Đỗ Phước Tiến- Đảo của dân ngụ cư
Nhà văn Đỗ Phước Tiến |
talawas
Đảo của dân ngụ cư
Truyện ngắn
Sau một thời gian dài lang thang khắp miền duyên hải, cái
đầu nhọn của tôi dài thượt ra, sạm đi, quắt queo như một trái đậu bắp khô. Cùng
một gã Triều Châu mắt lác, tôi săn lùng những cái đồng hồ cổ lỗ sĩ, gọng kính
cũ, vỏ đài bán dẫn, bình xăng máy đuôi tôm, bảng đèn hiệu của xác trực thăng.
Tóm lại, tôi kiếm sống bằng cách tìm mua những phế phẩm đã thổ tả đến lục phủ
ngũ tạng. Những chiếc móc sắt kềnh càng trong kho trạm khai thác nông sản chẳng
hạn, dây xích lòng thòng có thể gông trọn một chiếc máy cày. Doanh nghiệp giang
hồ gần năm năm không lúc nào trôi chảy một phần cũng tại cái xứ sở nhiệt đới đỏng
đảnh này, hết mưa rồi nắng. Khi đã mòn nhẵn tất cả các túi, chúng tôi mới sáng
mắt trước một trục trặc khó mà bù đắp nổi: cả hai đứa đều chậm chạp và kiết
xác. Rồi vận hội nữa, nếu ai đó tin rằng đi buôn lạc xoong cũng cần có vận hội.
Gã Triều Châu mảnh dẻ như một cọng rơm, tính khí thất thường
và keo cú khủng khiếp. Bùa hộ mạng của gã là một cái chuông lắc to đùng như cái
loa phóng thanh. Những vố thua đau đớn khiến hai đứa thường xuyên cay cú, hục hặc
và hắc ám như những lão phù thuỷ. Bạn đồng hành của tôi cứ cười sằng sặc suốt
ngày. Cái chuông dị hợm của gã rung thảm thiết khắp nơi, dội lên những thôn xóm
quạnh hiu trong gió chướng âm thanh sùng sục của đói khát. Khi gia sản đã tiêu
tán hoàn toàn, chúng tôi nằm liệt hai ngày cạnh một hầm cá tra, thở đến tọp người
đi và mơ màng một nồi canh chua với rất nhiều trái giác, một nồi canh khổng lồ.
Bụng hai đứa sôi lên vì mặc cảm bất tài, vì ân hận và vì những ám ảnh bất trắc.
Khi bình minh êm ái lướt qua những đọt rau đắng non, rau đồng tiền và rau kinh
giới, gã Triều Châu gượng dậy trước tiên. Cố vận dụng sức tàn, gã trình bày với
tôi về một lối thoát cho cả hai. Gã giảng giải rằng dù có ra sao, tôi với gã vẫn
cứ là những trang nam tử. Một nồi canh mơ mộng làm sao đủ nuôi được chí lớn? Rằng
cơn ác mộng tha hương này phải kết thúc thôi, ngay tại đây, cạnh cái hầm cá tra
này. Rằng vận hội của hai đứa sẽ không như những cơn mưa nhiệt đới, trời già chẳng
tuôn xuống bao giờ. Cần phải đi mà tìm, như đàn bà vậy, chộp lấy và nuốt chửng,
dù có ở trong túi người khác cũng mặc. Và còn một trăm cái rằng khác nữa, đặc sệt
mùi cá kèo khô với bánh dừa không nhân. Tôi nghe gã, mệt mỏi rã rời, và nhụt
chí nữa.
Rồi có một ngày xuân rất xanh, hai đứa chúng tôi chia tay nhau giữa cơn cùng quẫn.
Tôi đi lên phía Bắc, cố bứt thật xa những cánh đồng nước mặn với hoàng hôn tím
ngắt trong giấc mơ tha hương. Gã Triều Châu trở lại miền cực Nam, lo phần hậu sự.
Kế hoạch của chúng tôi mở đầu như vậy.
Nhà chệt Liếm rất dễ tìm bởi cổng gỗ sơn đỏ chói, hàng rào cây mắm có dây nhãn
lồng và những chùm trái giác tròn trĩnh cuốn quanh. Lúc tôi đến, quán ăn đã cũ
kỹ lắm rồi, tường vôi có mái lợp ngói âm dương đã hở móng. Khu nhà phía sau như
cái bẫy chuột, gác gỗ xấu xí, ống thông khói như cái bàn chải răng dựng đứng.
Toàn bộ cấu trúc u ám, mờ nhạt và rối rắm. Thị xã lúc nào cũng mịt mù bụi. Trên
những con phố chật chội, những quần thể kiến thiết đơn điệu như vậy còn lại rất
nhiều, âm thầm bạc thếch dưới nắng xuân.
Theo kế hoạch, tôi sẽ ở phụ việc trong nhà chệt Liếm khoảng hai năm, vừa đủ để
tỉnh hồn. Trong thời gian này tôi sẽ tập làm đủ thứ: nếm rượu, cuốn chả hấp lạp
xưởng, ướp kim tiền kê và muối những quả trứng bắc thảo. Có thời cơ sẽ nghiền
ngẫm món xào chua thập cẩm hay lẩu cá chẽm. Sành sỏi được món hầm nhừ sa tế thì
coi như bá chủ căn bếp. Xin nhớ cho: căn bếp của một thương nhân gốc Hạ Môn. Đó
chính là lối thoát mà tôi và gã Triều Châu đã thoả thuận.
Tôi là đứa tồi tàn, đúng vậy. Mấy mùa qua tôi đã vận động nhiều hơn một con bò
và dư sức hiểu rằng cần phải vận động nhiều hơn nữa nếu không muốn bẹp gí như một
con gián trong khi chen lấn với cuộc đời. Tôi cũng có quyền được ăn no ngủ yên
như người khác. Hơn nữa, tôi chẳng thích sống một mình chút nào.
Ngoài gia đình chệt Liếm, trong quán còn có một người khách Gia thanh lịch khắc
khổ, một người Ấn lai Việt đứng bếp và một người Khmer xuất phát từ miền châu
thổ sông Hậu. Tất cả đều lầm lì, rình rập lẫn nhau và bao giờ cũng chu tất phần
việc của mình.
Tôi rất thích ông Khmer, một người trầm lặng và hào hiệp, to xám như một con
chuột đồng. Tình bằng hữu của chúng tôi bắt đầu bằng cái bật lửa có nắp mở kêu
tanh tách của tôi, di vật cuối cùng của một thời lang thang. Ông Miên rất vừa
lòng mặc dù bọc cao su đựng thuốc gò của ông xếp cạnh cái bật lửa rất chướng mắt.
Trong lúc tôi chui vào một hốc tối, lặng lẽ ngốn những miếng sườn còn lại từ
hôm qua thì ông Miên, khăn rằn quấn quanh bụng, điềm nhiên quấn thuốc cạnh tấm
thép chắn lò. Ông phục vụ chệt Liếm đã lâu, có lẽ còn trước khi cái sinh mạng
hèn mọn của tôi xuất hiện dưới gầm trời này. Cách mổ bụng của ông hoàn toàn
theo kiểu cổ: từ dưới lên, hơi chếch qua trái một chút. Người Khmer không có
thói quen thay đổi chỗ ở cũng như phương thức kiếm sống, và đó cũng là đặc tính
chung của cây cỏ nhiệt đới.
Nhiệm vụ của ông Miên trong quán thật nặng nề. Mỗi tuần ngoài phần việc cố định,
ông còn phải hạ thịt từ hai đến ba con dê, có thể là bốn nếu vào những dịp vui
vẻ. Những con dê mới đến còn rất tơ, được vỗ béo kỹ càng, lông óng mướt như vừa
mới chui ra từ những nụ so đũa cuối đông. Chúng được phục đến say khướt bằng một
thứ rượu mía nồng nặc, bị đuổi chạy khắp thị xã với cái lon rỗng cột sau đuôi
cho đến mệt lử. Những con dê đó chết rất nhanh trước mũi dao thiện nghệ của ông
Miên, mình mẩy đẫm mồ hôi và đáy mắt mở to còn tràn ứ khoái cảm.
Quán mở cửa suốt ngày, nhưng chỉ khởi sắc muộn màng khi chiều xuống, lúc những
cơn lốc bụi đã dịu đi.
Người khách Gia cột ngang bụng một tấm vải hoa sặc sỡ. Ông phun nước lên sân gạch,
xếp thêm bàn ghế với phong thái đạo mạo cố hữu. Ông người Ấn nặng nề xoay trở
quanh những tấm thớt, tráng cái chảo hai quai trên bếp bằng động tác hờ hững
khinh bỉ. Ông Miên muối những tảng thịt dê còn bốc khói, còn tôi thì đánh vật với
cái máy xay gia vị cứ lồng lên sòng sọc. Khi đèn măng-xông được thắp lên, chệt
Liếm vui vẻ xuất hiện. Ông cười hào sảng giữa những thực khách, ly rượu pha
sôđa lấm tấm hơi nước trong tay. Ông quan sát từng dĩa thức ăn dồn dập mang ra
với đôi mắt tỉnh táo cân nhắc. Chệt Liếm cũng có phần việc riêng và ông không
bao giờ cho phép bất cứ ai trong chúng tôi làm thay. Treo những chiếc đèn lồng
trước cổng, rót rượu cho thần tài, thanh toán tiền với khách, đó là phần việc của
ông.
Hoàn tất phần việc của mình sớm nhất là ông người Ấn. Trong lúc chúng tôi cọ rửa,
thu dọn thì ông ta lui vào một góc riêng, lầm rầm những bài kinh dài lê thê trước
dĩa đèn dầu. Cái xác phàm chảy xệ của ông rũ xuống trong lúc trò chuyện cùng đấng
tiên tri.
Đắp xong một chục lò mạt cưa, tôi tìm cách trèo lên gác với chị Chu. Ở trên đó,
chị Chu luôn phải ngồi một mình và chờ đợi từ ngày này qua ngày khác với những
con gà nhựa có thể gáy được mỗi khi lên dây cót. Chệt Liếm cấm tất cả mọi người
lên gác, trừ xiếm Hoa. Tôi ra vào bằng mái thông gió và bồn chồn căng thẳng mỗi
khi ở gần chị. Tôi biết, không phải một mình tôi đến với chị. Có một buổi sáng
chệt Liếm từ trên gác bước xuống. Ông đi thẳng một mạch ra sàn nước, nơi ông
Khmer đang cặm cụi rửa những bình đất đựng rượu huyết dê. Chệt Liếm đến gần, mắt
dán chặt vào gáy ông Miên. Hai người gằm gằm nhìn nhau. Sau đó chệt Liếm rút
trong túi ra cái bật lửa có nắp mở kêu tanh tách, ngắm nghía nó một lát rồi đặt
trên nắp lu nước, sát người ông Miên. Rồi ông lẳng lặng bỏ đi.
Chị Chu kể với tôi rằng, chị đã ngồi trong cái hộp gỗ của mình từ lâu lắm rồi,
từ khi biết ngồi, và sẽ còn phải ngồi cho tới bao giờ cả căn gác tan đi, tan
vào thinh không theo khói mạt cưa hàng ngày dưới quán xông lên. Tôi không tin.
Tôi ăn những mẩu bánh nướng chị để dành từ bữa trưa cho chị yên lòng rằng tôi
là một đứa con nít, chẳng làm hại được ai. Tôi nắn bóp những bắp thịt mỏi nhừ của
chị vì ngồi lâu, nghe chị kể lại những đêm rằm vàng ngập ánh trăng, chị ngồi chờ
áng mây vẩy cá phiêu bồng qua hiên gác. Chị bảo tôi ngồi im, lắng nghe tiếng thời
gian gõ lốc cốc trên những mái ngói âm dương, len lỏi qua những hẻm phố tối tăm
lồi lõm. Cái thế giới bạo động liên tục phía dưới, và chệt Liếm nữa, hoàn toàn
không dính dáng gì đến chị. Một tay và một chân chị chỉ còn da với xương do chứng
liệt cơ bẩm sinh.
Chệt Liếm đối xử với chúng tôi rất tốt và chưa bao giờ tôi nghi ngờ lòng nhân hậu
của ông chủ. Ông xứng đáng là một người đàn ông Trung Hoa, nỗi ô nhục do chị
Chu gây ra ông đã biết từ lâu mà vẫn âm thầm chịu đựng với một nghị lực phi thường.
Ông điều khiển cơ đồ của mình chính xác đến từng cái nút chai. Những miếng sườn
tôi ăn trộm thật ra đã thiu rồi, cho nên đối với chệt Liếm chúng không còn mang
ý nghĩa vật chất nữa. Ông sẵn sàng khen ngợi không tiếc lời một bó rau cần vàng
úa hay giỏ nấm mèo nhăn nhúm thảm hại chỉ vì chủ của chúng đã mang đến cho ông
từ những thôn ấp khô cằn xa xôi. Tóm lại, chệt Liếm có đầy đủ phẩm chất của một
thương gia trung bình, và chỉ có vậy thôi. Thời trai trẻ ông đã không biết tìm,
bằng mưu lược của mình, một điểm tựa có sức đàn hồi để vọt đi xa hơn. Còn tôi,
tôi đang tìm cách bổ sung thiếu sót của ông: chị Chu là một trong những mục
tiêu của tôi, với gã Triều Châu nữa, tất nhiên.
Tôi dành ngày càng nhiều thời gian cho chị Chu, và tâm lực nữa. Những lúc chị
tuyệt vọng nhất chính là lúc tôi cảm thấy tự tin nhất. Tôi rất ghét nước mắt,
nước mắt và sự im lặng. Những giọt nước mắt của chị Chu lăn suốt đêm chưa tới cằm.
Nó khiến tôi nhớ đến cái thân phận khốn nạn của mình. Tôi ôm chị Chu vào lòng
và bắt chước gã Triều Châu, tôi giảng giải cho chị nghe rằng mây vẩy cá chỉ là
một đám hơi nước lẩn thẩn và ngu ngốc. Thời gian và gió tha hồ rỉa rói tấm thân
mỏng mảnh bạc nhược của nó. Mà thời gian là gì, tiếng lốc cốc là do chiếc trống
dây tự va đập vào nó trong lúc cùng người nhuộm đồ rong lang thang tìm kiếm một
miếng ăn vô định. Thời gian là sự vận động hết sức nhảm nhí của cảm giác, rất bấp
bênh bởi vì nó không hề có định mức. Chẳng phải chị hay tôi, hay bất cứ một người
nào khác, chúng mình như những chiếc máy cày chỉ làm mỗi một việc là lê lết mỏi
mòn qua cánh đồng thời gian, và khát vọng hiện hữu có hơn gì một cái móc sắt
han rỉ? Ngồi một chỗ như chị hay suốt đời di động như tôi thì có gì khác nhau.
Bao giờ còn chưa quên vị trí xuất phát của mình, thì tôi với chị vẫn chưa bước
nổi một bước, dù chỉ một bước, trong cuộc đời.
Tấn tuồng của tôi với chị Chu kéo dài hơn nửa năm. Sau đó tôi không thể tiếp tục
vì không còn đủ sức. Trong lúc soạn thảo kế hoạch với gã Triều Châu, tôi đã
không lường trước tình huống này. Trong lúc ôm ấp thân thể trần trụi của chị
Chu, tự đáy lòng tôi đã thành khẩn tin rằng mình đang làm một điều thiện, hết sức
chân thiện. Giống như những thứ thổ tả tôi săn lùng ngày trước, dù đã tồi tàn,
đôi khi chúng vẫn mang giá trị vật chất vượt ra ngoài những ước lệ của quy chế
trao đổi. Chị Chu cũng vậy, lúc vùi đầu vào bộ ngực mềm ấm của chị, tôi cay đắng
nhận ra rằng vang sâu trong cái sinh vật dị dạng đang rệu rã kia là những cơn
bùng nổ liên tục của khát vọng làm người, của những đam mê hết sức chân thành,
trong trắng. Linh hồn của mỗi người, nếu quả có nó, thật ra không ăn nhập gì với
các xác phàm mà nó ẩn náu cả. Cho nên tự do tâm linh dễ dàng trở thành một thứ
nhu cầu đồi truỵ bởi thói tắc trách vô liêm sỉ của nó. Tôi cố gắng lèo lái những
cuộc ái ân với chị Chu mềm mại hơn so với trí tưởng tượng thô thiển của mình.
Tôi luôn bị ám ảnh bởi nỗi hờn ghen trẻ con rằng trên cái giường của chị Chu,
trước tôi đã có những trận luyến ái bão táp kinh hồn. Và tôi chỉ là một thứ
hình nộm để lấp đầy khoảng trống giữa hai cơn bão. Với những cơ bắp rắn chắc và
lì lợm, ông Miên dồn ép quần quật chị Chu bằng những động tác quyết liệt và chi
li, giống như đang đối xử với những con dê tử tội vậy. Biết làm sao được, có thể
đó cũng là một dạng phân tâm bệnh lý. Trong tay tôi, chị Chu cũng ngất đi rất
nhanh, mình đẫm mồ hôi và lớp lông tơ trên ngực chị đỏ rực khoái cảm.
“Cảnh nóng” đầy nghệ thuật là điểm nhấn cho bộ phim chuyển thể từ tác phẩm.
Dù rất yêu chị Chu và luôn luôn tâm niệm với mưu đồ dựng nghiệp, tôi vẫn không
sao quen được với lối sống đơn điệu và tệ hại của mình trong nhà chệt Liếm. Thời
gian qua, cùng chui rúc trong cái hộp gỗ lưu cữu mùi củ cải muối với chị Chu,
tôi đã hiểu ra được nhiều điều. Nhiều khi bắt chước chệt Liếm, tôi cố đánh tan
những dự cảm đen tối bằng cách nốc thật nhiều rượu vào. Những ly rượu cay xé lưỡi
dĩ nhiên cũng là của ăn trộm. Và càng uống nhiều, tôi càng tin tưởng rằng mình
đã khôn ra thật. Mặc cảm về sự hèn mọn của mình là động lực thúc đẩy con người
vượt lên trên, nhưng đồng thời cũng vì nó mà con người đã tự vùi dập không
thương tiếc chính cuộc đời mình.
Rồi một ngày, một ngày mà xuân cũng rất xanh, tôi từ bến đò trở về, ì ạch kéo
theo một xe đầy mạt cưa. Cơn lốc tháng ba lồng lộn qua những hẻm phố, nhét đầy
miệng tôi những hạt cát vừa khô vừa mặn. Cổng gỗ trước quán mở toang, sân gạch
vắng ngắt. Dưới hiên, ông già người Ấn ngồi thờ thẫn ngắm những con ruồi đang
phơi nắng, dĩa đèn đặt bên cạnh. Phía sau, lơ lửng trên cái bẫy chuột có tiếng
đàn bà khóc rấm rứt. Tôi đi vào, ê ẩm choáng váng vì những dự cảm chẳng lành,
vì mệt và nắng. Nhà sau cũng vắng vẻ. Tiếng khóc nỉ non trên gác. Lạy trời, lẽ
nào những dự cảm đen tối của tôi đã thành sự thật? Tôi không tin. Nhưng rõ ràng
đêm qua tôi đã chứng kiến cuộc đụng độ giữa chệt Liếm với ông Miên ngay dưới
chân thang gác. Chệt Liếm là một người đàn ông phi thường, tôi tin chắc như vậy.
Thấy có bóng người nhốn nháo trên gác, tôi phóng lên.
Trên cái giường mà tôi với chị Chu vẫn lét lút với nhau hằng đêm, giờ cũng có
hai người. Chỗ của tôi, cũng là chỗ của ông Miên, được thay bằng xiếm Hoa. Chị
Chu nằm ngửa, cằm trễ xuống, mắt trợn trừng trông thật kinh khủng. Xiếm Hoa
cong người như một con tép sắt, nức nở trên người chị. Trên cái bàn thấp kê sát
đầu giường, bữa ăn đang dở dang, cơm văng tung toé, một chiếc đũa gãy cắm trên
chiếu. Tiếng khóc không thoát ra từ đôi vai rung rẩy của xiếm Hoa mà dội trừ
trên mái ngói đầy bồ hóng xuống.
Người khách Gia đứng dưới mái thông gió, cần cổ duỗi ra chống đỡ cái đầu đang gục
xuống vì xúc cảm. Ông Miên tựa vào tường cạnh cái bàn thấp, bộ mặt lầm lì của
ông phồng lên, đỏ lửng. Chệt Liếm ngồi cứng đơ trong chiếc ghế duy nhất có trên
gác, mặt nhợt nhạt, những con gà nhựa lăn lóc dưới chân ông. Không có khói mạt
cưa, nhưng căn gác như sắp tan ra thật, tan ra vì những ánh mắt thù địch, vì
hơi thở căm giận ngấm ngầm của những đàn ông, dồn dập và sôi sục.
Tôi ngồi bệt xuống dưới sàn gác. Tiếng trống dây của người nhuộm đồ rong lảng vảng
đâu đây, rồi bất ngờ nổi lên ầm ầm như tiếng trống trận trong đầu tôi. Rất mơ hồ,
tôi thấy ông Miên nâng tô canh trong mâm cơm lên, múc ít nước canh đổ vào lòng
bàn tay, chà xát rồi ngửi. Điệu bộ của ông lúc đó rất giống dáng dấp băn khoăn
của con chuột đồng trước miếng mồi đã bị đánh bã. Ông đăm đăm nhìn ra hiên gác,
nơi những thanh gỗ mỏng lắp chéo nhau tạo nên một góc trang trí mờ tối. Có lẽ
đó là nơi hẹn hò của chị Chu với đám mây vẩy cá hoang tưởng. Rất lâu, tôi cảm
nhận sự vận động chậm rãi ấy bởi hàng trăm tiếng lốc cốc đều đặn xuyên qua đầu
mình, tôi thấy ông Miên bưng tô canh đến gần cái ghế duy nhất trên gác. Rất
bình tĩnh, ông chụp tô canh lên đầu chệt Liếm, nhẹ nhàng và từ tốn. Lá cải trôi
từ đầu chệt Liếm xuống chân mày, xuống gò má, xuống cằm rồi rơi nhanh xuống
đùi. Chệt Liếm vẫn ngồi cứng đờ, hai tay bóp chặt thành ghế. Sắc vàng đùng đục
của nước canh loang chầm chậm trên mặt ông. Phủi tay với vẻ hả hê, ông Miên chệnh
choạng đi xuống. Rồi ông đi mãi không bao giờ trở lại nữa.
Vài ngày sau đám tang chị Chu, đến lượt ông người Ấn ra đi. Ngày xuân chưa kịp
tàn, những con ruồi trơ tráo sau khi tắm nắng thoả thuê đã nhảy vào dĩa đèn của
ông, vùng vẫy rồi chết luôn trong đó. Ông người Ấn rũ người đi khi chứng kiến đức
tin tận tuỵ của mình đã bị đấng tiên tri phỉ báng. Ông bỏ đi không nói với ai một
lời, chẳng buồn thanh toán số tiền dầu lâu nay chệt Liếm vẫn cung cấp cho ông.
Ông khách Gia rồi cũng ra đi, chệt Liếm không thể giữ ông ở lại. Ông đã già yếu
đến mức không còn giữ được phong thái đạo mạo cố hữu nữa. Liên minh của chệt Liếm
đã tan rã. Trong liên minh hỗn hợp của ông, những phần hồn tha hồ lang thang
trong khi mỗi phần xác chỉ biết chu tất phần việc của riêng mình. Nhưng sai lầm
vẫn có thể cứu vãn nếu chệt Liếm không để cho khái niệm cân bằng tồn tại trong
căn quán của ông. Vậy mà ông vẫn để, và hành động vũ lực chỉ khiến mọi thứ
nhanh chóng sụp đổ. Bởi vì cái sườn gia phong của ông có khác nào bức tường đã
hở móng.
Cuối cùng người ta cũng tống cổ tôi ra khỏi cánh cổng gỗ sơn đỏ sau khi đã giải
quyết xong những mẩu xương dê còn lại. Nằm bên vệ đường, trong lúc chờ đợi một
thời kỳ cùng quẫn nữa lại đến, tôi nghiền ngẫm đủ điều. Tôi không tiếc những
tháng năm đã mất trong cái bẫy chuột của chệt Liếm. Làm sao tôi có thể san sẻ với
họ, những người tồn tại phía sau hàng rào dây nhãn lồng kia, một cuộc sống lâu
bền được. Tôi nghĩ đến gã Triều Châu. Trong cuộc chia tay ngày ấy, giữa tôi với
gã nào biết ai đã may mắn hơn ai. Là người Trung Hoa nên gã hiểu người Trung
Hoa hơn tôi. Gã hiểu chệt Liếm nên thay vì dấn thân vào, gã đẩy tôi phiêu lưu
trong cái bẫy chuột của ông. Cứ để gã ôm ấp căn quán tương lai trong giấc mơ êm
đềm ở miền cực Nam, tôi sẽ tìm cho mình một con đường khác. Tôi không phải là đứa
phụ bạc, với cặp mắt lác gã có thể cùng lúc nhìn thấy hai phía của cuộc đời.
Còn tôi, sẽ không bao giờ, suốt cuộc đời còn lại, không bao giờ tôi còn có được
hạnh phúc nữa, không bao giờ.
Nguồn: Công bố lần đầu
tháng 10. 1992 trên tạp chí Văn học và Dư luận, sau đăng lại trên
những Văn Nghệ, Tuổi Trẻ, tạp chí Đất Quảng,
trong nhiều tuyển tập văn học và dịch ra một số thứ tiếng. Bản đăng trên
talawas với sự đồng ý của tác giả.
Truyện ngắn được chuyển thể thành phim Đảo của khu dân cư. Đạo diễn Hồng Ánh, biên kịch Nguyễn Quang Lập.
Phim https://youtu.be/-vwuxWMtkX8?si=9g5SNBTkpI0sfOp3
Cùng một tác giả
· Dòng sông đòi nợ, truyện ngắn
Xanh
như hồn phách, truyện ngắn
Đồng
khô nước ròng, truyện ngắn
Đỗ Phước
Tiến sinh ngày 14.10.1965
tại Đà Lạt. Nguyên quán Đà Nẵng (quê ngoại Cần Thơ). Sống chủ yếu từ nhỏ tới lớn
ở Sài Gòn và các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. Trình độ văn hóa cấp 3. Làm rất
nhiều nghề (xếp theo thứ tự thời gian): bán hàng rong, bồi bàn, làm ruộng, lái
đò, chế biến nước đường trong hãng kem, buôn bán ve chai, phụ bếp trong quán nhậu,
kéo xe bò, thợ nề, thợ gò hàn, làm thịt gà vịt cho nhà hàng, thợ chụp ảnh và 10
năm nay là phóng viên của báo Đà Nẵng (báo của Đảng bộ ĐCSVN thành phố Đà Nẵng).
Mới tự thôi việc cách đây 4 tháng, hiện chưa có nghề mới. Hiện sống ở Đà Nẵng với
vợ, cũng làm nghề viết báo, con gái 12 tuổi và con trai 5 tuổi.
Tác phẩm Chưa xuất bản tập truyện riêng. Từ 1992 mới công bố 6 truyện
ngắn trên báo, tạp chí và một số tuyển tập. Truyện ngắn “Đảo của dân ngụ cư” đã
được dịch sang tiếng Pháp (“Terre des éphémères”, bản dịch của Phan Huy Đường)
trong tuyển tập cùng tên Terre
des éphémères, Philippe Picquier, Paris 1994 và tiếng Anh (“The Way Station”, bản
dịch của Phan Huy Đường và Nina McPherson) trong tuyển tập Night, Again, edited by Linh Dinh, 7
Stories Press, New York 1996 và chuyển thể sang kịch bản điện ảnh (của Nguyễn
Quang Lập, chưa dựng phim).
----
Đảo của dân ngụ cư là một phim điện ảnh chính kịch tâm lý tình cảm Việt Nam năm 2017 do Hồng Ánh đạo diễn và Nguyễn Quang Lập viết kịch bản, chuyển thể từ truyện ngắn ở trên của nhà văn Đỗ Phước Tiến.
Phim đã nhận được nhiều ý kiến trái chiều từ giới phê bình điện ảnh, đề cao diễn xuất của các diễn viên, phong cách đạo diễn cũng như tông nền của bộ phim, nhưng đồng thời cũng chỉ trích lối mòn trong việc lựa chọn nội dung của Hồng Ánh.
Trí thức trẻ đã gọi bộ phim là một "cuốn phim về những bí bách của cả một xã hội thu nhỏ trong một căn nhà", là "Bí bách, uẩn ức và lệ thuộc chính là những tính từ để miêu tả cuộc sống của những con người trên hòn đảo của dân ngụ cư, như những chú dê chờ đến ngày bị cắt cổ."
Thanh niên Online thì viết rằng phim "thu hút người xem bằng những khuôn hình đầy ám ảnh, lúc thì dữ dội bạo liệt, khi thì trầm lắng miên man," và gọi "'cảnh nóng' đầy nghệ thuật là điểm nhấn cho bộ phim."
Tuổi trẻ Online lại cho rằng Đảo của dân ngụ cư là một tác phẩm điện ảnh quá nặng đối với một sản phẩm đầu tay, kéo theo nhiều chi tiết thừa thãi: "Đảo của dân ngụ cư có cốt liệu rất dày, chính vì vậy, kịch bản của Nguyễn Quang Lập, hay chính bản thân Hồng Ánh đã khá bối rối trong cách chọn điểm nhìn. Việc đó vô hình trung làm bộ phim bị rời rạc và thiếu nhất quán." Trang Zing.vn lại so sánh phim với các tác phẩm trước mà Hồng Ánh tham gia diễn xuất, khi các nhân vật chính trong những bộ phim này đều coi "tình dục là sự cứu rỗi", đồng thời chỉ trích Đảo của dân ngụ cư chỉ là "cái mối nối dài những nhân vật 'nàng thơ' bị nhốt của Hồng Ánh trong hơn một thập kỷ trước."
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét