Không phải lời nói bóng. Tôi vịn vào chứng cớ cụ thể.

Traian tái mặt, nói:

- Lần này chính tôi phải xin ông giải thích rành cho!

- Lời giải thích? Ông Koruga à, lúc mà tất cả dân Do-thái cùng với bọn cộng sản đang hợp nhau gây chiến tranh với nước ta và muốn chinh phục tổ quốc chúng ta, thì ông, một công dân Roumain chính tông và một trong những nhà văn tiếng tăm nhứt trong nước, ông lại đi cưới người Do-thái!

Đại Tướng nói mà mặt giận đỏ gay lên, ông nói tiếp:

- Là một quân nhân, tôi cho hành động của ông là một phản bội, ông nghe chưa? Một phản bội! Với chuyện ấy, tôi làm sao tin lời nói của ông được? Sự can thiệp của ông còn làm tôi tin rằng Moritz là Do-thái. Và không chừng sự nghi ngờ của tôi sẽ đúng nữa. Như vậy, tôi còn làm sao tin lời ông nói được?

Traian đáp: "Cố nhiên là không!".

Rồi chàng ra về. Xuống thang lầu, thấy quyển sách còn cầm tay, chàng lật ra xé trang đề tặng, rồi leo lên xe hơi.

Traian nói thầm: "Eleonora là Do-thái mà nàng không muốn nói với ta!".

Chàng thấy bị nhạo báng, bị gạt trong tình yêu.

Ra khỏi thành phố, chàng ngừng xe, mở cửa ngó mong ra đầng, nghĩ thầm:

- Nàng không nói gì với ta hết. Mà ta cũng không hỏi gì nàng. Ai lại đi hỏi một chuyện kỳ vậy. Đàn ông nào lại đi hỏi người mình yêu thuộc về chủng tộc nào!

Chàng nhớ lại, đã nhiều lần nói chơi về tông chi nàng, nói nàng có thân tộc với hươu cheo, rong biển, sóc; mà mỗi lần như thế thì Eleonora rầu rầu nét mặt. Bây giờ chàng mới hiểu ra và thấy mình có lỗi.

"Chắc nàng nghi mình muốn gợi đến căn cội Do-thái của nàng. Nàng chắc đau khổ vô ngần!"

Traian đóng cửa xe, trở về thành phố. Chàng nghĩ đến bức họa người đàn bà của Picasso: "Tội nghiệp em Nora! Ta rất ân hận vì không biết trước được, để tránh cho nàng bao nhiêu điều đau khổ này!".

Traian ngừng xe trước hàng hoa, mua một bó hường trắng để tặng nàng. Cô bán hoa tươi cười gói hường đưa cho chàng.

Nora hỏi:

- Anh đang viết chuyện gì đó?

Traian đã khởi đầu viết một quyển tiểu thuyết mới. Eleonora nghe chàng thức dậy hồi bốn giờ sáng, lấy áo choàng mặc vào và ra khỏi phòng. Chàng ngồi bàn làm việc đến giờ điểm tâm mới ra dùng bữa với Nora. Từ khi đám cưới đến nay đã được hai tháng. Trên bàn lúc nào cũng có một bình cắm đầy hoa.

Nora nóng nảy hỏi:

- Anh không muốn thuật cho em nghe sao?

Traian cần tránh không muốn nói đến câu chuyện tiểu thuyết chàng đang viết. Mỗi lần Nora hỏi là chàng lãng đi. Nhưng nay không còn thối thác được nữa, chàng mới kể:

"Anh có đi du lịch trong tàu ngầm một lần, ở dưới nước một ngàn giờ. Trong tàu ngầm có máy ghi lúc nào phải thêm dưỡng khi. Trước kia không có máy này nên thủy thủ phải đem con thỏ bạch theo. Lúc khí trời trở nên độc, thỏ chết, và thủy thủ nhờ đó biết được rằng họ chỉ còn sống năm hay sáu giờ nữa thôi. Khi đó viên cai tàu phải quyết định: hoặc cố trồi lên mặt nước, hoặc ở luôn và cùng chết với tất cả nhân viên trong tàu. Thường thường để tránh thấy cảnh chết, họ lấy súng bắn lẫn nhau.

"Trong tàu ngầm anh ở không có thỏ, mà có máy. Viên cai tàu nhận thấy anh cảm biết thanh khí giảm bớt lần. Ông lại chế nhạo anh đa cảm. Song để chấm dứt, ông không dùng máy nữa, mà chỉ cần nhìn anh mà thôi. Anh đã chỉ cho ông ta rất đúng lúc nào thanh khí đủ hay thiếu, sự chính xác ấy luôn luôn đúng với máy ghi.

"Đó là một tính trời phú cho chúng tôi- mấy con thỏ và anh- được cảm biết trước thiên hạ, sáu giờ trước khi không khí trở nên ngộp thở. Đã một thời gian rồi, anh thấy có cảm giác như anh đã ở trong tàu ngầm: không khí đã trở nên khó thở".

Nora hỏi:

- Không khí nào?

- Không khí của xã hội hiện tại. Con người không còn chịu đựng được nữa. Chế độ quan liêu, quân đội, chánh phủ, tổ chức quốc gia, hành chánh, tất cả đều hiệp lực làm cho con người ngộp thở. Xã hội hiện tại dùng máy móc và các tên nô lệ kỹ thuật. Nó chỉ là một xã hội tạo lập cho chúng. Nhưng con người thì bị xử phạt chết ngạt mà họ không biết. Họ cố tưởng như bình thường, cũng như trước. Thủy thủ dưới tàu ngầm của anh cũng ráng chịu đựng trong không khí ngộp thở ấy. Sau khi thỏ chết, họ chỉ còn sống có sáu giờ nữa. Nhưng anh, thì anh đã biết rằng "thế là hết".

- Cốt chuyện của quyển tiểu thuyết anh là vậy phải không?

- Không, trong sách anh, anh tả cách chết trong cảnh giày xéo đau khổ của loài người trên quả địa cầu này, do bầu không khí ngột ngạt làm cho ta khó sinh tồn được. Anh không thể đem hết nhân loại làm ví dụ, anh chỉ lựa mười người mà anh biết rõ.

- Mấy nhân vật của anh đều chết hết sao?

- Sau khi loài thỏ chết, con người chỉ có thể sống được nhiều nhứt là sáu giờ. Tiểu thuyết của anh tả sáu giờ chót về cuộc đời mấy bạn thân anh.

- Hiện giờ anh viết đến đâu rồi?

- Chương thứ nhứt. Một người trong bọn chúng ta bị bắt đi xa, và...

- Chuyện gì đã xảy ra cho y?

- Hiện giờ thì họ lấy mất quyền tự do, vợ con, và nhà cửa của y. Y bị đánh đập đói khát. Họ đã khởi sự nhổ từng cái răng của y. Sau đó, họ sẽ móc mắt y, rút từng miếng thịt còn dính trong xương y. Và xương cốt y sẽ bị đập gãy. Phút cuối cùng đau đớn của y chắc chắn sẽ bị thi hành một cách tự động và bằng điện lực.

- Có thật thế chăng?

- Đều là sự thật. Trong sách anh có ghi rõ tên đường, tên thành phố, tên xứ sở của mấy nhân vật anh. Anh có cho biết cả đến số điện thoại của họ nữa. Vả lại, em cũng biết nhân vật thứ nhứt của anh rồi. Em có thể kiểm soát đúng thực những chuyện tường thuật.

-Vậy người thứ nhứt là ai?

- Iohan Moritz.

Mặt Nora xạm lại. Những gì ta viết về Moritz đều đúng sự thật. Nàng nói:

- Em rất thương hại cho y, vai tuồng chánh của chương đầu quyển tiểu thuyết anh đó! Còn nhân vật chánh chương thứ nhì là ai?

- Anh chưa biết. Có thể là ba anh, má anh, hay là anh hoặc em. Điều chắc chắn là một người trong chúng ta.

- Các chương kế có giống với chương của Moritz không? Có ai trong truyện anh viết được hưởng một cuộc đời tốt đẹp, một kết cuộc sung sướng không?

- Chẳng một ai! Sau khi thỏ chết, không ai sống sót mà vui sướng được. Chỉ còn sống có vài giờ, rồi tất cả đều bị tiêu diệt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét