Thứ Tư, 24 tháng 3, 2021

Chân dung những người bản địa

 Nhiếp ảnh gia đi 86 nước, chụp lại khuôn mặt người của những nền văn hóa đang dần biến mất

 

Phải mất nhiều năm đi du lịch, Alexander Khimushin mới nhận ra rằng không phải khám phá ra những địa điểm mới, hay cảnh đẹp là mục tiêu nhiếp ảnh của anh. Mà những con người đã để lại ấn tượng lớn; chính nó định hình nên phong cách nhiếp ảnh của anh.

Nhiếp ảnh gia người Nga Alexander Khimushin đã thu hút được sự chú ý trên toàn cầu; nhờ những tác phẩm nhiếp ảnh đầy cảm hứng của mình. Anh chụp lại khuôn mặt người của các dân tộc thuộc các nền văn hóa khác nhau trên thế giới.

 

Những chuyến khám phá đã định hình nên phong cách nhiếp ảnh của Alexander Khimushin

Khimushin quan tâm đặc biệt đối với các dân tộc bản địa ở Siberia. Nên anh đã không ngại ngần khám phá vùng khí hậu và địa hình khắc nghiệt trong nhiều năm. Nhiệm vụ anh đặt ra là chụp lại khuôn mặt; những dấu tích cuối cùng của nền văn hóa cổ đại.

Đi khắp thế giới trong 9 năm qua; Khimushin chụp ảnh những nền văn hóa đang dần biến mất ở 86 quốc gia khác nhau.

“Cuộc sống của tôi là những chuyến đi; hay theo lối nói thông thường là những chuyến lang thang. Vì tôi dành phần lớn thời gian trên đường” Khimushin nói với SBS Russian.

Phải mất nhiều năm đi du lịch, Alexander Khimushin mới nhận ra rằng không phải khám phá ra những địa điểm mới, hay cảnh đẹp là mục tiêu nhiếp ảnh của anh. Mà những con người đã để lại ấn tượng lớn; chính nó định hình nên phong cách nhiếp ảnh của anh.

Cậu bé bản địa Nenets tại một trong những khu định cư xa xôi nhất của Bán đảo Taymyr (phần Bắc Cực của Siberia).

Nhiều nền văn hóa cổ được khám phá qua những bức ảnh và ghi chép của nhiếp ảnh gia

Hơn 40 nhóm dân bản địa tồn tại giữa đông Siberia và đông Nga. Nhiếp ảnh gia đã có những cuộc gặp gỡ gần gũi với nhiều nền văn hóa bản địa khác nhau. Bao gồm cả người Dolgans, Nganasans ở Bắc Cực và 8 nhóm người Tungus-Manchu khác nhau.

Khimushin nói “Tôi rất ngạc nhiên, khi biết có nhiều nhóm văn hóa khác nhau sống ở Nga. Ví dụ: Tám nhóm người Tungus-Mãn Châu sống dọc theo sông Amur; đôi khi hay thậm chí chưa bao giờ được nghe nói về họ”.

Gần đây nhất là năm 2020; anh một mình đi khoảng 48.000km dọc theo dải đất Siberia; và lập hồ sơ người dân bản địa.

Khimushin chia sẻ một số bức ảnh hiếm của mình; một trong những nơi ít người biết đến nhất trên thế giới. Nơi anh đã đến thăm các bộ lạc, từ bờ biển Nhật Bản đến Hồ Baikal.

Các tác phẩm của Khimushin được trưng bày bên ngoài Trụ sở Liên hợp quốc ở New York.

Những bức ảnh đầu tiên trong dự án của anh có tựa đề “Thế giới trong khuôn mặt”. Nó đã được phát hành vào năm 2014; và được giới thiệu trong một cuộc triển lãm nhiếp ảnh quy mô lớn tại Liên Hợp Quốc vào năm 2019 ở New York.

Hiện tại, Khimushin đang chuẩn bị cho một cuộc triển lãm lớn hơn nữa tại Trụ sở UNESCO ở Paris. Nó dự kiến diễn ra từ tháng 7 đến tháng 8 năm 2021.


Toàn cầu hóa làm cho thế giới ít đi sự đa dạng

Anh chia sẻ “Mục tiêu nhiếp ảnh toàn cầu của tôi là nắm bắt mọi nền văn hóa, Tất nhiên, điều này là không thể; vì có tới 10.000 dân tộc khác nhau trên hành tinh. Phải mất rất nhiều thời gian để đến những góc xa xôi nhất. Nơi mà tính chân thực, văn hóa và lối sống truyền thống vẫn còn sống.”

Khimushin giải thích rằng thế giới trong suốt 70 năm qua; đã chuyển sang hướng toàn cầu hóa. Một sự thay đổi dẫn đến việc thế giới trở nên ít đa dạng hơn.

Anh nói: “Kết quả là nhiều nhóm dân tộc thiểu số đang tiến tới sự tuyệt chủng hoàn toàn. Tôi nghĩ điều rất quan trọng là không để chúng biến mất mà không để lại dấu vết.”

Là một người sinh ra và lớn lên ở Yakutia, một trong những vùng cô lập nhất của Siberia. Khimushin cho biết anh rất tiếc vì lớn lên không biết đất nước của mình; cũng như những người dân bản địa sống ở đó.

Nhưng sau khi chuyển đến khu rừng nhiệt đới phía bắc Queensland, Australia, 20 năm trước. Anh nói rằng chuyến đi đã mở mang tầm mắt; và cho anh một lối đi mà có lẽ là anh không bao giờ có thể nghĩ ra trước được.

Anh nói “Tôi đã phải di chuyển đến một nơi khác trên thế giới, đến thăm nhiều quốc gia; chỉ để nhận ra rằng khu vực của tôi và người dân, nó thú vị đến như thế nào”.Trong những bức ảnh của anh, có những người lớn tuổi đã qua đời. Nhưng nó sẽ mãi mãi lưu lại và nhắc nhở thế giới về những nền văn hóa đặc sắc của họ.

Một bức chân dung Dukha Elder Ulzii Sandag từ Thung lũng Darkhad, miền Bắc Mông Cổ.

Thứ Sáu, 19 tháng 3, 2021

Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi

 


Khổ câu thơ cứ đến rồi lại đi
    

Nguyễn Huy Thiệp

Đồng Đức Bốn xuất hiện trong làng thơ Việt Nam khoảng 10 năm nay, viết chừng 80 bài thơ, trong đó có tới trên dưới 15 bài thơ được khách sành văn chương xếp vào loại cực hay, tài tử vô địch! Còn lại, thực ra nhiều bài cũng chẳng ra gì.

     Dưới đây là bài thơ Vào chùa của anh in trong tập Trở về với mẹ ta thôi do Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản tháng 11 năm 2000.

Đang trưa ăn mày vào chùa
Sư ra cho một lá bùa rồi đi
Lá bùa chẳng biết làm gì
Ăn mày nhét túi lại đi ăn mày.


     Sao lại đang trưa mà không sáng sớm, không chiều tối? Chúng ta biết Đồng Đức Bốn in những bài thơ đầu tiên khi anh không còn trẻ nữa. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp từng đùa anh là một tên nửa quê nửa tỉnh cao tuổi (tựa tập thơ Chăn trâu đốt lửa Nhà xuất bản Lao động 1993). Vậy khoảng thời gian đang trưa mà gã ăn mày xuất hiện là gì?


Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!
Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày.


     Trong lịch sử, vua Khang Hy Trung Hoa đã từng sắm vai ăn mày. Chúa Chổm ở Việt Nam đã từng ăn chạc. Ăn mày ở đây không còn phải là một cá thể nào đó riêng biệt mà là một kẻ tha nhân đại diện của đại diện đang trôi dạt trong bể trầm luân. Khoảng thời gian đang trưa mà gã ăn mày ấy, kẻ tha nhân ấy lạc bước (hay cố ý) vào chùa, giống như một cử chỉ hướng thượng vào chốn cao minh (gặp gỡ tôn giáo) một liệu pháp tâm linh. Đấy là khoảng thời gian nào vậy của đời người?

Đời người có một gang tay
Ai hay ngủ ngày còn có nửa gang.

 

     Khoảng đang trưa là khoảng nửa gang tay già của một đời người! Đáng sợ thay!

Đấy là lúc người ta có thể kiểm nghiệm được khá nhiều điều tưởng bở và không tưởng bở:


Sống gần tới phút chia tay
Tỉnh ra mới thấy đời này rỗng không.


Chín xu đổi lấy một hào
Ai mua cái nắng lại vào cái mưa.


Chiều mưa phố Huế một mình
Biết đâu là chỗ ân tình đến chơi?


Tẽn tò con sáo sang sông
Bờ bên này tưởng cũng không có gì.
Tẽn tò con sáo bay đi
Lại bờ bên ấy có gì cũng không...


Cầm lòng bán cái vàng đi
Để mua những cái nhiều khi không vàng.


      Vậy khoảng thời gian gặp gỡ tôn giáo, phút đốn ngộ (sát-na) vẫn thường xảy ra phải là khi kẻ tha nhân đã Phú Xuân cũng trải, Đồng Nai cũng từng rồi! Chúng ta hãy hình dung một khách bộ hành mệt mỏi, bụi bặm, râu bạc (kìa râu bạc!), nỗi chán chường âm ỉ lặn sâu ở trong đôi mắt âm thầm. Y gõ cửa vào chùa:


Sư ra cho một lá bùa rồi đi

Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy...

 


Cua ngoi lên bờ mẹ em xuống cấy...
 Nguyễn Huy Thiệp


     Trong vài thế hệ người Việt Nam, không có ai không từng thuộc thơ Trần Đăng Khoa. Có lẽ Trần Đăng Khoa là nhà thơ gây được thiện cảm chân thành nhất và lương thiện nhất trong lòng người đọc. Mười tuổi Trần Đăng Khoa xứng danh là một ông lớn trên thi đàn. Hơn thế nữa, Trần Đăng Khoa là một thần đồng.

     Với thời gian, đọc lại thơ Trần Đăng Khoa, biết thêm về con người, về gia cảnh, về cách nhìn nhận của Khoa Lớn đối với thơ, với văn học, với nghiệp cầm bút (qua tập sách gần đây nhất, tập Chân dung và đối thoại Nhà xuất bản Thanh niên, Hà Nội, 1998) thấy nhiều điều hay.

    Nói về sự chất phác, người xưa từng coi đó là giá trị quý báu nhất của vạn vật, của đạo. Theo Lão Tử: Đạo thường vô danh, phác.

    Sự chất phác của một tâm hồn trẻ thơ trong trắng là yếu tố số một trong thơ Trần Đăng Khoa, trong sự tích Trần Đăng Khoa (sự tích chứ không phải hiện tượng văn học, chữ hiện tượng nay dùng đã quá dung tục). Những câu thơ đọc rơi nước mắt của Trần Đăng Khoa là những câu thơ chất phác thốt ra từ miệng thiên thần: Hạt gạo làng ta / Có bão tháng bảy / Có mưa tháng ba / Giọt mồ hôi sa / Những trưa tháng sáu / Nước như ai nấu / Chết cả cá cờ / Cua ngoi lên bờ / Mẹ em xuống cấy....

     Từ thơ Trần Đăng Khoa ngày nào đến Chân dung và đối thoại là một chặng đường, một chặng đời chắc chắn đắng cay. Người ta thấy chân dung Khoa Lớn được vẽ ra trong thời điểm này có phần kiêu bạc và đượm buồn. Đây là lời Trần Đăng Khoa tự kể: Y chẳng đam mê gì và nói chung, y là một gã... (sách đã dẫn trang 7). Vậy nhà thơ vấp phải đời phàm tục kể từ khi nào? Linh cảm của người mẹ Trần Đăng Khoa không nhầm. Người mẹ nông dân ấy biết rằng con mình rồi sẽ gặp rắc rối to, rồi sẽ dung tục và quăng quật, rồi hắn sẽ bị mổ xẻ (dĩ nhiên rồi). Đây là lời của người mẹ nông dân khi người ta (trường hợp này là Xuân Diệu) xem xét tâm hồn con trai mình: Bác ấy kiểm tra mày nói có đúng không? Khổ, có thế nào thì cứ nói như thế, đừng đặt điều thêm ra, lại mang tiếng là mình ăn ở không thật thà. Thấy bác ấy đến kiểm tra tao lo quá. Thế có làm sao không, hả con? (sách đã dẫn trang 30).

     Chân dung và đối thoại là một tập sách hay. Sự giận dữ với cõi nhân gian phàm tục được giấu đi dưới nụ cười nhợt nhạt đớn đau và kiềm chế của thi sĩ. Cũng có thể lấy câu thơ của Phạm Tiến Duật để làm đề từ cho cuốn sách này:

Cây cúc đắng quên lòng mình đang đắng
Trổ hoa vàng dọc suối để ong bay...
 

     Sự tích Trần Đăng Khoa là một vùng mẫn cảm trong văn học Việt Nam hiện đại. Sự yêu mến của người đọc với Trần Đăng Khoa đã ấn định vĩnh viễn trong tiềm thức không hề phôi pha của một vài thế hệ người Việt Nam rồi. Hiếm hoi mới có một thi sĩ làm được điều này. Với sự chất phác bẩm sinh (căn nguyên của đạo) dù thế nào, nhà thơ cũng quy ư phác (trở về với phác). Không phiền ai phải lo lắng cho Khoa Lớn nữa. Trần Đăng Khoa không cần phải được dặn dò như ngày xưa anh đã phải học người lớn dặn dò em gái Thuý Giang thân yêu của anh:

Đừng ra ao cá trước sân
Đuổi con bươm bướm trượt chân ngã nhào
Đừng đi bêu nắng nhức đầu
Đừng vầy nghịch đất, mắt đau, lấm người
Ốm đau là mất đi chơi...!.
 
 

(*) Bài đã in báo Tiền phong, ký bút danh.

 

Sao cứ đùa anh là thạch nhọn?

 


Sao cứ đùa anh là thạch nhọn?

 Nguyễn Huy Thiệp

     Một chiều mùa đông. Gió se lạnh. Mưa nhỏ. Một quán ăn ven sông. Phạm Tiến Duật, Tôn Gia Khiêm (con trai học giả Tôn Quang Phiệt) và một quan chức Bộ Giáo dục bước vào.


     Món thịt rùa bát bảo nấu rất cầu kỳ bưng lên ngon tuyệt. Rượu thơm lừng. Phạm Tiến Duật ngà ngà say, nửa nói, nửa cười đưa tay khỏa lên trong không khí: "Không có kính, không phải vì xe không có kính...!". Tất cả mọi người lặng đi. Tất cả như mê như man. Cô nhân viên phục vụ bưng khay đồ ăn luýnh quýnh vướng chân vào gấu váy ngã lăn quay dưới chân cầu thang. Cô gái không dám kêu to vì sợ phá vỡ không khí nghiêm trang. Phạm Tiến Duật đọc thơ, bài thơ khiến anh nổi tiếng một thời.


     Dưới đây là phần diễn nôm bài thơ Tương tiến tửu của Lý Bạch mà tôi đã đọc tặng Phạm Tiến Duật trong chiều mưa hôm ấy:


     " Kìa bác chẳng thấy nước sông Hoàng Hà từ nơi cao như ở trên trời đổ xuống, chảy ra đến bể thì không thể còn quay trở về được nữa. Và bác chẳng thấy trong tấm gương sáng trên nhà cao kia, buồn trông mớ tóc bạc, ấy nó chỉ sớm là tơ xanh mà chiều đã đổi thành tuyết trắng rồi. Đời người ta mỗi quãng đi mãi không thể lấy về, cho nên gặp lúc đắc ý nên uống rượu cho say, đừng để cho chén vàng phải gác suông dưới bóng nguyệt. Trời sinh người ta hữu tài tất hữu dụng, nghìn vàng trong tay tiêu đến hết rồi lại quay về. Vậy thì hãy cứ mổ dê giết trâu mà bày ra cuộc vui đi, rồi một lần uống nên uống ba trăm chén. Này hai anh Sầm Phu Tử và Đan Châu Sinh kia, đã uống rượu thì chớ có ngừng. Tôi vì các bác mà hát một bài, các bác hãy vì tôi nghiêng tai mà nghe! Trong bữa tiệc phải có chiêng trống để làm nhạc, trâu dê để làm cỗ, sự đó không quý gì. Chúng mình chỉ cốt uống rượu là còn để được tiếng về sau. Trần Tư Vương tức là Tào Thực con Tào Tháo ngày xưa bày tiệc ở Bình Lạc chủ khách uống rượu đến mười nghìn đấu thoả thuê hết sức. Vậy khổ chủ hôm nay đừng nên kêu là ít tiền, kíp đi mua rượu ngay để cho ta uống. Nếu không có tiền thì con ngựa năm hoa, áo cừu nghìn vàng kia là những vật còn dùng được cả, hãy sai người đem đi đánh đổi lấy rượu để ta cùng uống cho tiêu cái sầu của muôn đời!".

Thứ Năm, 18 tháng 3, 2021

QUAN ÂM CHỈ LỘ

 

 

Truyện Quan Âm Chỉ Lộ có nhiều đoạn văn nói về tư cách và lý tưởng của người cầm bút. Tác giả Nguyễn Huy Thiệp qua giọng nói của một chính trị gia, ông Lai, đã chất vấn vai trò và tư cách của người cầm bút.

.....

Không biết từ bao giờ, tôi đã được mớm cho cái ý nghĩ là nhà văn phải là người có lòng, phải là người tốt, phải trung thực. Có lẽ vì thế mà khi nhìn thấy người trong giới văn chương xảo trá tôi rất ngỡ ngàng. Cứ tưởng chỉ có dân chợ trời mới lật lọng nhưng té ra tôi chưa bao giờ bị lường gạt ở chợ trời. Chuyện không dính líu đến tiền bạc mà người ta còn dở trò gian dối thì thử tưởng tượng đến chuyện quan trọng có dính líu đến tiền bạc và quyền lực thì người ta sẽ xảo trá gian manh đến mức độ nào. (Nguyễn Thị Hải Hà)

 

QUAN ÂM CHỈ LỘ

                                                                                                                                                    Nguyễn Huy Thiệp


Minh họa của Nguyễn Đình Đăng

 

Ngôi trường vùng cao ở lưng chừng đồi, đơn sơ một ngôi nhà gianh vách đất, một nửa là lớp học, một nửa là chỗ ở của hai cô giáo Thu và Kiểm. Lớp học thường xuyên xê dịch có từ 7 đến 20 học sinh của năm dân tộc là Mông, Thái, Nhắng, Dao và Lô Lô.

Hai cô giáo Thu và Kiểm đều quê ở Tiền Hải Thái Bình, bố mẹ là dân chài vùng biển. Hai cô học hết cấp 2 phổ thông trung học thì đi học một lớp sư phạm nâng cao hai năm. Tốt nghiệp ra trường, Đoàn thanh niên có phong trào “thắp lửa ánh sáng vùng cao”, họ ghi tên tham gia và mười ngày sau họ có mặt ở ngôi trường này.

Ai lên Sa Pa, nếu đến nơi xa nhất thì phải đến bản Suối Thầu. Từ chợ Sa Pa đến đây tròn 70 cây số. Người Mông, người Dao giỏi đi bộ thì mỗi ngày đi được 20 cây. Thu và Kiểm vẫn thường xuyên đi lại trên tuyến đường này. Ngôi trường của họ ở nơi hẻo lánh nhất của vùng đất du lịch không thể nói là không phù hoa đó. Ôi Sa Pa, Sa Pa... Mảnh đất tình yêu! Mảnh đất giữ người!

Tết năm ngoái, tôi có dịp lên Sa Pa theo lời mời của gia đình một người bạn. Anh Lai, Vụ trưởng một Vụ, chuẩn bị đi làm đại sứ một nước ở châu Âu, quyết định không ăn Tết ở Thủ đô mà đưa cả nhà đi du lịch. Họ sẽ ăn Tết ở Sa Pa. Tôi được mời đi theo “tháp tùng”. Mấy năm gần đây, hội “tay to” ở Hà Nội có “mốt” không ăn Tết ở nhà mà đóng cửa đi dã ngoại để đổi không khí, cũng tránh cả việc người ta đến lễ lạt nhờ vả nhiêu khê... Tiền nhiều chẳng làm gì. Chất lượng cuộc sống trên hết. Sống vẻ vang, chết nhẹ nhàng... Những triết lý như thế gần đây tôi được nghe nhiều ở các quan chức và giới doanh nhân thành đạt. Cũng là một “mốt”...

Chị Hỷ, vợ anh Lai (xuất thân thợ dệt) tính rất chu đáo đã mua vé tàu hoả, thuê nhà, chuẩn bị thức ăn chu đáo cho 10 ngày nghỉ Tết, mọi người chẳng ai phải mó tay vào.

- Không thiếu thứ gì! – Chị Hỷ vui vẻ bảo tôi – Chú sẽ được ăn Tết như ở nhà mình.

Gia đình anh Lai có năm người: hai vợ chồng anh, cháu Quang đang du học ở Mỹ (đại học Duke) về nghỉ Tết, cháu Vân đang học lớp 12 trường Chu Văn An Hà Nội và Yên, cô "ô-sin" người vùng đạo gốc Bùi Chu.

- Chú là nhà văn danh tiếng nhưng nghèo – Anh Lai bảo tôi – Nghề của chú chẳng phải là nghề. Đó là nghiệp chướng. Đọc, đi, viết là ba công đoạn mà tay nhà văn nào không làm được thì đừng nói gì đến có tác phẩm. Không đọc, không đi thì viết thế nào? Nhưng không có tiền thì chịu. Chuyến đi Sa Pa này vợ chồng tôi “bao” hết, chỉ mong chú viết được cái gì hay hay đóng góp cho đời. Vợ chồng tôi chọn Sa Pa cũng là vì chú! Ngày xưa, Khổng Tử du ngoạn Thái Sơn có nói được câu chí lý: “Người nhân từ yêu núi, người có chí yêu nước”. Nhà văn phải là người nhân từ, phải là người nhân nghĩa, nhân văn...

Tôi nghe. Tôi đi cũng là vì nể anh Lai. Nhân từ gì tôi không biết, ngày trẻ tôi đã ở miền núi Tây Bắc 10 năm, miền núi tôi chẳng lạ gì. Nhưng thôi, một chuyến đi du lịch, một cái Tết xa nhà cũng tốt cho tôi: ở nhà toàn khuôn mặt cũ, những đứa con tôi đã lớn, chúng không cần tôi nữa, tôi và danh tiếng hão của tôi đã là gánh nặng cho cả gia đình...

Chúng tôi lên Sa Pa vào 25 Tết. Chị Hỷ thuê một biệt thự  riêng. Mọi người ai nấy đều như chim sổ lồng: anh Lai đi thăm vùng trồng hoa với bạn học cũ là phó chủ tịch thị xã, cháu Quang và cháu Vân đi Thác Bạc – Cổng Trời, cô "ô-sin" đi lễ nhà thờ rồi đi chợ, chị Hỷ ở nhà “giữ gôn”. Còn tôi, số phận run rủi, ma xui quỷ khiến thế nào mà tôi lại đến ngôi trường của hai cô giáo Thu và Kiểm.

Ở Sa Pa, có một cửa hàng bán đồ cổ nhỏ. Chủ ở đây nghe nói là một người Nhắng giàu có. Tôi rất thích vài thứ bày ở đây nhưng giá của nó khá đắt. Thấy tôi loay hoay mãi bên cửa hàng, một anh chàng lái xe ôm gạ tôi:

- Nếu ông thích mấy thứ này, tôi đưa ông vào bản Tả Van hay vào Bản Hồ, ở đấy có thể có người còn có nhiều thứ hay.

Tôi lưỡng lự. Anh ta nói thêm:

- Càng đi xa càng nhiều thứ quý.

Tôi hỏi:

- Ở Sa Pa, nơi xa nhất là đâu?

- Suối Thầu.

- Đi có khó không?

- Cũng không khó lắm.

Tôi xem đồng hồ, thấy còn sớm bèn quyết định đi chơi xa một chuyến. Anh lái xe bảo tôi:

- Chắc ông sẽ không thất vọng vì chuyến đi này.