Di dân Trung Hoa
levinhhuy
Thiên di là sự kiện lớn trong đời người, và là
hiện tượng tất yếu trong lịch sử phát triển của nhân loại. Riêng ở Trung Hoa,
hơn 4.000 năm qua, vì nhiều lý do, lớp lớp người Tàu đã phải chấp nhận tha
hương để mưu cầu hạnh phúc.
Lịch sử Trung Hoa từng có nhiều cuộc thiên di
quy mô. Xuyên suốt từ Tiên Tần cho đến cận đại, những làn sóng dịch chuyển dân
cư của Trung Hoa đã gây xáo trộn lớn cũng như tạo ra những thúc đẩy kinh tế,
giao thoa văn hóa ở các khu vực mà chúng hướng tới.
Thời xa xưa ấy, có nhiều nguyên nhân khiến dân
Tàu phải lựa chọn thiên di: vì chính trị, kinh tế, quân sự, thiên tai, và cả lý
do tín ngưỡng. Tình trạng thiên di thường cực kỳ phức tạp, mỗi thời kỳ có những
đặc trưng riêng, với khuynh hướng, quy mô, cự ly, và hình thức khác nhau.
1- Thời Tiên Tần
Truyền thuyết về giai đoạn huyền sử Tam đại (Hạ-Thương-Chu) phản ánh những cuộc di cư lớn của các bộ lạc. Trận chiến khốc liệt ở Trác Lộc[1] cho thấy tính chất quan trọng của sự thiên di thời thượng cổ: tìm đất sống cho thị tộc mình.
Thời Thương Chu, khu vực hạ du Hoàng hà do Hoa
tộc làm chủ, xen lẫn vào đó là các tộc Nhung Địch. Tộc Hoa lấy nông nghiệp làm
nền tảng kinh tế, trong khi Nhung Địch chủ yếu sinh sống bằng săn bắn, và mâu
thuẫn xảy ra: những cuộc di cư của Hoa tộc đã thu hẹp dần đất sống của Nhung
Địch. Theo kết quả những khai quật di chỉ Tam đại, Trung cộng tổng kết: trong
hơn 380 năm, từ nhà Thương lập quốc (1766 trCn) đến khi Bàn Canh dời sang Bắc
Mông để thành nhà Ân (khoảng 1384 trCn), Hoa tộc đã có 13 cuộc di dân xuống hạ
du Hoàng hà. Tuy khảo cổ học, cũng giống như tất cả các bộ môn khoa học khác
của cộng, đều bất khả tín, bởi chúng phải tuân theo định hướng và điều phối của
đảng[2], ở đây có thể rút ra nhận định chung là: vào giai đoạn trên, Hoa tộc
từng có nhiều cuộc thiên di rầm rộ, làm đất sống của Di Địch ở khu vực hạ du
Hoàng hà bị thu hẹp dần.
Cuối đời Hạ, để thoát khỏi sự cai trị hà khắc
của bạo Kiệt, Tôn Công Lưu thống lãnh thị tộc mình làm cuộc thiên di đến đất
Bân[3] (nay là Ninh huyện, thuộc thành phố Khánh Dương tỉnh Cam Túc) để khai
phá đất đai[4]. Cuộc thiên di này tạo dựng địa bàn vững chắc cho nhà Chu phát
tích sau đó.
Nhà Chu (1122-249 trCn) sau khi diệt Ân
Thương, đã tiến hành chính sách “phong phiên vệ quốc”: phân chia đất đai cho
chư hầu để hình thành phên giậu bảo vệ cho mình. Chỉ trong giai đoạn sơ kỳ, Tây
Chu đã cắt đất cho các chư hầu có công, hình thành 71 thuộc quốc (sau này đến
Đông Chu lại tiếp tục phân ra nữa, thành hơn trăm chư hầu). Các chư hầu lục đục
định đất dời đô, khiến bản đồ Hoa Hạ lúc bấy giờ như bàn cờ đang phải xóa đi
bày lại nhiều lần. Đây là trận thiên di đầu tiên trong lịch sử (thành văn) của
Trung Hoa, với mục đích phân bố lại nhân khẩu. Từ những cuộc dời đổi này, ý
thức của Hoa tộc bắt đầu mở rộng, vượt ra ngoài vương quốc của mình[5].
Thời kỳ Xuân Thu (722-481 trCn), các sắc tộc
thiểu số thâm nhập vào địa bàn cư dân Hoa Hạ sinh sống, phá vỡ những giới hạn
lãnh địa của các sắc tộc. Đáp lại, Hoa tộc cũng tản cư ra các vùng Di Địch,
hình thành thế cài răng lược, tạo điều kiện giao thoa văn hóa, và cả hòa huyết
cho Hoa với Di Địch.
Sang thời Chiến quốc (khoảng cuối thế kỷ V đến
năm 221 trCn), dân Tàu nhanh chóng lan tỏa ra chung quanh. Lúc này, Hoa tộc có
20 triệu người, sinh sống trên địa bàn rộng lớn: phía đông giáp tới biển; tây
chiếm Cam Túc, Tứ Xuyên và phía bắc của Thiểm Tây; phía tây tới Hồ Nam; phía
nam lấn đến dãy Lĩnh Nam; bắc tới dãy Âm sơn, hạ du Liêu hà của Nội Mông, và
bán đảo Liêu Đông.
2- Từ Tần đến Minh-Thanh
Năm 221 trCn, Tần thống nhất Trung Hoa, định
đô ở Hàm Dương. Lập tức có hơn 10 vạn hộ hào phú dời đến Hàm Dương lập nghiệp,
nâng dân số đế đô lên hơn 700.000 người[6], cuộc di cư này là nhằm lợi ích kinh
tế.
Còn trước đó, vào 218 trCn, Doanh Chính đã
phái đại tướng Mông Điềm cầm 300.000 quân chinh phạt Hà Sáo[7], đánh đuổi Hung
Nô, Khương Địch ra khỏi các đồng cỏ của họ. Năm 215 trCn, việc bình định xong
xuôi, Tần đặt khu vực rộng lớn này thành hai quận, Vân Trung và Cửu Nguyên (gồm
34 huyện). Đến 211 trCn, Doanh Chính cho dời 3 vạn hộ tới Hà Bắc và huyện Du
Trung (tỉnh Cam Túc) để khai khẩn ruộng nương và trấn giữ biên cương. Về phía
nam, năm 214 trCn, Tần phái quân chinh phục Bách Việt[8], lập ra ba quận Nam
Hải, Quế Lâm và Tượng, rồi dời 500.000 dân qua đó sống chen với các giống Bách
Việt. Hai cuộc di dân cưỡng bách này mang ý nghĩa quân sự: để củng cố, ổn định
biên cương.
Đời Tây Hán, ngay sau những chiến thắng từng
bước đẩy lùi Hung Nô, Lưu Triệt (Hán Võ đế, tại vị 141-87 trCn) dời hơn 700.000
người đến cương vực tây bắc.
Đến Đông Hán, năm 48 sau Công nguyên, Hung Nô
tách làm hai bộ phận nam bắc. Lưu Tú (Hán Quang Võ) chấp thuận cho Nam thiền vu
quy phụ, giao lực lượng này trấn nhậm 8 quận trọng yếu là: Bắc Địa (nay thuộc
Cam Túc), Sóc Phương, Ngũ Nguyên, Vân Trung, Tây Hà (Nội Mông), Định Tương,
Nhạn Môn (Sơn Tây), Đại (Hà Bắc). Biên cương tây bắc của Hán nhờ vậy trở nên
yên ổn, còn bắc Hung Nô phải dạt sang châu Âu và trở thành người Hung (Huns).
Từ đó, các sắc tộc thiểu số ở biên cương tây
bắc rủ nhau thiên di vào nội địa Trung Hoa. Đến Nam Bắc triều (220-589), các
sắc tộc này (chủ yếu là Hung Nô, Tiên Ty, Yết, Để, Khương) dần trở nên hùng
mạnh, và khi triều Tấn suy yếu thì gây nên đại họa “Ngũ Hồ loạn Hoa”. Trái
ngược hẳn truyền thống nồng nàn yêu nước của con Hồng cháu Lạc, bọn Viêm
Hoàng tử tôn hễ xảy ra đại loạn là quần chúng nhân dân lánh luôn cho
lành, chẳng hơi đâu bảo vệ chế độ. Tính đến cuối Nam Bắc triều, có hơn 700.000
người tản cư xuống hạ du Trường giang[9], trong đó đông nhất là kéo đến Giang
Tô (260.000).
Thời Đường, triều đại cường thịnh rực rỡ nhất
về mọi mặt, mà nhiều lưu dân Tàu sau này sẽ tự hào mình thuộc về, với danh xưng
“Đường nhân”, cũng chẳng mấy khi yên bình. Năm 618, Lý Uyên thành lập Đế quốc
Đại Đường. Nhiều thần tử Trung Hoa trước đó phải chạy lên biên địa phía bắc,
nay lũ lượt bồng bế nhau về. Để rồi đến cuộc biến loạn do An Lộc Sơn và Sử Tư
Minh cầm đầu, chỉ trong vòng 8 năm (755-763), cả lưu vực Hoàng hà: Quan Trung,
Sơn Đông, Hồ Bắc, Hà Nam, ngàn dặm tan hoang không còn lấy một bóng người,
những ai sống sót đều tháo chạy xuống phương nam. Nếu năm 755, dân số toàn Đại
Đường là 52.880.488 người, thì đến năm 764 chỉ còn lại chưa đầy 1/3:
16.900.000[10].
Triều Tống cũng chẳng huy hoàng được bao lâu.
Đời Triệu Cát (Tống Huy tông), niên hiệu Tĩnh Khang, chỉ trong hai năm 1126-27,
quân Kim hai phen nam hạ thẳng đến Khai Phong như chỗ không người, bắt cả cha
con Cát và Hoàn (Huy tông và Khâm tông). Sự biến này được xem là nhục nhã nhất
lịch sử Trung Hoa. Và 5 triệu dân Tống đã tự động tản cư, không cần đợi triều
đình phát động thanh dã; ở chiều ngược lại, hàng đoàn người Nữ
Chân, Mông Cổ lũ lượt theo chân đại quân kéo đến định cư trên đất Tống.
Định mệnh trớ trêu, những kẻ chinh phục lại
trở thành người bị chinh phục: sau khi nhà Nguyên nhất thống chưa đầy trăm năm,
toàn bộ số ngoại tộc nhập Hoa trên đều bị đồng hóa, Hán hơn cả Hán.
Theo Minh sử, nhà Minh có hơn 10
lượt di dân quy mô, dưới hai triều Chu Nguyên Chương (Minh Thái tổ) và Chu Đệ
(Minh Thành tổ). Năm 1371, dời tổng cộng 67.000 hộ để khẩn hoang lập ấp. Năm
1376, dời những kẻ bần cùng ở Sơn Tây và Hà Bắc khai thác phủ Phụng Dương (nay
thuộc thành phố Trừ Châu tỉnh An Huy). 1403-04, hai lần di dời hơn 30.000 hộ dân
cư Giang Tô, Chiết Giang tới Bắc Kinh, để bổ sung… phu khuân vác cho kinh sư.
Về mặt quân sự, niên hiệu Hồng Võ (1368-99), dời hơn 1 triệu người (bao gồm
quân nhân và gia quyến) ra trấn thủ Vân Nam.
Triều Mãn Thanh, do thiên tai nhân họa khiến
dân số Tứ Xuyên sụt giảm, từ 118.000 hộ xuống còn chưa đến 90.000 người (1685).
Nhà Thanh liên tục di dân điều tiết bổ sung, và mãi 150 năm sau, đến 1840, dân
số cả tỉnh Tứ Xuyên cũng chỉ được có 3.833.000 người.
Đồng thời, do quá nhiều kẻ đào thoát chế độ,
thiên di ra biên cương hải đảo để không phải chịu sự kiểm soát của chính quyền,
Thanh triều ra lệnh nghiêm cấm dân chúng dời đến Đài Loan. Khi phải tháo bỏ
lệnh cấm để phát triển thì chỉ trong vòng 25 năm (1795-1820), dân số Hoa kiều ở
Đài Loan từ 230.000 tăng đến gần 2.000.000, đa số là người Mân Việt[11].
Ngoài ra, kể từ 1668, triều đình liên tục thi
hành khẩn hoang, dành nhiều ưu đãi cho người đi khai phá Liêu Đông, nhưng cho
đến nửa đầu thế kỷ XIX, vùng Hắc Long Giang, Cát Lâm vẫn quạnh quẽ thưa vắng
bóng người.
Những lớp người Trung Hoa cứ thế theo xô đẩy
của thời cuộc, tràn ra khắp nơi để sinh cơ lập nghiệp. Và trên đây chỉ là những
cuộc thiên di trong nội địa, công cuộc thiên di hải ngoại để những thần tử
Trung Hoa trở thành “Hải ngoại Hoa nhân” sẽ được trình bày ở phần sau.
Mộ Từ Phúc ở Wakayama (Nhật Bản).
Hải ngoại Hoa nhân
Nếu thiên di trong nội địa đa số là do tuân
theo ý chí của nhà cầm quyền thì thiên di hải ngoại thường là kế hoạch cá nhân.
Chuyến vượt biên đầu tiên trong lịch sử Trung
Hoa là một kế hoạch hoàn hảo. Sử ký (Tần Thủy hoàng Bản kỷ)
ghi, năm 219 trCn: “Người nước Tề là bọn Từ Phất 徐巿[12] tâu rằng ngoài biển khơi có ba đảo Bồng Lai, Phương
Trượng, Doanh Châu là nơi tiên ở; xin được trai giới, dắt đồng nam đồng nữ đi
tìm. Thế là [Doanh Chính] sai Từ Phất mang theo vài ngàn đồng
nam đồng nữ ra biển cầu tiên”.
Truyền thuyết Từ Phất/Phúc lập ra Nhật Bản
đúng sai mặc dầu, nhưng sau đó quả có nhiều di dân Trung Hoa lưu lạc đến Đông
Doanh. Từ Tần-Hán, do chiến họa liên miên, cư dân lưu vực Hoàng hà liên tục
chạy loạn đến Giang Nam và các tỉnh đông bắc Trung Hoa. Nhóm lên đông bắc lại
tiếp tục cuộc tháo chạy, sang tận bán đảo Triều Tiên. Nhưng tránh vỏ dưa gặp vỏ
dừa, thời Tam quốc Triều Tiên (từ 57 trCn đến năm 668), ba thế lực Cao Câu Ly
(Goguryeo), Bách Tế (Baekje) và Tân La (Silla) đánh nhau triền miên khói lửa, một
bộ phận Hoa tộc lại tách ra, chạy sang quần đảo Nhật Bản. Các bộ cổ sử Nhật
(như Cổ sự kỷ 古事紀 – Kojiki) ghi nhận
những Hoa dân di tản này là Quy hóa nhân 歸化人 (người nhập tịch – 帰化した人), với những nhân vật
tiêu biểu như Cung Nguyệt Quân (弓月君), Đông Hán Trực (東漢直), Tây Văn Trực (西文直), v.v… Họ mang đến
các kỹ thuật canh tác, chăn tằm dệt vải, cùng các nghề thủ công, góp phần thúc
đẩy xã hội Nhật Bản phát triển.
Triều Tùy-Đường (581-907), Trường An trở thành
đô thị quốc tế, nơi sứ thần các nước dập dìu lui tới, đông nhất vẫn là của các
nước Trung Á nơi “con đường tơ lụa” đi qua; Quảng châu thành trung tâm mậu dịch
với nước ngoài; và Minh châu[13], Đăng châu[14] thành những cửa khẩu quan
trọng. Mắt thấy thương nhân bốn phương tụ về, máu tham của bọn con buôn Trung
Hoa liền trỗi dậy, và những kẻ táo bạo nhất bắt đầu mang trà, tơ lụa, đồ sành
sứ đi buôn quốc tế. Những thợ thủ công được huy động theo đoàn buôn, và có khi
cả một phần thủy thủ đoàn đã lựa chọn định cư hải ngoại, không về cố quốc
nữa. Văn hiến thông khảo 文獻通考, bộ cổ sử của Nhật
cho biết, trong giai đoạn này đã có dân Tàu định cư ở Java, Sumatra…
Đời Nam Tống (1127-1279), kỹ thuật đóng tàu
phát triển vượt bậc, cho phép các thương nhân Trung Hoa tới Chiêm Thành, Chân
Lạp, Nakhon Si Thammarat[15], Boni (Brunei), Ma Yi (Philippines), thậm chí sang
tận Ấn Độ, Ả Rập, và vì thấy trước sự sụp đổ tất yếu của Tống, phần lớn họ
không về nữa (theo Bình châu khả đàm[16]). Sau sự biến Tĩnh Khang,
hiện tượng thiên di hải ngoại càng trở nên phong trào mạnh mẽ, người ta sẵn
sàng liều mạng vượt đại dương hiểm nghèo để mưu tìm cuộc sống tốt hơn cho mai
hậu. Và khi Tống bị diệt (1279), số đông văn thần võ tướng không chịu được nỗi
nhục đã chọn kiếp sống lưu vong, đi đâu cũng được, miễn khuất mắt, không phải
đội chung trời với Mông Cổ[17]. Hơn 20 năm sau khi Tống mất, lợi dụng việc tham
gia viễn chinh Java theo lệnh Hốt Tất Liệt, nhiều binh tướng người Hán đã lưu
lại Jialimandan, thà tay trắng lập nghiệp từ đầu chứ không thèm về nước (Minh
sử).
Đến đời Minh (1368-1644), kỹ nghệ đóng tàu của
Trung Hoa đứng đầu thế giới, với hạm đội Trịnh Hòa lừng lẫy đại dương. Người
Tàu cũng nhanh chóng tỏa ra các nước trong vùng Đông Nam Á, theo thống kê của
nhà Minh, năm 1375 có hơn 100.000 Hoa kiều thiên di tới Nam Dương. Ở Java, hơn
vạn hộ Hoa kiều tụ tập kinh doanh, lập thành Tân Thôn là nơi phồn thịnh nhất
Java. Thời kỳ này, giao thương Hoa-Nhật cực kỳ mật thiết, và Hoa kiều đã thành
lập khu Ba Tàu (Chinatown) đầu tiên ở Bodo và đảo Hirado của Nhật.
Đời Thanh, nhộn nhịp nhất vẫn là giao thương
với Nhật. Dưới triều Khang Hy, cuối thế kỷ XVII-đầu thế kỷ XVIII, Hoa kiều lại
xây dựng thêm khu phố Tàu ở Nagasaki. Về văn hóa, bọn Ba Tàu cũng có những đóng
góp nhất định cho nước Nhật.
Cuối thế kỷ XVII cũng là lúc có nhiều dân Tàu
thiên di sang Việt Nam nhất. Năm 1671, Mạc Cửu từ Quảng Đông mang theo gia
quyến và bộ thuộc đến khai khẩn vùng đất hoang Mang Khảm, biến nơi đây thành Hà
Tiên trù phú. 1679, bọn Dương Ngạn Địch, Trần Thượng Xuyên không chịu làm tôi
thần cho Mãn Thanh, đã dẫn 3.000 quân với hơn 50 chiến thuyền đến quy phụ, được
chúa Nguyễn Phúc Tần thâu nhận, cho họ xuống khai khẩn Mỹ Tho, Biên Hòa.
Ở Xiêm La, năm 1768, một Hoa kiều gốc Triều
Châu là Trịnh Quốc Anh khởi binh đánh đuổi quân Miến Điện, trở thành Taksin
Maharaj, vị quốc vương được người Thái tôn kính. Từ đó, Ba Tàu tụ về Bangkok
lập nghiệp thêm đông.
Thế kỷ XIX, con đường thiên di hải ngoại của
đa số Ba Tàu là sang Anh, Pháp, Mỹ, Hà Lan để làm phu. Từ 1820, Hoa kiều đặt
chân đến Hoa Kỳ, công việc ban đầu là phu làm đường xe lửa. Để chạy trốn chiến
họa và nỗi ám ảnh của sự bần cùng, họ chấp nhận bán thân. Nhiều máu và nước mắt
đã đổ xuống để hình thành những khu Chinatown bề thế như ngày nay.
Và trong số những di dân Trung Hoa thời cận
đại, lừng lẫy nhất phải kể đến tộc Khách Gia (Hakka, còn gọi người Hẹ), những
kẻ giang hồ bất khuất pha trộn hai dòng máu Hoa Nam-Mân Việt này, trong suốt
hơn 4.000 năm qua liên tục hình thành những đợt di cư tứ tán. Từ đất tổ Hà Nam,
người Hakka phiêu lưu đến Giang Tây, Phúc Kiến, Quảng Đông, Quý Châu, Đài Loan,
Hồ Nam, Hồ Bắc, Tứ Xuyên. Khởi nghĩa Thái Bình thiên quốc thất bại (1864), họ
nhanh chóng dạt sang đảo Hải Nam, tản ra hầu hết các nước Đông Nam Á, rồi sang
Calcutta, New Delhi và Darjeeling (Ấn Độ), Nam Phi; đến Liverpool (Anh), Hague,
Rotterdam (Hà Lan); Sydney, Melbourne (Úc); Canada; rồi Honolulu, San Francisco
của Hoa Kỳ, ở Cuba, México, Panama, Brasil, Argentina, Peru, Jamaica, Guyana…
đâu đâu cũng có sự hiện diện thầm lặng nhưng kiêu hãnh của người Hakka. Tính
đến cuối thế kỷ XIX, có đến vài triệu dân Hẹ phân tán hải ngoại, trên hơn 80
quốc gia và vùng lãnh thổ.
Từng trải gian lao nơi hải ngoại, Ba Tàu rút
ra được kinh nghiệm xương máu nơi xứ người: để tồn tại, phải tập hợp lại. Cộng
sinh trở thành bản năng của Hải ngoại Hoa nhân, và từ cuối thế kỷ
XVIII, bang hội hình thành, giúp cộng đồng Ba Tàu lớn mạnh nơi xứ người.
_______
[1] Bộ tộc của thủ lĩnh Thần Nông đang cư trú
ở Khương Thủy (nay thuộc Thiểm Tây) thì bị bộ tộc Cửu Lê do Xuy Vưu lãnh đạo,
tấn công. Thần Nông kéo tàn quân đến Trác Lộc (Hà Bắc) cầu cứu Hoàng đế. Một
trận huyết chiến đã xảy ra, kết quả là Xuy Vưu đại bại. Hai bộ tộc của Hoàng đế
và Thần Nông từ đó kết hợp với nhau, người ta cho đây là khởi nguồn tạo ra tộc
Hán. Và Trung cộng, nhằm tiện gom dân chúng vào sự khống chế của mình, đã lợi
dụng chiêu bài Viêm Hoàng tử tôn (con cháu của Viêm Hoàng –
“Viêm” tức Viêm đế, tên gọi khác của Thần Nông) đó để tập họp lực lượng quanh
mình. Thông thường, người Tàu vẫn nhận mình là “Thoòng dzành” (Đường nhân),
nhưng đa số dân đại lục thích nổ-xuyên-thời-không, thường khoe khoang mình
là Viêm Hoàng tử tôn; gặp khi tranh luận mà tới nước chúng lôi Viêm
Hoàng tử tôn ra làm hậu thuẫn thì khôn hồn nên ngưng là vừa. Và huyền sử
Bắc Việt cũng bắt đầu từ sự kết hợp giữa hai bộ tộc Âu và Lạc, bọn này cũng
thích nhận mình là con rồng cháu tiên; đó có thể chỉ là sự trùng hợp ngẫu nhiên
chăng?
[2] Đơn cử: Dự án xác định niên đại
Hạ-Thương-Chu (夏商周斷代工程), một dự án đa ngành của Trung cộng, quy tụ chuyên gia của các
bộ môn khoa học tự nhiên lẫn khoa học xã hội, tiến hành vào năm 1996 để xác
định địa điểm và niên đại của Tam đại (Hạ-Thương-Chu). Ngay từ tên gọi đã cho
thấy người ta xác định Tam đại là có thực trước khi tiến hành dự án.
[3] Bân 豳, thường được ta phiên
âm thành Mân.
[4] Theo Sử ký – Bản kỷ nhà
Chu.
[5] Nên mới có chuyện như Ngũ Tử Tư vốn làm
Đại phu của Sở, sau đó lại bỏ sang Ngô làm Tướng quốc, dẫn quân trở lại đánh
bại Sở mà không hề bị xem là “phản quốc”.
[6] Từ thời Cơ Tĩnh (Chu Tuyên vương) trị vì
(841-782 trCn), các vương triều thường xuyên tiến hành thống kê, tổng dân số
Tàu năm 210 trCn khoảng 30 triệu.
[7] Thượng du Hoàng hà, đoạn từ phía bắc Khu
tự trị dân tộc Hồi (Ninh Hạ) tới Khu tự trị Nội Mông thì uốn cong lại, khu vực
vòng cung đó được gọi Hà Sáo.
[8] Bách Việt: cùng hiện hữu song song với Hoa
tộc, ở về phía nam là các tộc khác, được gọi chung Việt tộc, phân bố khắp vùng
Lĩnh Nam. Do quá nhiều bộ tộc, nên Tàu gọi chung họ là Bách Việt. Âu Việt và
Lạc Việt là hai trong số hàng trăm thị tộc đó. Nhưng sau này, Giao Chỉ sẽ dùng
danh từ chung Bách Việt như danh từ để riêng chỉ tộc mình (thơ Phan Bội
Châu: Thương ôi Bách Việt giang san/ Văn minh đã sẵn khôn ngoan có thừa –
Á Tế Á ca). Khái niệm giãn nở này mang lại khoái cảm lớn cho tự hào dân tộc, và
tất nhiên chỉ được rao giảng bên trong lũy tre của Giao Chỉ để chúng tự thấm
thía với nhau; thông tin thuộc hàng cơ mật trọng yếu quốc gia này không được
khuyến khích phát tán ra thế giới bên ngoài.
[9] Tổng dân số cả Đông và Tây Tấn vào năm 548
ước 42.000.000.
[10] Số liệu của Thông điển, thiên
“Thực hóa” 7.
[11] Tức người Phúc Kiến, một chi lớn của Bách
Việt.
[12] Chữ Phất 巿 này
(ở giữa là nét sổ thẳng từ đỉnh xuống) dễ bị nhầm ra chữ Thị 市
(trên đỉnh là nét chấm), nên nhiều người dịch tên Từ Phất thành Từ Thị.
Chuyện về Từ Phất, “Tần Thủy hoàng Bản kỷ”
quyển 6 chỉ chép một đoạn ngắn ngủn nhiêu đó. Cũng trong Sử ký,
sang quyển 118, ở “Hoài Nam Hành sơn liệt truyện”, Tư Mã Thiên lại chép tên
người này thành Từ Phúc (Phất đồng âm “fú” với Phúc 福),
với nhiều chi tiết hơn: cho biết họ Từ là một phương sĩ, đảm nhiệm Ngự y cho
Tần Thủy hoàng. Lần đầu đi cầu tiên trở về, họ Từ dựng chuyện dối gạt là tiên
đòi phải có vài ngàn đồng nam đồng nữ mới khứng truyền cho bí thuật trường
sinh. Bản ý họ Từ muốn Thủy hoàng thấy khó mà bỏ qua, không dè hoàng đế làm
thiệt, bắt luôn mấy ngàn trẻ nhỏ giao cho phương sĩ. Chuyến này, họ Từ cụ bị 3
năm lương thực, lại mang theo nhiều hạt giống, dắt theo vài ngàn trẻ nhỏ và hơn
trăm thợ lành nghề các thứ, đến một vùng đồng bằng rộng lớn (“bình nguyên quảng
trạch”) ở Bột hải (tức bán đảo Liêu Đông, thuộc tỉnh Liêu Ninh) tự lập làm vua,
không về nữa. Bốn chữ bình nguyên quảng trạch mơ hồ kia của Tư
Mã Thiên khiến sau này sinh nhiều giả thuyết:
– Tam quốc chí của Trần Thọ
cho rằng “bình nguyên quảng trạch” đó nằm ở Đản châu. Đản châu này theo mô tả
lại nằm ở hướng đông nam của biển Hoa Đông, nên từ đó có thuyết cho rằng Từ
Phất chính là Thiên hoàng Jinmu của Nhật Bản. Thích thị lục thiếp,
bộ từ điển Phật học soạn vào năm 954 cũng ghi tương tự. Thuyết này được nhiều
người tán đồng, hiện ở Nhật có đền thờ và cả mộ Từ Phúc.
– Thuyết của Đại học Kỵ Nam (Jinan University,
của Quảng châu, Trung cộng) và Đại học Phụ Nhân (Fu Jen Catholic University,
Đại học Thiên Chúa giáo, Trung Hoa Dân quốc) chứng minh Đản châu là Đản Hương
sơn; mà Đản Hương sơn 檀香山 là tên Tàu của… Honolulu, thủ phủ tiểu bang Hawaii, Hoa Kỳ. Với
bằng chứng là những nham thạch có khắc Triện thư được phát hiện ở Honolulu và
San Francisco, thuyết này cho ta biết người Tàu đã tìm ra châu Mỹ từ 200 năm
trước Thiên Chúa giáng sinh.
– Một số học giả Đài Loan lại chứng minh nơi
Từ Phúc kết thúc hải trình không phải Đản châu, mà là Di châu. Di châu ở cạnh
Đản châu, và cũng chính là Đài Loan ngày nay.
[13] Minh châu: nay thuộc khu vực quận Cối Kê
thành phố Thiệu Hưng tỉnh Chiết Giang.
[14] Đăng châu: nằm ở cực đông bán đảo Sơn
Đông, là yếu đạo hàng hải thông thương Liêu Đông với bán đảo Triều Tiên.
[15] Nakhon Si Thammarat: Đại Nam thực
lục gọi là nước Tam Hoạt, bao gồm vùng đất miền Đông bán đảo Mã Lai,
nay là các tỉnh Songkhla, Nakhon Si Thammarat và Phatthalung của Thái Lan.
[16] Bình châu khả đàm: bộ sách do
Chu Úc đời Tống soạn, chép về các điển chương, biên phòng, Thị bạc ty và danh
nhân của Tống.
[17] Theo Đại Việt sử ký toàn thư,
năm 1285 tướng Tống là Triệu Trung dắt binh sĩ đến Đại Việt tỵ nạn và tình
nguyện đánh Nguyên, toán quân này vẫn giữ trang phục của Tống.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét