|
Con gái thủy thần. Mnh họa của Lê Thiết Cương |
CON GÁI THỦY THẦN
Nguyễn Huy Thiệp
TRUYỆN THỨ NHẤT
"Cái tình chi
Mượn màu son phấn ra đi..."
(Lời hát cổ)
Chắc nhiều người còn nhớ trận bão mùa hè năm 1956.
Trận bão ấy, ở bãi Nổi trên sông Cái, sét đánh
cụt ngọn cây muỗm đại thụ. Không biết ai nói trông thấy có đôi giao long cuốn
chặt lấy nhau vẫy vùng làm đục cả một khúc sông. Tạnh mưa, dưới gốc cây muỗm,
có một đứa bé mới sinh đang nằm. Ðứa bé ấy là con thủy thần để lại.
Dân trong vùng gọi đứa bé ấy là Mẹ Cả. Ai nuôi
Mẹ Cả, tôi không biết, nghe phong thanh ông từ đền Tía đón về nuôi. Lại đồn
thím Mòng trên phố chợ đón về nuôi. Lại đồn các xơ trong nhà tu kín đón về, đặt
tên thánh cho Mẹ Cả là Gianna Ðoàn Thị Phượng.
Chuyện Mẹ Cả ám ảnh tôi suốt thời niên thiếu.
Một bận, mẹ tôi đi chợ Xuôi về, kể chuyện Mẹ Cả cứu hai cha con ông Hội bên
Ðoài Hạ. Ông Hội làm nhà, mang đứa con gái tám tuổi đi đào cát. Hố cát khoét
hàm ếch, sụt xuống, vùi lấp cả hai cha con. Mẹ Cả đang bơi trên sông, trông
thấy hóa phép thành con rái cá ra sức đào bới, cứu được hai người.
Một lần, ông Tư Chung đào giếng bảo đào được cái
trống đồng. Phòng văn hóa huyện về xin mang trống đi. Khi qua sông, tự dưng sấm
chớp đùng đùng, sóng to gió lớn cộn lên. Mẹ Cả bơi trên sông bảo: "Vứt
trống xuống đây". Thuyền chòng chành sắp ụp, mọi người đành vứt trống
xuống cho Mẹ Cả. Mẹ Cả ngồi trên mặt trống đánh thùng thùng. Thế là sấm tan mưa
tạnh. Mẹ Cả ôm trống lặn xuống đáy sông.
Chuyện Mẹ Cả lung tung lắm, nửa hư nửa thực.
Tuổi thơ của tôi u buồn và bề bộn việc, mà việc nào cũng vất vả cả, tôi cũng
chẳng có thì giờ để ý đến chuyện người dưng.
Nhà tôi làm ruộng, đào đá ong và làm thêm nghề
lột giang đan mũ. Làm ruộng chẳng nói, ai cũng biết rồi, chẳng dễ dàng gì. Mười
bốn tuổi, tôi là thợ cày chủ lực trong hợp tác xã. Bốn giờ sáng, ông đội trưởng
đội cày gọi cổng: "Chương ơi, hôm nay cày chân ruợng Gò mả ngụy nhé
!" Thế là tôi bổ dậy, ăn vội ăn vàng bát cơm nguội rồi đi. Trời còn tối,
chuột đồng chạy rào rào trong các vạt ngô ven bãi. Tôi nửa thức nửa ngủ, chân
nam đá chân chiêu, cứ nhằm phía quầng điện sáng thị xã mà đánh trâu đi. Chân
ruộng Gò mả ngụy ở đó. Ðây là chân ruộng xấu nhất cánh đồng, đất cằn bạc phếch
bạc phơ, thỉnh thoảng lại có đá ngầm. Tôi cày một mạch đến trưa, thấy đứng bóng
thì tháo trâu về. Mẹ tôi bảo: "Chương ơi, ông Nhiêu dặn đá ong nhà mình tháng
này thiếu tám chục viên, hôm trước bố con mới nộp hơn bốn chục viên". Tôi
vác thuổng đi lên đồi Sậy. Ðá ong đồi Sậy thường chỉ đào được sáu lớp thì hết
một vỉa, đến lớp đất thịt. Ðá ong chỉ đào được những hôm nắng. Hôm mưa thì bùn
nhão nhoét, đỏ cành cạch, đá bở. Thường một buổi chiều cật lực, tôi đào được
hai chục viên. Ông Nhiêu đi qua khen: "Có nghề lắm. Ngày xưa tao đào có
lần xắn mẹ phải ngón chân cái". Ông chìa bàn chân đi dép cao su cho tôi
nhìn thấy ngón chân bị cụt. Chân ông Nhiêu là chân giao chỉ, ngón cái không
thẳng mà tõe hẳn ra. Chân này chắc chẳng giày nào vừa được. Buổi tối, tôi ngồi
lột nan. Giang mua của cánh lái bè, về cạo ra, chặt bỏ mấu, pha nhỏ, cho vào
nồi luộc. Sau đó phải hấp diêm sinh, mang đi phơi khô, bó lại gác lên nóc nhà.
Khi làm thì ngâm vài ngày rôi lấy dao lột. Lột giang phải thật cẩn thận, lột
bằng thứ dao đặt ở thợ rèn, lưỡi mỏng dính, đứt tay như chơi. Khi lột lòng, cật
để riêng, sau đó tách thành từng sợi đều đặn thuê trẻ con đan. Mỗi cuộn là hai
chục mét, bán cho người có máy khâu may mũ. Mẹ tôi bảo: "Nghề này chẳng
giàu được đâu nhưng mà có việc quanh năm để trẻ con khỏi nghịch". Những
đứa em tôi bốn tuổi đã biết đan rồi, tay cứ hoay hoáy suốt ngày, đi đâu cũng có
bó nam cắp nách. Gà gáy canh ba tôi mới đi ngủ. Một ngày đầy ắp công việc. Giấc
ngủ kéo đến. Hình ảnh Mẹ Cả chen vào giấc ngủ ở một khe hở nào đó rất nhỏ,
không phải thường xuyên, tôi không chắc một năm đã được một lần.