Nhưng ảo tưởng đã chết. Tôi sẽ chết. Chúng ta đều chết. Có thực tế cũng vậy mà không thực tế cũng vậy. Đừng nhắc lại chuyện cũ...
Vẫn nhớ những câu đồng dao thuở nào: Những như ngọn gió / Lang thang chân trời / Em thì nông nổi / Tôi thì mê mải / Thôi đừng vấn vương / Thôi đừng nhớ tiếc / Tôi đi xa khơi / Em thì ở lại / Em thì lên trời / Tôi đã khóc đấy / Khóc một mình thôi / Ngày xưa sương mù / Không ai sống được / Như những ngọn gió / Nào thôi chia tay / Đời đen bạc lắm / Rượu thì cay đắng / Thôi thì thôi nhé / Tôi thì hoang vắng / Thôi thì hoang vắng / Đất trời hoang vắng / Xa trông một người / Cánh chim lưng trời / Rồi ra luân hồi / Nụ cười trên môi / Tôi đi qua rồi / Bóng câu cửa sổ / Em đi qua tôi / Thôi thế là thôi / Gấp trang sách lại / Nhẹ tay bạn cũ / Mặc ai khóc cười...
Nghe như câu hát trong ca khúc Cuối cùng cho một tình yêu
Chuyện tình kể trong đêm mưa (Conte d’amour un soir de pluie) xuất bản tại Pháp |
Nguyễn Huy Thiệp
Hồi ở Tây Bắc, tôi có quen một người Thái tên là
Bạc Kỳ Sinh. Tôi quen Bạc Kỳ Sinh trong dịp tình cờ. Sự việc như sau:
Hôm ấy, tôi đi chợ Mường La. Chợ Mường La họp
ngay bên đường phố núi. Chợ khá sầm uất, vàng giả thật lẫn lộn. Các cô gái
Thái, gái Xá ngồi bán đào, mận, mắccoọc... hái ra từ trong núi. Những sạp vải
hoa, phích nước, xoong nồi... buôn từ Trung Quốc sang bày bán la liệt. Những
người đàn ông, đàn bà H’mông dắt ngựa, gùi những gùi, sa nhân, đẳng sâm, ba
kích... gùi cả nhừng gùi nếp tan là thứ gạo nếp đặc sản có một không hai của
họ, mầu hồng hồng như nhuộm phẩm, rất thơm và dính.
Chợ Mường La họp từ sáng sớm, khi sương mù đang
còn dày đặc, người đi chợ như đi trong mơ, cách một sải tay chẳng nhìn thấy gì.
Sương mù ở rùng núi cao khác với sương mù ở vùng đồng bằng: nó dày dặc, nó như
màn sữa loãng, mênh mông bí ẩn, không hoang tưởng, không làm hại ai, nó là khí
núi tan ra rồi tụ lại; nó không phải hơi nước, hơi bụi và mưa nhỏ mà ta vẫn gọi
là sương ở dưới đồng bằng.
Khoảng gần trưa, khi sương tan đấy là khi chợ
náo nhiệt nhất. Người H’mông xúm xít quanh nồi thắng cố, uống rượu, thổi khèn
bè. Người Thái, người Xá cũng uống rượu, thổi khèn bè. Người La Hụ thổi khèn
lá. Các cô gái Thái, gái Xá, gái Dao đứng tụm lại hát đối, hát ghẹo, hát giao
duyên với các chàng trai. Có vài người nổi hứng bắn lên trời mấy loạt súng kíp,
đám đông xung quanh chạy dạt ra như ong vỡ tổ.
Tôi đi chợ cũng chẳng định mua bán gì. Cũng có
nhiều người đi chợ như tôi. Chợ miền núi là nơi gặp gỡ, giao tiếp, là lễ hội
nhỏ, là nơi đi chơi, nơi người ta thoát ra khỏi nếp sống thường tẻ nhạt. Tôi đi
dọc phố chợ, đi hết chợ rồi ngược trở lại. ở giữa chợ có một ông già người Hoa
đang ngồi xem bói. Trước mặt ông già có một cái đa đựng ba viên súc sắc. Người
xem bói đặt tiền rồi cho ba viên súc sắc vào một quả bầu khô lắc mạnh, sau đó
đổ ra đa gọi là "gieo quẻ". ông già căn cứ vào tổng số điểm trên ba
viên súc sắc để nói về định mệnh của họ. Người ta xuýt xoa, trầm trồ, sợ hãi.
Tất cả đều thành thực, tin tưởng. Có cái gì vừa như huyền bí, vừa như đe dọa,
lại vừa như lường gạt trắng trợn lơ lửng đâu đây ở trên đầu đám đông. Tôi thấy
vui vui, thấy hồi hộp lạ lùng và cũng định xen vào để thử vận hạn. Ngay khi ấy
có người níu lấy tay tôi. Tôi quay lại, thấy một gã người Thái mặc quần áo
chàm, đội mũ nồi, khuôn mặt thật thà, nói tiếng Kinh rất sõi lắc đầu:
- Đừng có tin! Lừa dối đấy! Mời ông xem cái này!
Gã giơ ra trước mặt tôi một vật đen đen ám khói
bếp, bẩn và hôi không tưởng tượng được, trông giống như một cái mề gà sấy khô:
Đây là mật gấu 100%. Tôi bắn được con gấu này ở
trong Xốp Cộp. Nặng 137 cân. Tôi để cho ông giá rẻ...
Tôi cười lắc đầu. Tôi đã biết người ta làm giả
mật gấu bằng mật lợn như thế nào. Tôi còn biết người ta đã dùng xilanh để rút
mật gấu thật ra rồi bơm vào đầy nước lã ra sao. Gã người Thái nài nỉ vài câu,
cuối cùng tỏ ra thất vọng. Gã giơ hai tay lên trời, phàn nàn vài câu bằng tiếng
Thái rồi bỏ đi Tôi quay lại chỗ cũ, nhận ra chiếc đồng hồ đeo tay đã biến mất
từ lúc nào. Tôi vừa tức giận vừa bực mình. Đấy là vì khi ấy tôi còn trẻ tuổi!
Cảm giác bị kẻ khác lường gạt, bị lỡm, bị hố, bị xỏ mũi chỉ vì mình cả tin thật
thà khiến tôi mất cả bình tĩnh. Với một giáo viên quèn, chiếc đồng hồ đeo tay
khi ấy với tôi là một gia tài, một của quý, một sĩ diện, dù chiếc đồng hồ ấy
luôn chạy sai giờ.
Tôi đi xuyên qua chợ, tìm gã bán mật gấu, tôi
định sẽ cho hắn bài học đích đáng. Bỗng tôi thấy một cô gái Thái dắt một con
ngựa tiến lại phía tôi.
Cô gái Thái trẻ trung, xinh đẹp, đôi mắt nông,
hoang vắng và tinh khôn có phần dạn dĩ. Đi sau cô gái có hai ông già tay ôm hai
con gà chọi.
Cô gái chào tôi:
- Hầy à... Thưa ông, em muốn nhờ ông giữ hộ con
ngựa một lát được không?
Tôi lúng túng, không biết trả lời ra sao thì cô
gái đã giúi cương ngựa vào trong tay tôi. Cô gái nói: ông đứng ở vệ đường này.
Chỉ một lát thôi là em quay lại...
Cô gái cười, nụ cười rất nhiều hứa hẹn rồi chạy
bỏ đi. Hai ông già đi theo cô gái ngồi thụp ngay xuống lòng đường rồi thả gà
ra. Lập tức, hai con gà xông vào đánh nhau túi bụi. Đám đông bu lại thành một
vòng tròn, lộn xộn, điên cuồng, phấn khích không tưởng tượng được.
Có tiếng la hét dẹp đường rồi một chiếc xe
"com măng ca" đi tới. Trên xe có mấy cảnh sát chở một người tù bị
khóa tay bằng còng số 8. Chiếc xe phải dừng lại vì bị đám chọi gà cản đường.
Mấy cảnh sát vừa bước xuống xe thì đám đông ồn cả lên, bao vây quanh họ, bụi
cát mù mịt tung trời. Một tổ ong vàng không biết ở đâu xuất hiện, vỡ tung ngay
trên đầu đám đông. Người ta hò nhau chạy, ngã dúi ngã dụi vào nhau. Tôi chưa
kịp định thần thì thấy cô gái Thái lúc này xuất hiện giằng lấy tay cương. Người
tù trên xe nhảy ào lên lưng con ngựa. Tôi chỉ thoáng thấy anh ta để tóc dài,
mặc bộ quần áo chàm xanh. Cô gái Thái nhảy lên theo và họ lập tức phi ngựa băng
qua các mẹt hàng, sạp hàng chạy về phía đường rừng Tạ Bú, tả ngạn sông Đà.
Tôi bị bắt giam vào đồn canh sát. Người ta coi
tôi là can phạm trong vụ cướp tù, cuối cùng không đủ chứng cớ quy tội nên
chuyển tôi làm nhân chứng. Tôi phải ký tên vào một tờ khai chữ nghĩa hết sức
rắc rối mập mờ. Tôi được biết người tù kia là một tên thổ phỉ, một kẻ sống
ngoài vòng cương tỏa xã hội. Hắn tên là Bạc Kỳ Sinh.
° ° °
Trường học miền núi nơl tôi ở nằm trên một qủa
đồi trọc gọi là đồi Thông mặc dầu trên ấy chẳ ng có một ngọn thông nào. Trên
một vạt đất bằng phăng người ta dựng lên ba dãy lớp học làm bằng gianh tre nứa
lá có phần nào giống một trại nuôi bò. Khu nhà giáo viên gần kề ngay đó lợp
ngói, vách trát "toocsi" nhưng khi mưa xuống dột còn nhiều hơn cả mái
nhà lợp gianh. Vốn thích độc lập, tôi tự mình dựng một ngôi nhà nhỏ cách biệt
hẳn ra, có hàng rào bao quanh cẩn thận. ở riêng một chỗ, tôi có cái thú của kẻ
tự do, nghĩa là tha hồ buông xuôi ở trong cảm giác cô đơn mà không để người
khác nhòm thấy, không làm lụy ai cả. ở ta, tự cô đơn là cách rẻ rúng nhất, vô
hại nhất để tạo ra ảo giác về tự do, một điều xét cho cùng cũng chẳng ra gì
nhưng thiết yếu để rèn luyện nhân cách cho tuổi trẻ vốn lắm mê say và dễ sa
ngã.
Mùa hè năm ấy, tôi phải ở lại trông nom, bảo vệ
trường học. Mưa lũ kéo dài từ đầu tháng 7 đến giữa tháng 9 khiến nơi tôi ở
không khác gì một ốc đảo. Số gạo dự trữ sắp hết. Tôi rất buồn rầu và thương
thân mình. Tôi có thể ốm rồi chết ở nơi khỉ ho cò gáy này vô ích. Tôi đã thấy
mộ những giáo viên vô danh chết như thế ở Mường Hum và Chiềng Cọ, cả ở trong
bản Chi cuối đường 19 nữa. Suy đi tính lại, tôi quyết dịnh vượt qua thung lũng
Chiềng Sạ vào bản Pò Mật tìm người giúp đỡ. Tôi mặc áo mưa, mang theo khẩu súng
săn đã han rỉ và bị hóc đạn bên mình, mang đi theo để cho oai chứ thực ra chẳng
có tác dụng gì cả. Tôi tìm đường đi xuống thung lũng.
Loay hoay hết buổi, tôi không làm sao vượt qua
được thung lũng ngập đầy nước. Tôi không dám liều mạng bởi tôi không thuộc địa
hình địa vật ở đây, nếu bị nước cuốn vào một khe hẻm coi như toi mạng. Tuyệt
vọng, tới gần tối tôi quay về nhà, ngạc nhiên thấy ở trong nhà mình có sáng ánh
đèn.
Trong nhà tôi, ở giữa nhà có một đống lửa mới
được nhen lên. Một người đàn ông Thái đang ngồi thản nhiên nướng thịt gà rừng.
Thấy tôi, y chẳng buồn nhìn mặt mà chỉ liếc xéo trông chừng khẩu súng săn của
tôi với vẻ đề phòng.
- Ông là chủ nhà à? - Y hỏi tôi sau khi tôi đã
treo súng lên tường.
Tôi chán nản gật đầu. Người đàn ông Thái nói:
- Chúng tôi sẽ ở đây ba ngày đợi lũ rút đi. Tôi
hơi ngạc nhiên vì y dùng chữ "chúng tôi".
Như vậy, chắc y không phải chỉ có một mình.
- Tôi không còn gì ăn cả. - Tôi thông báo trước
với khách như vậy, không tỏ ý thiện cảm chút nào.
- Tôi biết rồi, - người đàn ông Thái gật đầu với
tôi - trước khi ông về tôi đã lục lọi khắp trong nhà này. Cô Muôn đang đi lấy
gạo.
Tôi hơi phật ý vì thái độ tự nhiên của khách.
Chừng như nhận ra, y mỉm cười giới thiệu:
- Tên tôi là Bạc Kỳ Sinh.
Tôi hơi giật mình. Bạc Kỳ Sinh nói:
- Tôi đi với cô gái. Cô ấy là Muôn.
Đúng lúc ấy, cô gái Thái mà tôi đã gặp trước đây
ở chợ Mường La bước vào, vai đeo gùi, người ướt như chuột lột. Bạc Kỳ Sinh đứng
dậy đỡ lấy gùi gạo. Tôi không hiểu họ moi đâu ra gùi gạo trắng tinh ở giữa trời
mưa, ở giữa nơi mênh mông đầy nước ngập này.
Bạc Kỳ Sinh và cô gái nói chuyện với nhau bằng
tiếng Thái. Cô gái nhìn tôi mỉm cười:
- Em nhận ra ông rồi! Ông đã giúp em giữ ngựa ở
chợ Mường La.
Bạc Kỳ Sinh lấy gạo thổi cơm, còn cô gái lui vào
buồng trong thay áo. Tôi nghe thấy tiếng lục lọi đồ đạc rồi cô gái thò đầu ra
cửa hỏi tôi:
- Ông giáo! Ông cho em mượn cái áo của ông được
không?
Tôi nhìn Bạc Kỳ Sinh và thấy y có vẻ tán thành
nên nói:
- Được!
Tôi ở miền núi đã lâu, tôi biết đàn ông Thái
nhiều người có máu ghen tuông ghê gớm! Anh có thể chết như bỡn vì một nhát dao
nếu như vô tình ghẹo cô gái có chồng đã "tằng cẩu" tức là đã buộc
ngược tóc lên đỉnh đầu. Ở Yên Châu vài năm trước đây đã có một vụ như thế: có
một tay giáo viên người Kinh quê ở Hưng yên đã bị xẻo mất "của quý"
bằng con dao quắm to bản dùng để chẻ lạt, gã "pháo thủ" không bao giờ
còn ra trận được nữa, gã phải "hồi hưu" khi gã mới hai mươi tuổi. Tôi
không muốn như thế, năm ấy tôi mới hai mươi mốt tuổi đầu, chưa biết tí ti gì về
chuyện "phong hoa tuyết nguyệt".
Một lúc sau, cô gái ở trong buồng trong bước ra,
mặc chiếc áo "phông" sặc sỡ của tôi và chiếc váy mới. Trông cô rất
đẹp, vẻ đẹp vừa hoang vắng, vừa mê đắm lại vừa man rợ.
Chúng tôi ngồi ăn cơm và cùng trò chuyện với
nhau. Bạc Kỳ Sinh ít nói, đôi mắt của y lạnh lẽo, căng thẳng như mắt diều hâu,
thỉnh thoảng lại sáng rực lên như có tia chớp, tia lửa. Chỉ khi nào ánh mắt của
y gặp ánh mắt của Muôn nó mới dịu đi đôi chút, nó mới có vẻ như ánh mắt người.
Bạc Kỳ Sinh có nụ cười dè dặt, lúc nào cũng có vẻ như giễu cợt bản thân mình
hay giễu cợt ai. Chúng tôi ngồi nói chuyện về các sản vật ở vùng Tây Bắc, về
phong tục người Thái, về việc người Kinh lên đây làm ăn sinh sống. Bạc Kỳ Sinh
có vẻ không thích thú lắm với việc ngày càng có nhiều người Kinh lên Tây Bắc
"đi xa hơn nữa", "khai hóa văn minh", "thắp lên ánh
sáng văn hóa". Muôn thì khác, cô tỏ ý chê bai lối sống khép kín, quá gần
tự nhiên, thậm chí có phần tăm tối của dân miền núi. Qua câu chuyện, tôi thấy
hai người hiểu biết nhiều thứ, không hề ngơ ngẩn hoặc quá hẹp hòi như cách thức
mà dân thành thị chúng ta vẫn hình dung về "người dân tộc".
Cơm nước xong, Bạc Kỳ Sinh dựa lưng vào vách,
màt đăm đăm nhìn vào đống lửa bập bùng. Ngoài trời đêm mưa vẫn không ngớt. Bạc
Kỳ Sinh hát ê a một bài hát bằng tiếng Thái, lời lẽ rất ấn tượng. Có nhiều
đoạn, cô Muôn cùng hát với y. Tôi nghe loáng thoáng, cố gắng tìm cách sắp xếp
lại lời của bài hát này:
Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi...
Pò mệ sinh con từ hang núi.
Nơi ấy có nhiều gió, lạnh lắm
Đêm mưa, nhiều gió lạnh lắm
Tiếng hổ gầm, tiếng chó sói hú
Những con rắn con trăn tìm mồi
Bọn cáo chồn hôi hám rình mò
Con don, con dím nấp trong hang
Con mình trần thân trụi run rẩy
Gió lạnh lùa vào ngực con
Con nhen lửa, gió làm tắt lửa
Con sờ soạng trong bóng đêm
Và nhặt được một vật mềm, ướt át
Con sợ hãi, không biết vật gì
Nó phập phồng trong tay con
Ôi đau quá, đau nhói ở đây
Cái vật mềm, ướt át ấy
Là trái tim con rơi trên đất
Mặt đất ấy nhiều gió, lạnh lắm
Pò mệ ơi, ai thương con
Pò mệ ơi, ai thương pò mệ...
Tiếng hát của Bạc Kỳ Sinh rất lạ, đơn giản như
lời người nói. Tôi chưa thấy ai hát như thế bao giờ: người hát không lấy hơi,
không rán sức, khi nhấn lời hoặc ngân nga thì dịu dàng không sao kể xiết; ngậm
ngùi, tê tái mà không mủi lòng; tâm trạng cô đơn lạnh buốt lẫn lộn với những
khao khát nồng nàn. Tiếng hát sóng sánh, đặc như những giọt mật ong. Mỗi từ là
một giọt mật. Tôi nghe hát mà nước mắt cứ thế chảy ra ràn rụa, tự nhiên không
kìm lại được.
Bài hát chấm dứt. Tất cả lặng đi. Tiếng mưa rơi
và tiếng côn trùng bỗng nhiên ùa vào trong nhà riết róng nghe rõ mồn một. Không
ai nói năng gì cả. Tiếng hát vẫn còn như lơ lửng bay trong không gian, vướng
vào mái nhà, kèo nhà, vướng vào mái tóc, vướng vào đôi môi, cháy xèo xèo trên
ngọn lửa đỏ rực.
Bạc Kỳ Sinh hát xong, y cười một nụ cười nhợt
nhạt thất thần, hình như bao nhiêu sinh lực của y đã trút hết vào cho bài hát.
Một lúc sau như không chịu đựng nổi sự yên lặng, Muôn cũng ê a hát. Bài hát này
cũng xót xa tê tái chẳng kém gì bài hát của Bạc Kỳ Sinh:
Ing noọng ơi, ing noọng ơi
Nếu em xây nhà
Thì đó là ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng
Trong nhà có bếp lửa hồng
Trên bàn có cắm bông hoa đỏ và bông hoa trắng
Chăn đệm mới thơm tho
Bên cạnh em có anh
En muốn anh ở bên cạnh em
Đấy là ước mơ của em
Anh yêu ơi, bây giờ đi đâu rồi
Ma rùng bắt anh hay ngọn lửa nào gọi anh
Anh đi về hướng nào
Không có ai đợi anh ở đấy
Anh yêu ơi, về đây với em
Ta xây ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng
Anh yêu ơi, bây giờ đi đâu rồi
Người thương ơi, bây giờ đi đâu rồi?
Tôi lặng nghe Muôn hát, thấy giọt nước mắt lăn
trên gò má của cô. Bạc Kỳ Sinh có vẻ xúc động. Y đưa tay ôm lấy bả vai cô gái
kéo về phía mình. Khi Muôn hát xong, y nói một câu tiếng Thái rất nhanh, tôi
không nghe rõ nhưng đoán là một lời chửi rủa hay một lời thề độc. Muôn trừng
mắt nhìn y rồi ngồi xích ra có vẻ bất bình. Họ nói về một người nào đó có tên
là Ngân.
Đêm về khuya, mưa càng ngày càng nặng hạt. Mưa
thấm vào đất, vào vách nhà, vào lòng người... Chúng tôi ngồi yên như thế rất
lâu. Lát sau Bạc Kỳ Sinh lên tiếng trước. Y phàn nàn về những điều kiện sinh
sống khốn khổ ở nơi nào đó, chắc là ở quê hương y. Vùng Tây Bắc tôi đã đi
nhiều, điều kiện sống của con người ở đây thật khắc nghiệt. Dân nhiều nơi chỉ
đủ gạo ăn có ba tháng, còn chín tháng trong năm phải vào rừng đào củ mài. Săn
bắt và hái lượm vẫn là những hình thức kiếm sống phổ biến của nhiều tộc người ở
đây hệt như một ngàn năm trước. Nạn du canh du cư và triệt phá rừng làm cho
quang cảnh rừng núi ngày càng thêm tiêu điều. Tôi cố tình dò hỏi tông tích, gốc
gác của Bạc Kỳ Sinh. Y trả lời dè dặt, y nói chung chung:
- Tôi là đứa con hoang của rừng.
Y nói câu đó thì thầm như lời thú tội, có phần
nào chán chường nhưng vẫn ngấm ngầm một niềm kiêu hãnh đặc biệt. Tôi gợi lại
chuyện xảy ra bữa trước ở chợ Mường La thì y mỉm cười:
- Rắc rối cho ông ghê lắm phải không?
Y ngượng nghịu xoa tay vào nhau rồi nói tiếp:
- Tôi đã mang ơn ông.
Sau đó y chỉ vào Muôn:
- Nhờ có con nhím này!
Mãi về sau, do nhiều người kể lại tôi mới biết
rõ về câu chuyện xảy ra hôm ấy.
Đêm về khuya, tôi ngủ ở bên bếp lửa, nằm thao
thức nghe tiếng mưa rơi. Trong giấc mơ, tôi cứ chập. chờn về hình ảnh trái tim
mềm mại, ướt át, phập phồng rơi trên đất lạnh và ngôi nhà nhỏ có cửa sổ rộng.
Những hình ảnh ấy phải chăng là nỗi ám ảnh thân phận tình yêu đôi lứa của hai
người?
° ° °
Bạc Kỳ Sinh là hậu duệ của dòng họ Bạc đất Mường
Vài. Đây là một dòng họ quý tộc xa xưa, đồn rằng ông tổ là người Kinh đã từng
làm chức thượng thư, bỏ lên Tây Bắc vì chán thời thế. Đấy là vào khoảng thế kỷ
XVIII, thời vua Lê, chúa Trịnh, một thời nhiễu nhương trong lịch sử. ông tổ của
Bạc Kỳ Sinh lấy vợ người Thái, lập trang trại, sống nhờ vào việc buôn bán thuốc
phiện với người Lào và người Hoa. Đến đời Bạc Kỳ Sinh, thời thế thay đổi, chính
quyền mới đang tồn tại cùng chúng ta đây thành lập. Một đồn biên phòng đóng
ngay ở đất Mường Vài. Việc buôn bán thuốc phiện bị cấm. Những người lính biên
phòng thường xuyên xuống bản, giúp dân làm ăn, dạy học cho trẻ và giữ gìn trật
tự an ninh trong vùng. Đồn trưởng biên phòng là Lò Văn Ngân, người Thái ở Yên
Châu, một thiếu úy mẫn cán và sắt đá. Số phận éo le, giữa Lò Văn Ngân và Bạc Kỳ
Sinh có những mối quan hệ thật trớ trêu.
Một lần, vào dịp Tết cổ truyền, người ta tổ chức
một cuộc đua ngựa cho thanh niên trong vùng. Chặng đua khá nguy hiểm, phải vượt
qua nhiều suối và núi đá tai mèo. Có nhiều giải thưởng, giải nhất là một con
ngựa tuyệt đẹp. Muôn là cô gái xinh đẹp nhất đất Mường Vài sẽ trao dây cương
cho người thắng trận.
Mười bảy kỵ sĩ tham gia cuộc đua, trong đó có Lò
Văn Ngân và Bạc Kỳ Sinh. Hai người ganh đua từng phân một và họ bỏ xa các ky sĩ
khác. ở chặng cuối cùng, nguy hiểm nhất là phải băng qua vực đất sụt. Nghe nói
dưới đó có mạch nước ngầm từ xa xưa, mạch nước ngầm này còn lớn hơn cả con sông
Đà, nhiều chỗ mạch nước ngầm phun lên làm nơi đó biến thành bùn lầy vô cùng
nguy hiểm. Lò Văn Ngân là kỵ sĩ giỏi. Con ngựa anh cưỡi là con ngựa giống sông
Đông ở Nga. Hồi ấy loại ngựa này chỉ nhập vào Việt Nam có sáu con để phối
giống, được nuôi ở trại ngựa Bá Vân, Thái Nguyên theo tiêu chuân đặc biệt,
người ta tìm cách nhân nó lên để cung cấp cho lính biên phòng. Con ngựa này phi
rất nhanh, nếu đường sá tốt có thể phi tới 300 cây số một giờ, bước nhảy của nó
xa tới 4 mét. Nó cao gấp rưỡi con ngựa bình thường. Bạc Kỳ Sinh cưỡi con ngựa
của người miền núi Tây Bắc, chân thấp, tướng mạo xấu xí, trông giống một con la
già, chạy không nhanh nhưng dai sức, khi leo núi thì không khác gì sơn dương.
Loại ngựa này đặc biệt nhạy cảm với địa hình miền núi, nó ăn rất ít và chịu
được khát.
Khi qua đèo, con ngựa sông Đông của Ngân chạy
song song với con ngựa của Bạc Kỳ Sinh. Đường rất hẹp, hai con ngựa chèn nhau
khi vượt khúc quanh ở hem núi. Gió thổi mạnh, con ngựa sông Đông khỏe hơn nên
hất con ngựa của Bạc Kỳ Sinh xuống khe núi. Bạc Kỳ Sinh thoát chết nhờ vào sự
nhạy cảm thần kỳ của con tuấn mã. Con ngựa chụm bốn vó lăn tròn ở vạt dốc
nghiêng, không hiểu làm sao móc được một chân vào thân cây dâu da. Sau này Bạc
Kỳ Sinh kể lại: Lúc đó mạng sống thật là "ngàn cân treo sợi tóc". Con
ngựa hình như cũng biết điều đó, nó chỉ doãi cẳng chân ra là cả hai sẽ lao
xuống vực sâu 300 mét. Gió thổi, đá cào làm nó lột xước hết cả da. Nó run bắn
lên, mồ hôi túa ra đầm đìa. Mắt nó như muốn dò hỏi: "Tại sao? Tại sao lại
chết vô lý thế này?" Thế là nó vùng vẫy sức lực của nó như được nhân lên
gấp bội...
Loay hoay mãi, Bạ Kỳ Sinh móì gỡ được mình ra và
dìu được con ngựa từ trên cây xuống. Bạc Kỳ Sinh bị thương khá nặng: xương đùi
gãy, một chân bị trẹo khớp. Nhưng một kỵ sĩ miền núi thì chẳng bao giờ bỏ cuộc.
Y vẫn tiếp tục cuộc đua. Để đến đích, nếu theo con đường cũ dễ dàng thì thất
bại là chắc chắn: với hơn 20 cây số đường rừng như vậy thì người và ngựa sẽ
kiệt sức vì mất máu. Bạc Kỳ Sinh quyết định vượt qua núi đá tai mèo để về thung
lũng: đường ngắn hơn, chỉ có hơn hai cây số nhưng làm như thế nghĩa là
"leo núi" chứ không phải còn là "đua ngựa" nữa. Được cái
cuộc đua không hề quy định lộ trình bắt buộc. Từ xa xưa, dâ n miền núi đã quen
chỉ xác định hướng đi chứ không xác định sẽ đi như thế nào, con người phải tự
mò mẫm một mình và chỉ có linh cảm, trực giác mới giúp họ vượt qua tất cả.
Bạc Kỳ Sinh vượt qua vách núi tai mèo, nghĩa là
cầm chắc cái chết trong tay, hy vọng sống trong một phần nghìn. Không hiểu làm
thế nào mà Bạc Kỳ Sinh vượt qua được. Máu loang lổ bết đầy người và ngựa. Y đến
đích không khác gì một con ma rừng.
Cuộc đua kết thúc. Không ai trao giai thưởng cho
con ma rừng. Giải thưởng thuộc về Lò Văn Ngân và con ngựa giống sông Đông. Bạc
Kỳ Sinh chỉ được sự tán thưởng ngầm của ít người dân miền núi lầm lì nhất, họ
có cách đánh giá riêng cửa họ về các giá trị con người.
Bạc Kỳ Sinh dưỡng bệnh ở nhà ông Sùng là bố của
Muôn. ông là thầy thuốc biết chữa bệnh bằng nhiều thứ lá cây rừng. Tình yêu của
y với Muôn bắt đầu nảy nở trong những ngày đó. Nhưng Lò Văn Ngân, viên thiếu úy
đồn trưởng biên phòng cũng rất yêu Muôn.
Bạc Kỳ Sinh khỏi bệnh vào cuối mùa thu. Lúc ấy
rừng đang thay lá. Rặng cây sau nhà Muôn từ màu xanh chuyển sang màu đỏ như mận
và màu đỏ của máu. Hoa đinh lăng là thứ hoa đơn ở rừng có màu vàng như là hoa
tai vàng nở rất nhiều ở hàng rào đầy những dây tơ hồng cũng màu vàng như màu
nhẫn vàng. Bạc Kỳ Sinh ngồi bên cửa sổ. Muôn ngồi xe sợi ở ngoài chái nhà, cô ê
a hát bài hát mà cô ưa thích:
"Ing noọng ơi, ing noọng ơi
Nếu em xây nhà
Thì đó là ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng
Trong nhà có bếp lửa hồng"
Ông Sùng hỏi Bạc Kỳ Sinh:
- Này Sinh, mày có nghĩ rằng dân miền núi sẽ có
hạnh phúc hay không?
Bạc Kỳ Sinh cười:
- Khi còn mê muội...
Muôn hỏi:
- Vậy văn minh?
- Không tốt gì! - Một người đàn ông Thái vừa
bước lên cầu thang vừa nói. Đây là Lò Văn Cường, em trai ông Sùng, chú ruột của
Muôn. Ông ta gùi một gùi hàng nặng. Ông ta vẫn buôn thuốc phiện từ Tam giác vàng
qua đường Thượng Lào sang Tây Bắc.
Đêm hôm đó, Lò Văn Cường ngủ ở nhà anh trai
mình. ông bảo Bạc Kỳ Sinh:
- Cháu Sinh ạ, tao đã thấy mày đua ngựa với
người của chính phủ. Theo tao đi! Mày là ma rừng phải đi đường hẻm. Mày muốn
con Muôn thì hãy nghe tao! Mày hãy đi gùi hàng lên Hoàng Su Phì! Hãy nghĩ đến
tự do và tiền bạc rồi sau hãy nghĩ đến đàn bà. Con Muôn nó sẽ giết mày!
Nửa tháng sau, Lò Văn Cường bị bắn chết.
Những người lính biên phòng do Lò Văn Ngân chỉ
huy phục kích đã bắn chết ông ta khi mang thuốc phiện vượt qua biên giới. Lò
Văn Ngân được thăng chức trmg úy. Ngân cưõi con ngựa sông Đông đến chơi nhà
Muôn. Anh tặng Muôn đôi vòng tay bạc. Muôn hỏi:
- Nếu giết được một người thì được tăng một chức
à?
Ngân bảo:
- Điều ấy tùy vào người bị giết là ai.
Muôn nói:
- Ông ta là chú tôi.
Ngân bảo:
- Tôi không biết.
Khi Ngân đi xuống cầu thang thì con ngựa sông
Đông của anh đã bị cắt mất gân chân đang nằm gục bên hàng rào. Ngân chạy lên
cầu thang rút súng chĩa vào Bạc Kỳ Sinh:
- Mày giết ngựa! Mày có biết con ngựa ấy đáng
giá bằng mấy mày không?
Bạc Kỳ Sinh nói:
- Cần thì tao cắt gân mày chứ không cắt gân con
ngựa!
Bạc Kỳ Sinh bị bắt. Muôn than thở:
- Anh ta đang ốm.
Ngân nói:
- Con ngựa này mỗi ngày ăn hết 20 cân thóc, 6
lít sữa với 2 cân đường. Cả nước bây giờ chỉ còn hai con như thế!
Bạc Kỳ Sinh bị giam chín tháng trong tù. ở trong
tù, những người bạn của Lò Văn Cường chỉ cho y các mối hàng, cách đi rừng, cách
chơi gái sao cho không bị mang bệnh, cách trốn lính biên phòng, cách phân biệt
tiền giả thật, tiền bạt Thái Lan và tiền kíp Lào, rất nhiều thứ mà người ta
không biết phân biệt đấy là những kiến thức về tự do hay sự từng trải phóng
đãng.
Một tay ăn trộm người Dao tên là Triệu Phú Đại
rủ Bạc Kỳ Sinh vượt ngục. Đêm hôm ấy trời mưa to, hai người rỡ mái tôn chuồn
được ra ngoài luồn rừng chạy về phía rừng Thuận Châu trốn tránh.
ít ngày sau Bạc Kỳ Sinh tìm đường về đến nhà
Muôn. Triệu Phú Đại cằn nhằn:
- Chúng ta phải chuồn sang Thượng Lào ngay lập
tức. Loanh quanh ở đây rồi chết có ngày.
Bạc Kỳ Sinh nói:
- Mày biết gì về tình yêu?
Triệu Phú Đại thở dài:
- Đấy là thứ tình cảm không lương thiện.
Muôn chạy ra đón Bạc Kỳ Sinh, trên tay đeo đôi
vòng bạc của Ngân tặng cô.
Bạc Kỳ Sinh hỏi:
- Cô yêu nó à?
Muôn nói:
- Không biết! Em chỉ thích bộ quân phục.
Bạc Kỳ Sinh và Triệu Phú Đại ở nhà Muôn ba ngày.
Triệu Phú Đại bảo Bạc Kỳ Sinh:
- Mày lựa chọn đi. Hoặc đi Thượng Lào. Hoặc ở
đây rúc váy con Muôn để đợi thằng Ngân đến bắt. Năm giờ sáng, lính biên phòng
bao vây nhà Muôn. Triệu Phú Đại và Bạc Kỳ Sinh nấp trong buồng kín. Triệu Phú
Đại nói:
- Phen này chết là chắc. Tao không tiếc gì. Chỉ
tiếc mày mới hai mươi lăm tuổi.
Bạc Kỳ Sinh nói:
- Khi thằng Ngân bước lên cầu thang tao sẽ dí
dao vào cổ nó... Khi người ta đưa ngựa tới, mỗi thằng chạy về một phía... Bạc
Kỳ Sinh treo người ở trên chái nhà giống như con dơi. May cho y là 5 giờ sáng
thì trời vùng núi còn tối như mực. Lúc ấy trời lại đổ mưa to. Hai người chạy
thoát sang đất Thượng Lào.
Bạc Kỳ Sinh nói:
- Chắc cha con ông Sùng bị bắt mất.
Triệu Phú Đại cười:
- Có con Muôn thì chẳng sợ. Biết "mèo nào
cắn mỉu nào"!
Bạc Kỳ Sinh buôn bán dọc ngang ở vùng Thượng
Lào, nhiều khi sang cả Thái Lan. Y có tiền, có nhiều thứ nhưng trong lòng khôn
nguôi nhớ Muôn và nhớ quê hương. Thỉnh thoảng y tìm đường liều lĩnh về thăm đất
Mường Vài. Một lần về y bị bắt và xảy ra vụ trốn chạy ở chợ Mường La mà tôi
chứng kiến.
° ° °
Bạc Kỳ Sinh và Muôn trú ở nhà tôi sang ngày thứ
hai thì họ cãi lộn với nhau. Cả hai đều mất bình tĩnh. Tôi không hiểu lắm vì họ
nói bằng tiếng Thái rất nhanh, tôi chỉ lõm bõm biết một số từ. Tôi đoán hai
người đã không đồng ý về cách giải thoát tình trạng hiện thời. Muôn nài nỉ điều
gì đó nhưng Bạc Kỳ Sinh dứt khoát chối từ. Một lúc sau, Bạc Kỳ Sinh cũng nài nỉ
điều gì đó nhưng Muôn không chịu. Cuối cùng Bạc Kỳ Sinh đứng lên tru một tiếng
khủng khiếp như chó sói hú. Trông y rất đau đớn. Muôn ôm mặt chạy ra ngoài trời
mưa. Lúc ấy trời đâ khuya lắm. Bạc Kỳ Sinh chạy theo. Họ giằng co nhau một lúc
lâu rồi Muôn chạy về phía rừng. Bạc Kỳ Sinh quay vào nhà, y nằm vật ra ở bên
đống lửa.
Tôi ngồi lặng lẽ chứng kiến hai vị khách trọ.
Tôi mơ hồ thấy một nỗi thương cảm xót xa. Tại sao lại phải dày vò mình, phải
dày vò nhau như thế? Hồi ấy tôi còn trẻ tuổi, tôi chưa nếm trải vị ngọt cũng
như vị đắng tình yêu. ôi tình yêu! Sau này tôi mới biết đấy là thế nào! Bạn
trẻ, bạn hãy yêu đi! Nó sẽ làm cho bạn hóa rồ hóa dại, nó sẽ làm cho bạn tốt
lên hoặc xấu đi thì tôi cũng chẳng biết nữa nhưng tôi biết chắc chắn đó là một
điều tuyệt vời nhất trên đời, đó là thứ giá trị nhất trong mọi thứ giá trị mà
Thượng đế ban cho con người. Bạn trẻ! Bạn đừng tin những kẻ nói với bạn rằng
tình yêu là sai lầm! Không có tình yêu sai lầm... Đấy là những kẻ ghen tị với
tình yêu, những kẻ không có cơ hội để có tình yêu, vu khống, xúc xiểm tình
yêu...
Suốt đêm hôm ấy chúng tôi không thấy Muôn trở
lại. Bạc Kỳ Sinh ngồi bên bếp lửa như hóa đá. Tôi cố gợi chuyện y. Y thở dài:
- Cô ấy sẽ không trở lại... Đàn bà rất thích
những ngôi nhà có cửa sổ rộng để chuồn ra ngoài...
Trầm ngâm một lúc, y nói tiếp:
- Về bản chất, đàn bà đứng về phía trật tự...
Không có trật tự nào dung được tình yêu to lớn...
Tôi lấy củi chất thêm vào đống lửa. Mưa rất to.
Hai chúng tôi ngồi bên đống lửa đến tận sáng bạch. Bạc Kỳ Sinh đã kể cho tôi
nghe về tình yêu nồng cháy của y. Y nói về phụ nữ, về cuộc đời, về nhiều thứ
khác. Y nói:
- Không ai mang lại cho tôi nhiều hạnh phúc và
đau khổ như Muôn. Ông đã yêu bao giờ chưa? Tình yêu dạy cho ta bước đi của hổ,
của báo, cho ta sức mạnh của mãnh thú. Nó dạy cho ta sự giảo hoạt của cáo, của
rắn độc... Nó khiến ta nhân đạo hơn hoặc độc ác hơn... Những kẻ hèn hạ không có
tình yêu. Tôi dò hỏi Bạc Kỳ Sinh về Muôn. Y nói:
- Cô ta cũng giống như mọi người đàn bà khác.
Tôi quá điên rồ, quá nguy hiểm đối với cô ta. Trước sau gì cô ta cũng sẽ trèo
qua cửa sổ để về với một môi trường tầm thường hơn nhưng an toàn hơn. Cô ta
chết chậm hơn tôi. Nhưng thôi, tất cả những điều tôi nói không có ích gì, sau
này rồi ông sẽ hiểu...
Bạc Kỳ Sinh ở với tôi đến trưa hôm sau. Y dứt
khoát trả tôi tiền trọ. Món tiền khá lớn, bằng tổng số tiền lương giáo viên của
tôi trong nhiều tháng. Tôi và Bạc Kỳ Sinh chia tay nhau. Y nói rằng y sẽ đi
Thái Lan ngay hôm ấy. Cả hai không nghĩ rằng rồi sẽ gặp nhau. Tôi cũng không
ngờ hai mươi lăm năm sau, tôi đã gặp Bạc Kỳ Sinh trong một hoàn cảnh lạ lùng kỳ
dị.
Ít năm sau, tôi có dịp quay lại Mường La. Tôi
gặp Lò Vàn Ngân, bấy giờ đã lên chức thiếu tá. Ngôi nhà của Ngân ở ngay cổng
chợ Mường La, ngôi nhà thiết kế giống như những ngôi nhà khác ở thành phố, tầng
dưới để bán hàng hay để cho thuê văn phòng, tầng trên để ở. Ngân và Muôn lấy
nhau, họ có hai đứa con, cả hai đang học Đại học. Tôi gặp Ngân nhưng anh tiếp
chuyện tôi dè dặt, thậm chí có phần lạnh lùng. Chúng tôi không nói gì về chuyện
cũ.
Lựa dịp thuận tiện, tôi tìm cơ hội để gặp riêng
Muôn. Muôn còn rất đẹp. Cô mặc quần áo sang trọng theo lối dân thành phố. Tôi
gợi lại chuyện về Bạc Kỳ Sinh thì Muôn thất kinh, hốt hoảng nói:
- Bò hụ...! Ai nhá nhắc lại chuyển cẩu nưa...
(Không biết! Anh chớ nhắc lại chuyện cũ nữa).
Tôi quay lại chợ Mường La. Cũng không khác xưa
nhiều lắm: các cô gái Thái, gái Xá... ngồi bán đào, mận, mắccoọc... hái ra từ
trong núi, những người đàn ông, đàn bà người H’mông gùi những gùi sa nhân, đẳng
sâm, ba kích, nếp tan... ở góc chợ vẫn có ông già người Hoa ngồi xem bói. Không
có đám đông nào vây quanh ông già. Tôi đến gần ông già đặt tiền, gieo quẻ và
hỏi về số phận của Bạc Kỳ Sinh. Ông già đọc cho tôi nghe một bài thơ chữ Hán:
- Ngộ bất ngộ
Phùng bất phùng
Nguyệt trần hải để
Nhân tại mộng trung...
Tôi thở dài quay đi ngẫm nghĩ. Tôi tự hỏi mình:
- Này số phận! Những gì tạo nên số phận? Điều gì
giá trị? Điều gì vô giá trị? Điều gì trên đời này có ý nghĩa nhất cho một con
người?
° ° °
Tôi đã gặp Bạc Kỳ Sinh tình cờ khi tôi đến Mỹ
mấy năm trước đây. Hôm ấy ở New York, tôi đến một quán cà phê nơi vẫn tụ tập
khá nhiều nhà thơ và nghệ sĩ. Ở đấy có một người Việt Nam chơi đàn ghita rất
điệu nghệ. Người này hát những bài hát bằng tiếng Anh và tiếng Việt. Khi nghe
một bài hát tôi đã lặng đi không thể tin được. Đấy chính là một phần bài hát
tôi từng được nghe ngày nào:
Pò mệ ơi! Bố mẹ ơi...
Pò mệ sinh con từ hang núi.
Nơi ấy có nhiều gió, lạnh lắm
Đêm mưa, nhiều gió lạnh lắm
Ôi tụ do, tình yêu, quê hương
Những con đường chông gai, nhọc nhằn
Con mình trần thân trụi run rẩy
Và sờ soạng trong bóng đêm
Con nhặt được một vật mềm, ướt át
Con sợ hãi, không biết vật gì
Nó phập phồng trong tay con
Đau quá, đau nhói ở đây
Con ngửa mặt lên trời và hỏi:
Đâu tình yêu? Đâu tự do? Đâu quê hương...
Pò mệ ơi...
Pò mệ sinh con từ hang núi...
Người đánh đàn ghita và hát là Bạc Kỳ Sinh. Tối
hôm ấy, Bạc Kỳ Sinh đưa tôi về nhà. Đó là một ngôi nhà nhỏ với cửa sổ rộng trên
gác của một chung cư. Ngôi nhà khá đầy đủ tiện nghi. Bạc Kỳ Sinh thuê ngôi nhà
này ở đây và sống độc thân. Sau lần gặp tôi, y sang Thượng Lào, sang Thái Lan
rồi tới định cư ở Mỹ. Chúng tôi uống rượu suốt đêm. Bạc Kỳ Sinh hỏi tôi rất
nhiều về vùng Tây Bắc Việt Nam. Tôi hỏi Bạc Kỳ Sinh xem có cơ hội trở về Việt
Nam hay không. Y buồn bã lắc đầu, chỉ vào ngực mình:
- Tôi không biết. Tôi vẫn thường đau ở trong
ngực này...
Y cười, vẫn nụ cười như diễu cợt ai hay giễu cợt
mình.
Trên tường nhà Bạc Kỳ Sinh có treo ảnh Muôn.
Nước ảnh đã cũ, đã ố vàng nhưng Muôn trông rất đẹp. Tôi không nỡ nói với Bạc Kỳ
Sinh là ở Việt Nam, Muôn đang sống hạnh phúc. Bạc Kỳ Sinh ép tôi uống rượu
mạnh. Cả tôi và y đều say khướt. Tôi hỏi y thế nào là tình yêu. Bạc Kỳ Sinh
bảo:
- Tin tôi đi! Đấy là một hung thần...
Đêm hôm ấy ở New York trời mưa rất to, mưa như ở
vùng Tây Bắc Việt Nam, một thứ mưa nhiệt đới dai dẳng, tưởng như không dứt,
tưởng như không thôi, tưởng như không bao giờ hết được...
--------------------------------
Gặp như không gặp |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét