Mưa Nhã Nam - Xuất bản tại Thụy Điển |
MƯA NHÃ NAM
Nguyễn Huy Thiệp
Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa.
Tôi sẽ kể chuyện này cho anh, vì anh, anh bạn
bởi đến năm mươi tuổi anh sẽ thành ông lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho chị, vì chị, chị bạn ạ,
bởi đến bốn mươi tuổi chị sẽ trở thành bà lão.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cậu, cậu câm miệng, cậu
còn trẻ quá, cậu là thằng ngốc.
Tôi sẽ kể chuyện này cho cô, vì cô sẽ đi lấy
chồng. Lúc ấy chỉ toàn những nhọc nhằn thôi, không ai kể chuyện cho cô nghe cả.
Ở Nhã Nam, tháng Tư có mưa. Chuyện thế này... Một
câu chuyện nhỏ về Hoàng Hoa Thám.
Tôi không chắc ông Hoàng Hoa Thám, tức Đề Thám,
tức Hùm xám Yên Thế trong lịch sử có giống ông Đề Thám mà tôi kể không? Còn ông
Đề Thám như tôi biết (tôi biết rõ ông ta): Ông ta là một anh hùng, cũng là một
người nhu nhược.
Đấy là khoảng năm..., thời kỳ người Pháp giảng
hòa với Đề Thám. Vốn hay đùa nhả trong chính trị, người Pháp thỉnh thoảng có
mời Đề Thám về Hà Nội hoặc Bắc Giang chơi. Lần ấy, thống sứ Bắc Kỳ là ông Môren
thông qua công sứ Bắc Giang có mời Đề Thám đến Bắc Giang dự một buổi tiếp tân.
Cả Dinh dẫn người đưa thư đến gặp Đề Thám.
- Có nên đi không? - Đề Thám hỏi các thủ hạ của
mình.
- Đi chứ! - Những người già quả quyết.
Thế đấy, những người già! Với họ chẳng có việc
gì là đáng kể. Trước mặt họ là cái chết. Những cơ hội tốt nhất trong đời họ bỏ
lỡ cả rồi.
- Đi làm gì! - Cả Dinh, Cả Trọng, Cả Huỳnh cau
có trả lời.
Thế đấy, các bác Cả! Các bác Cả thường rất
khoảnh. Chúng ta thông cảm với họ, nếu chúng ta tự mình như họ, trần lực như
họ, không có ai để bàn bạc, không có ai đáng bàn bạc, họ phải tự gánh lấy trách
nhiệm của họ, nghĩa vụ của họ, giá trị của họ.
Thế còn bà? - Đề Thám hỏi bà Ba Cẩn. Bà Ba là
người phụ nữ đáng kể nhất trong cuộc đời Đề Thám. Bà là người phụ nữ duy nhất
có mặt nơi này, giữa những tên tuổi hào kiệt lừng danh của phong trào nông dân
Yên Thế.
- Ông nên làm điều có nghĩa - Bà Ba trả lời rồi
thở dài. Bà có tật như thế khi phải băn khoăn, lưỡng lự điều gì.
Đề Thám bảo mọi người lui ra để ông ngồi lại một
mình. Ông nghĩ. Những ý nghĩ của ông bắt đầu phiêu lãng. Thường ý nghĩ của ông
bắt đầu từ một vật gì đó cụ thể, tức thời đập vào mắt ông. Thí dụ từ bông hoa
hồng.
Này bông hoa hồng
Giá trị của mày là khoảnh khắc
Ai biết mày khi đang hết nụ?
Ai để ý mày khi mày úa tàn?
Ôi hoa hồng, hoa hồng
Phút giây này thật tuyệt vời
May cho kẻ tình nhân gặp mày lúc này
Môi hồng của thiếu nữ cũng thua mày
Hương trầm kia sánh sao được
vị thơm nơi nhụy hoa?
Và những cánh mỏng mịn mà kia,
khiến tất cả vật khác thành phàm tục
Hoa hồng! Ôi hoa hồng!
Ta tiếc cho kẻ vô tình quên bẵng mày
Và giật mình ghen tị với kẻ vô danh nhanh tay
Không biết ai hái mày hôm qua
Kẻ ấy cư xử ra sao với mày?
Hắn có chôn mày trong tim không?
Trái tim ấy có rộng lượng không
có đủ chỗ cho mày ngụ không?
Trái tim ấy có đủ máu không?
Ước không có giông bão lọt vào đấy
Rồi mày cũng nát tan thôi, em ạ, cô em ạ,
Hắn không đáng kể gì, hắn không biết cách
Chơi hoa nào đã mấy người biết hoa"...
Đề Thám không nghĩ như thế, dĩ nhiên rồi. Có
điều, hôm ấy trong đồn Phồn Xương ông đã cầm lên tay một bông hoa hồng. Ông
nghĩ về điều khác. Ông đặt mình vào vị trí của Môren, vào vị trí của những
người Pháp. Ông cho rằng buổi tiếp tân chẳng quan trọng gì và sự có mặt hay
không có mặt của ông đều chứa hiểm họa. Ông sẽ mang tiếng hèn nhát nếu ông từ
chối. Ông sẽ thành lố bịch nếu ông có mặt. Thế lố bịch hơn hay hèn nhát hơn? -
Đề Thám tự hỏi. - Thôi thì lố bịch còn hơn hèn nhát!
Tôi sẽ đi, đi một mình, đi ngựa... Sẽ ăn mặc như
một chàng rể...- Đề Thám vừa nói với bà Ba Cẩn vừa đội lên đầu chiếc khăn xếp
trứ danh thửa mãi tận phố Hàng Lọng Hà Nội, chiếc khăn quái đản: không thể dùng
làm mũ, cũng không thể dùng để lau mặt được.
- Ông muốn đi ngựa thì đi... nhưng đến Bắc Giang
tôi sẽ cho phu kiệu đón. - Bà Ba nói vậy rồi lại thở dài. Đề Thám bực mình: Ông
không thích người ta quan tâm nhiều quá đến mình. ông bảo:
- Đừng làm phiền tôi.
- Nhưng ông làm phiền mọi người. - Bà Ba bẻ lại.
Sự đời là thế. Bà Ba có lý của bà Ba, cũng như
bà Cả có lý của bà Cả vậy.
Đề Thám giật cương, thúc con ngựa ô ra khỏi cổng
đồn Phồn Xương. ông cho ngựa đi bước một, lang thang trong rừng. ông thích như
thế.
Đây là thiên nhiên: cành cây xòa trước mặt,
tiếng chim hót, những giọt nước mưa đọng lại trên cây, mùi lá mục ẩm ướt, những
con chim xanh, con chim đỏ, con chim vàng, những cánh mối ướt rụi, những con bọ
nhảy, tiếng vượn kêu não nùng, bông hoa bé xíu... Tất cả hương vị, màu sắc của
thiên nhiên đều chân thực, thanh khiết, đều khiến ta cảm động đến tận đáy sâu
tâm hồn.
Đề Thám đi miết. Có thể ông nghĩ gì đấy về tuổi
ấu thơ đắng cay tủi nhục, những ngày ông phải đi ở tận mãi Tiên Lữ, Hưng Yên.
Có thể ông nghĩ về Đề Nắm (Lương Văn Nắm), người đã trao quyền cho ông ở vùng
Yên Thế, Nhã Nam này. Có thể ông nghĩ về cái mà ta vẫn gọi là "trường
tranh đấu", sự sống hoặc cái chết.
Đề Thám đi xuyên qua rừng mỡ, rừng dẻ, rừng lim
và rừng nhội gai. Ông trông thấy một con phượng hoàng bay qua trước mặt. Ông
nói:
- Nếu ta nhìn thấy mày hai mươi năm trước thì
thích.
Đến giữa trưa thì Đề Thám rẽ vào nhà một người
quen ở gần Kế. Đây là nhà ông đồ Hoạt. Ông đồ Hoạt có nhà. Các ông đồ thường
chẳng đi đâu cả: các ông ở trong bổn phận mình, trong kiến thức của mình (thực
ra là của những con thú to hơn), trong thành kiến của mình, trong giá trị của
mình. Ông Đồ Hoạt là người hay chữ, hay thơ. Và như thế, nghĩa là ông chẳng
giàu có gì. Ở nhà ông đồ, Đề Thám được đón tiếp như người nhà. Thoắt cái, đã
thấy bà đồ Hoạt bưng lên một mâm lòng lợn, có cả một đĩa phèo nõn nà. Mùi mắm
tôm chanh, mùi rau húng thơm lừng. Bà đồ Hoạt cười bảo Đề Thám:
- Chị vẫn biết chú thích món này!
Ông đồ Hoạt nói:
- Bà gọi ông Lũy với thằng Hoạt ra đây cùng
ngồi.
Ông Lũy là ông hàng xóm, người nổi tiếng về tài
ăn trộm trâu bò của bọn hào lý trong vùng. Hoạt là con trai duy nhất của ông bà
đồ, bị khoèo tay, tính tình e thẹn.
Bữa rượu vui vẻ, thân mật. Mọi người đều ca thán
về nạn sưu thuế, thói nhũng lạm, thái độ mất dạy của bọn quan liêu.
Thời dại chó má!
Mọi người đều thấy đúng là thời đại chó má.
Họ dốc vào họng thứ rượu nấu bằng sắn, thứ rượu
mạnh đến nỗi có thể châm lửa đốt cháy được, để hòng làm dịu đi nỗi phiền muộn.
Đề Thám kể cho mọi người nghe chuyện bắt sống
chủ bút tờ báo "L'ávenir du Ton Kin" 1 mấy
năm trước, chuyện trung tá Péroz đến đồn Phồn Xương thương lượng để ký khế ước
ngừng chiến.
Đang câu chuyện, Đề Thám hỏi ông Lũy:
- Ông có đủ thịt ăn không?
- Nhờ giời, - tay trộm trả lời, - không phải lúc
nào cũng ăn thịt bò, nhưng thịt gà thịt vịt cũng ngon.
Đề Thám nói:
- Nếu ông ở chỗ tôi, tay Ba Biều sẽ nện cho ông
một trận rồi tống ông vào trại. Tôi không thích trộm cắp vặt vãnh.
Ông Lũy bảo:
- Tôi không đến chỗ ông vì thế, tôi biết tôi
chẳng ra gì vì vướng nợ đời. Tôi giành công bằng theo lối trâu bò gà vịt chứ
không phải theo lối con người. Chỉ xin ông đừng khinh tôi.
- Tôi không khinh ông, - Đề Thám nói, - nhưng
cũng chẳng trọng.
- Đa tạ ông. - Ông Lũy đứng dậy chắp tay vái. -
Ông và bác đồ cho tôi lỗi phép.
Ông Lũy đi ra. Mâm rượu còn lại ba người. Ông đồ
Hoạt nói:
- Anh Đề ạ, cái đầu anh thật kiêu hãnh, thật
đáng giá. Toàn quyền Đông Dương 2 thật hà tiện khi đặt giá đầu anh 30 ngàn
quan.
Đề Thám cười:
- Bác vẫn làm thơ đấy chứ?
- Vẫn làm... Thế mới đê tiện. - ông Hoạt đỏ mặt.
- Còn anh, anh cũng làm thơ theo lối của anh phải không?
Đề Thám nói:
- Không... Tôi không biết chữ.
Ông Đồ Hoạt lắc đầu:
- Mặc xác anh! Anh vẫn là một nhà thơ đáng kể
nhất! Ai bảo anh sống thế? Anh là một tên thi sĩ ma vương! Anh làm sao tránh
được danh hiệu đáng sợ ấy! Anh đã làm những điều mà bọn văn chương suốt đời
thèm muốn. Chúng không làm sao biến được ngọn bút của chúng thành ngọn giáo hay
cái câu liêm!
- Giáo hay câu liêm, thì tôi có thừa, - Đề Thám
nói, -nhưng tôi khát khao điều ấy.
Điều ấy, nào, bác Cả
bác biết là điều gì không?
Đâu là giá trị tinh thần, vật chất nơi bác?
Chúng ta chỉ vẻn vẹn có mạng sống này thôi
Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê
Những con đường chúng ta đi qua
Tất cả đều xám xịt lầm bụi
Mỗi cung đường, mỗi vận hạn
đều xám xịt, lầm bụi
Mà vầng trăng kia xa lắc
Vầng trăng kia lơ lửng trên đáu
Có đôi mắt nào mở to trong tim ta
Và mỗi cái chớp mắt đều khiến ta nhói lòng
Sẽ phải khởi nghĩa thôi
phải tranh đấu cùng số phận
Trăm năm trước cũng thế
trăm năm sau cung vậy
Ta phải dấn thân, phải đốt lửa
Ngọn cờ ta phất lên là giá trị cuộc đời
Bác Cả, cuộc chiến này thật khốn nạn
Bác có chối cũng chẳng được
Làm người chỉ có một lần
làm người thật khó...
Đề Thám hỏi:
- Thằng Hoạt bao giờ lấy vợ?
- Chắc nó ở vậy. - ông đồ thở dài. - Không hiểu
sao đàn bà chỉ thích những tên đàn ông nhăng nhít, dê cụ, khả ố, đểu cáng... Thằng
Hoạt nhà tôi lại đứng đắn quá.
Đề Thám cười:
- Tôi nhớ tôi đã ăn lễ dạm hỏi ở nhà này rồi.
Thằng Hoạt sẽ làm rể Chánh Trương cơ mà?
- Đúng vậy. - ông đồ gật đầu. - Tôi đã hỏi con
bé Xoan cho nó. Trầu cau đưa rồi, cuối năm nay cưới nhưng Chánh Trương lại muốn
chạy làng, định gả con Xoan cho lão nghị Trường. Lão ấy góa vợ, nhà giàu nứt đố
đổ vách.
- Tôi biết nghị Trường, - Đề Thám nói. - Thằng
già ấy lẩm cẩm lẫn lộn, khôn như cáo, nói chuyện với ai cũng chỉ gật đầu.
- Anh Đề! Anh hãy giúp đỡ chúng tôi. - ông đồ
năn nỉ. - Anh vốn hào hiệp... Anh đừng để con trai tôi xổng con bé ấy.
Đề Thám nhìn Hoạt. Cậu thanh niên e thẹn thở
dài. Ngoài cổng xôn xao, trông ra đã thấy Thống Luận, Bang Kinh và mấy phu kiệu
thập thò đứng đón. Bà Ba Cẩn không quên lời hứa. Đề Thám biết rằng bà Ba đã
đúng trong trường hợp này: Ông không thể vào dinh công sứ Bắc Giang như một
phần tử cực đoan lãng mạn, ông buộc phải tiền hô hậu ủng như một đại diện cho
nhiều người.
Đề Thám lên kiệu. ông bảo ông đồ:
- Tôi sẽ gắng làm hết sức.
Hoạt chào Đề Thám, đôi mắt chứa chan hy vọng.
Đề Thám nói với Bang Kinh:
- Mang con ngựa ô đi theo. Khi về tôi về bằ ng
ngựa.
Bảy giờ tối, Đề Thám đến dinh công sứ Bắc Giang.
Các quan chức và sĩ quan Pháp đi ra đón ông. Họ ngạc nhiên trước người anh hùng
nổi tiếng, người được coi là "đại diện cho tâm hồn An Nam" 3 trông y hệt một
tay địa chủ nông thôn họ vẫn thường gặp: cũng khăn xếp đen, áo lương, quần
trắng, đi giày Gia Định. Đề Thám khác người là ở thần thái, ở tinh thần tự chủ
cao, nhãn quan bao quát rộng, nếu có kể thêm thì đấy là sự buồn nản thất vọng
về phẩm cách con người nói chung thỉnh thoảng lộ ra ở khóe nhìn vô hồn nơi ông.
Đề Thám trông thấy đám quan chức người Việt đứng
tụm lại thật hèn hạ. ông nhận ra nghị Trường, Chánh Trương và cả Xoan, con gái
lão, người đã đính hôn với con trai ông đồ Hoạt. Tôi sẽ không kể gì về buổi
tiếp tân này. Theo sử sách ghi chép thì người Pháp ở giới thượng lưu thời ấy
đều nhẹ dạ, ngông cuồng, xa hoa; đa phần người Pháp "thực dân" còn
lại trong các guồng máy cai trị cồng kềnh, lại vừa ngu vừa ác. Bầu không khí
tinh thần của thời "thuộc địa nửa phong kiến" ấy đại để như sau: thói
ham tiền hám của trộn lẫn với lòng thèm khát khoái lạc vui chơi, chế độ nô lệ
tàn bạo bày ra trắng trợn ở các hầm mỏ, đồn điền; đám nha lại người Việt coi
thuế là nguồn thu chủ yếu để xây lợp mái nhà Tổ quốc, có chỗ xây lợp bằng đá
thật, có chỗ xây lợp bằng các tờ báo lá cải và chứng từ kế toán giả mạo,
"con rồng tre An Nam" tìm cách nhảy chồm lên trong tiếng tom chát ở
các ổ chứa và tiếng vỗ tay trong các hội đoàn, thỉnh thoảng lại giật mình co
lại bởi tiếng súng kíp hoặc súng hỏa mai tự chế ngoài biên giới... Việt Nam đầu
thế kỷ XX là một đất nước nghèo nàn, gần như mọi rợ...
Buổi tiếp tân không làm Đề Thám thú vị chút nào.
Lựa dịp thuận tiện, Đề Thám nói với Chánh Trương:
- Tôi muốn nói chuyệh với con gái ông.
Tôi không biết Đề Thám đã nói với Xoan những gì
hôm ấy, chỉ biết rằng cô rất bối rối xúc động.
Cô gái, lời nói nào làm cô bối rối xúc động ?
Những lưỡi dao cứa vào sĩ diện cô ư ?
- Không phải!
Những lời tán tỉnh rườm rà hoa mĩ ư?
- Cũng không phải nốt!
Ngôn ngữ trở nên ghê tởm,
nhớp nhúa trên miệng bọn tiểu nhân
Tôi biết một thứ ngôn ngữ giản dị như đất
Thứ ngôn ngữ mộc mạc, thẳng băng
Tựa như tiếng tù và
Như tiếng kèn đồng
Như tiếng chuông vọng...
Có một thứ ngôn ngữ thức tỉnh con người
Buộc họ soi vào lòng mình
như soi mặt xuống lòng hồ
Có thứ ngôn ngữ của người anh hùng,
của người chính trực
Nó làm ta bối rối xúc động
Ta không trón được
Thứ ngôn ngũ không hề phù phiếm
cũng chẳng tân kỳ
Thứ ngôn ngữ của giống nòi lruyền lại
Thứ ngôn ngữ của lương tri
không bao giờ mất...
Đề Thám ra về trước khi buổi tiệc kết thúc.
Không có bất trắc gì xảy ra cho ông và các thủ
hạ đi theo. Đề Thám chia tay với mọi người ở triền đê sông Thương, ông lên con
ngựa ô rồi theo con đường mòn rẽ vào rừng, ở đấy có lối đi tắt về Nhã Nam. Đề
Thám đến cửa rừng thì thấy Xoan đứng đó. Sự biến động trong tinh thần khiến
khuôn mặt vốn trắng hồng của cô gái tái nhợt hẳn đi.
Xoan nói:
- Em van ông... Ông hãy cho em đi theo. Đi đâu
cũng được...
- Cô phải về đi, - Để Thám nói. - Cô phải chọn
Hoạt.
- Không.. - Xoan nức nở.
Đề Thám đón Xoan lên con ngựa ô rồi thúc con
ngựa vào rừng. Đêm trong rừng mênh mông và hư ảo lắm. Tiếng côn trùng rỉ rắc.
Mùi hương rừng nồng nàn. Bóng tối sẫm đen trên các tán lá cây, sẫm đen nơi hốc
đá, sẫm đen cả trên mặt đất. Rừng vô tình, vô cảm, thản nhiên, lạnh lùng, tàn
nhẫn. Rừng muôn đời là thế. Thiên nhiên muôn đời là thế: vô tình, vô cảm, thản
nhiên, lạnh lùng, tàn nhẫn. Tất cả đều đẩy con người về nơi tận cùng ý thức cá
nhân chính nó. Con người tự co lại như con sâu, cái kiến, thúc thủ trong phần
sinh linh vừa bé mọn, vừa cô đơn, vừa bất lực; nó chớp đôi mắt phấp phỏng lo âu
trong tâm hồn nó và tự hỏi mình: là ai? đi đâu? thế nào? làm gì? tiến đến đâu?
bao giờ thành tựu? bao giờ kết thúc?
Đề Thám và Xoan đến chỗ có hai ngả rẽ một vào
căn cứ Hố Chuối và một về Kế thì mưa. Mưa tháng Tư là thứ mưa đầu mùa ở vùng
nhiệt đới. Nhoằng một ánh chớp, một làn gió thoảng qua là mưa liền, không sao
lường được. Bắt đầu tưởng là cơn mưa bóng mây không phải ngại gì, bỗng thoắt là
mưa đá, sấm rền, sét nổ. Mưa như roi quất, tàn bạo, hung hãn. Mây đen cuồn
cuộn, gió giật liên hồi rồi mưa như những thác nước trên cao đổ xuống ào ào.
Con ngựa không thể đi được vào trong hẻm núi. Đề Thám gầm lên một tiếng như lời
chửi rủa, cũng gần như lời than thở rồi thúc đầu gối vào ức phải con ngựa cho
nó chạy xuống cánh đồng, ngả rẽ về Kế. Một lúc sau, hai người đã ở trong nhà
ông đồ Hoạt.
- Ta đã biết mà, - ông đồ bảo Xoan. - Ta biết
con sẽ là một con người con dâu thảo hiền, tín nghĩa...
Bà đồ cuống cuồng giục Xoan đi thay áo quần kẻo
lạnh. Hoạt vung vẩy cánh tay khoèo, khuôn mặt tràn trề hạnh phúc.
- Anh Đề! - ông đồ nắm lấy vạt áo Đề Thám. - Anh
hãy ở lại đến mai hãy về...
Không! - Đề Thám lắc đầu. Những giọt nước mưa
mặn chát ướt đầm trên khuôn mặt ông. ông nhảy lên ngựa rồi phóng thẳng vào
trong màn mưa dày đặc, màn đêm dày đặc.
Mưa như thế, bắt đầu từ lâu rồi
Trên mặt đất, những con bọ cử bò lổm ngổm
Tôi không biết con người khát khao
điều gì trong cõi sống này.
Hình như điều thiện bắt đầu từ
tình yêu phải không?
Điều thiện buồn tẻ vì nó nhạt nhẽo
Điều thiện tầm thường vì nó an toàn
Điều thiện tệ hại vì nó giết đi đam mê
Anh có sợ điều thiện không?
Chị có sợ điều thiện không?
Và em nữa?
Em có bao giờ ghê tởm điều thiện
bằng như điều ác?
Rồi mưu cùng với thời gian
sẽ xóa đi thôi, xóa hết
Xóa tất cả, rửa đi tất cả
Người ta sẽ rửa chúng ta đi
như rửa xương khi bốc mộ
Trong đêm không có ánh mặt trời
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ
Tất cả xương người đều như thế.
Tất cả đều rời rạc, đen đúa, khô khan
Chúng ta bị rửa đi như rửa xương khi bốc mộ
Có cơn mưa nào.
Có đôi mắt nào nhòa ướt cho anh?
Đề Thám phóng ngựa vào rừng. Mưa quất vào mặt
ông bỏng rát. ông bỗng òa khóc. Ông òa khóc cho mình, cho người, cho tất cả
những hữu hạn của chính mình, của mỗi người. Đề Thám sụt sùi như một người
thường: một anh bán bánh đa mật ở chợ Kế, một viên công chức quèn, một chàng
thợ bạc vụng về, một ông giáo nghèo... Ông khóc như một người nhu nhược nhất
đời, một người suốt đời thỏa hiệp, không bao giờ dám bước qua lằn ranh bổn
phận, nghĩa vụ, cương tỏa. Ông khóc như chưa bao giờ là một anh hùng, một người
khởi nghĩa.
Đề Thám đi suốt đêm mưa trong rừng. Người ta kể
rằng sáng sớm hôm sau ông cầm đầu một toán quân đánh dồn binh Pháp ở Kép, tất
cả binh sĩ trong đồn đều bị gíết sạch. Từ đấy chấm dứt thời kỳ hòa hoãn giữa
ông và người Pháp.
Mấy năm trước tôi gặp bà cụ Xoan ở huyện lỵ Yên
Thế gần đồn Phồn Xương, nơi bây giờ trở thành một phố chợ sầm suất. Bà cụ giờ
84 tuổi , tóc bạc trắng, trông rất hiền lành. Tôi hỏi bà cụ về cuộc đời bà cụ
trải qua, bà cụ kể lể khống biết bao nhiêu những điều cơ cực nhọc nhằn xảy ra
trong cuộc đời mình: nào người chồng tính nết dở hơi thô bạo, nào đói kém, nào
con, nào cháu, nào tật bệnh, nào chiến tranh...
Tôi đứng trên quả đồi khô cằn toàn sỏi nơi bà cụ
phát hoang để xây dựng cơ nghiệp cho gia đình mình, trong lòng vô cùng cảm động
thương xót. Tôi hỏi điều gì đã làm bà cụ vượt qua được hết nhọc nhằn gian khó
trong bao nhiêu nẩm tháng ấy, bà cụ cười móm mém để lộ hai hàm lợi không còn
một cái răng nào rồi vạch áo cho tôi xem tấm ngực trần hom hem với đôi vú teo
tóp răn reo. Bà cụ nói:
- Ông ấy muốn thế... Tôi không phụ lời tôi
hứa... Ông ấy là nguồn an ủi suốt cuộc đời tôi...
- Ông ấy là ai hả cụ?
- Ông ấy kia kìa...
Bà cụ chỉ về bức tượng xi măng cốt thép đứng trên
đỉnh đồi ở gần di tích Phồn Xương.
- Ông ấy chẳng hề nói năng gì cả...
Tôi biết Đề Thám đã không hề nói năng gì cả từ
năm 1913, hơn 80 năm rồi...
Hôm tôi ở Nhã Nam trời cũng mưa, nhưng là cơn
mưa bóng mây, một thứ mưa xoàng.
Tôi kể chuyện này đến đây là hết.
--------------------------------
Tương lai xứ Bắc kỳ. |
|
Pôn Đume (Paul Doumer) |
|
Lời của nghị sĩ Metsimy ở nghị
viện Pháp ngày 18-11-1909. |
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét