Thứ Năm, 29 tháng 12, 2022

Chiến Quốc Sách

 


CHIẾN QUỐC SÁCH

ĐỌC THÊM

CHƯƠNG I - CHU SÁCH

   


Vị tân thùy điếu đồ,
miêu tả cảnh Chu Văn Vương gặp Khương Tử Nha bên sông Vị


CHƯƠNG I

CHU SÁCH

Đông Chu có hai nghĩa. Một nghĩa trỏ triều đại như: Đông Chu liệt quốc. Đời Chu chia làm hai thời kỳ: thời kỳ thứ nhất đóng đô ở đất Phong, đất Cảo (miền Thiểm Tây bây giờ), gọi là Tây Chu (1134-770); đến đời U Vương sợ rợ Tây Nhung, phải dời đô qua Lạc Dương (Hà Nam) để tránh, từ đó gọi là Đông Chu (770-221). Cũng có sách chép rằng U Vương bị Tây Nhung giết rồi, Bình Vương bị uy hiếp mới thiên đô.

Một nghĩa nữa, tức nghĩa dùng trong cuốn này, trỏ tên nước. Thời Xuân Thu, vua nước Chu là thiên tử, phong vua các nước Tần, Tề, Sở, Triệu, Nguỵ, Hàn, Yên, Tống, Vệ, Trung Sơn… làm chư hầu. Chư hầu mỗi ngày một mạnh, xâm chiếm đất đai của Chu, đến thời Chiến Quốc, Chu chỉ còn một khu nhỏ.

Khi Chu Khảo Vương (440-424), mới lên ngôi, phong cho người em tên là Yết làm vua ở Hà Nam, gọi là Hà Nam Hoàn Công; Hoàn Công truyền ngôi cho Uy Công; Uy Công truyền ngôi cho Huệ Công, Uy Công lại phong cho một người con tên là Ban làm vua ở đất Củng, gọi là Đông Chu, còn đất mình giữ lại để cai trị thì gọi là Tây Chu. Từ đó trở đi, có hai nước Chu: Đông Chu và Tây Chu. Trong cuốn này, gọi là vua Chu thì có khi trỏ vua Đông Chu, có khi trỏ vua Tây Chu.


ĐÔNG CHU

1. TẦN ĐÒI CHÍN CÁI ĐỈNH CỦA CHU

(Tần cầu Chu cửu đỉnh)

Tần đem quân đánh Chu để đòi chín cái đỉnh. Vua Chu (Hiển Vương) lo lắng, bàn với một vị đại thần là Nhan Suất. Nhan Suất tâu:

- Đại vương đừng lo, thần xin qua phía đông cầu cứu với Tề.

CHƯƠNG II - TẦN SÁCH

CHƯƠNG II

TẦN SÁCH

Tổ tiên nhà Tần họ Doanh, tới đời Chu được phong tước Bá, từ Bá Ế truyền được mười đời, tới Phi Tử, Chu Hiếu Vương (909-894) phong cho Phi Tử một nước phụ thuộc ở đất Tần (nay thuộc Thiểm Tây, huyện Thanh Thủy).

Tới Tần Tương Công, vì có công với nhà Chu, được phong làm chư hầu, lúc đó mới lấy tên là nước Tần. Mới đầu lập kinh đô ở đất Khiên, sau dời đổi mấy lần, tới đời Tần Hiếu Công thì dựng đô ở Hàm Dương (nay gần huyện Hàm Dương).

Thời Chiến Quốc, Tần là một trong thất hùng, mỗi ngày một mạnh, sau cùng diệt các nước khác mà thống nhất Trung Quốc.


TẦN I

1. TRUYỆN VỆ ƯỞNG

(Vệ Ưởng vong Nguỵ nhập Tần)

Vệ Ưởng bỏ Nguỵ mà qua Tần. Tần Hiếu Công dùng làm tướng quốc, phong cho ở đất Thương, nên gọi là Thương Quân 1 . Thương Quân cai trị Tần, phép lệnh rất công minh, vô tư: phạt thì không kiêng kẻ có uy quyền lớn, thưởng thì không vì tư tình. Hình pháp thi hành lên tới cả thái tử, thích chữ vào má và cắt mũi quan sư phó 2 . Một năm sau, trên đường có của rơi không ai dám lượm, dân không dám lấy bậy của người khác, quân lính rất mạnh, chư hầu đều sợ. Nhưng phép nghiêm quá mà ít thi ân, thành thử người ta chỉ miễn cưỡng mà phục.

Hiếu Công thi hành phép của Thương Ưởng được tám năm 3 tới khi đau nặng muốn truyền ngôi cho Thương Quân, Thương Quân không nhận 4 .

Hiếu Công mất rồi, Huệ Vương lên thay, trị vì được một thời gian thì Thương Quân xin về Nguỵ. Có người bảo Huệ Vương:

- Đại thần mà quyền lớn quá thì nước nguy; kẻ tả hữu mà thân cận quá thì bản thân nguy. Nay ở Tần, đàn bà trẻ con đều nói: pháp lệnh của Thương Quân chứ không nói: pháp lệnh của đại vương, thế thì ngược lại chính Thương Quân mới là vua mà đại vương hoá thành bề tôi. Vả chăng, Thương Quân vốn là kẻ thù của đại vương xin đại vương xét kỹ 5 .

Thương Quân trở về Tần 6 , Huệ Vương cho xe ngựa xé thây 7 , mà người nước Tần không ai thương xót.


1. Vệ Ưởng: là công tử nước Vệ, họ Tôn, làm thủ hạ của tể tướng nước Nguỵ tên là Công Thúc Toa. Công Thúc Toa đau nặng, tiến cử Vệ Ưởng với Nguỵ Huệ Vương và dặn: “Nếu đại vương không dùng hắn thì giết hắn đi, đừng cho hắn ra khỏi nước Nguỵ”. Công Thúc Toa chết, vua Nguỵ không dùng mà cũng không giết Vệ Ưởng. Sau Tần Hiếu Công hạ lệnh cầu hiền, Vệ Ưởng qua Tần được phong ở đất Thương (tỉnh Thiểm Tây ngày nay) nên cũng gọi là Thương Ưởng.

2. Thái tử sau lên ngôi, tức Huệ Văn Vương; trong bài này gọi là Huệ Vương. Thái tử phạm phép nước, Vệ Ưởng nghĩ rằng thái tử nối ngôi, không thể gia hình được, nên bắt sư phó (thầy dạy thái tử) chịu tội thay vì không biết dạy thái tử.

3. Có sách chép là mười tám năm.

4. Có sách giảng rằng Thương Ưởng không nhận vì giữ đúng chủ trương của Pháp gia: bề tôi giữ phận bề tôi.

5. Vì trước đã xử tội thầy học của Huệ Vương, làm nhục Huệ Vương.

6. Thương Ưởng biết Tần khó dung mình, trốn đi tới một lữ điếm, chủ lữ điếm không dám chứa, bảo: “Theo lệnh của Thương Quân, khách tới xin trọ, phải có “bằng cứ” – tức cũng như thẻ căn cước ngày nay – thì mới được phép chứa. Ông không có “bằng cứ”, chứa ông thì tôi bị tội”. Thương Ưởng không có chỗ trú, phải trốn qua Nguỵ, người Nguỵ bắt giao lại cho Tần. Có sách chép rằng Thương Ưởng tự trở về Tần, dùng binh lực chống lại vua nhưng thất bại.

7. Xé thây là tội rất nặng: người ta cột đầu và tứ chi vào năm con ngựa, đánh cho ngựa chạy về năm phía, để xé thây làm năm đoạn. Chắc hồi đó cột phạm nhân vào xe ngựa, nên mới gọi là “xa liệt” (xe xé thây).

CHƯƠNG III - TỀ SÁCH

 


CHƯƠNG III

TỀ SÁCH

Chu Vũ Vương (1134-1115) phong Thái Công Vọng ở đất Tề, (đô ở Doanh Khâu nay thuộc tỉnh Sơn Đông, huyện Lâm Tri).

Thời Chiến Quốc, một bề tôi của Tề, họ Điền, chiếm ngôi vua.

Sau Tề thành một trong thất hùng.

Đất của Tề nay nằm một phần trên tỉnh Sơn Đông, một phần trên tỉnh Hà Bắc, phía đông nam giáp biển.

Cuối đời Chiến Quốc Tề bị Tần diệt.

TỀ I

3. NƯỚC VỚI CÁ

(Tĩnh Quách Quân tương thành Tiết)

Tĩnh Quách Quân 1 muốn xây thành Tiết, trong số khách có nhiều người can ngăn. Tĩnh Quách Quân ra lệnh cho người hầu hễ có khách nào muốn can ngăn thì đừng cho vô. Có người nước Tề xin rằng: “Cho tôi được nói ba tiếng thôi. Nếu tôi nói thêm một tiếng thì xin cứ luộc tôi đi”.

Tĩnh Quách Quân bèn cho vô. Ông khách tiến tới, nói:

- Biển cá lớn.

Rồi quay lưng chạy.

Tĩnh Quách Quân gọi lại:

- Mời khách ở lại.

Khách đáp:

- Kẻ thô bỉ này không dám đùa với cái chết.

Tĩnh Quách Quân bảo:

- Không sao. Cứ nói tiếp đi.

Đáp:

- Ngài không nghe nói loài cá lớn chăng? Lưới không bủa được nó, câu không kéo được nó, nhưng nếu nó xông xáo mà sa vào chỗ cạn thì con dế, con kiến có thể bu lại hành hạ nó. Nước Tề nay đối với ngài cũng như nước đối với con cá lớn đấy. Ngài còn nước Tề thì đất Tiết này có kể chi, nếu mất Tề thì dù có cất thành Tiết cao tới đụng trời cũng vô ích.

Tĩnh Quách Quân khen:

- Phải.

Rồi dẹp việc xây thành Tiết.

1

Tĩnh Quách Quân: tức Điền Anh, được phong ở đất Tiết, muốn xây thành Tiết cho thật kiên cố. Tiết là một miền của Tề, tại đó có tôn miếu của các vua Tề. Điền Anh chỉ nghĩ cách củng cố địa vị của mình mà không nghĩ đến nước Tề. Bài này có chép trong thiên Thuyết lâm hạ, bộ Hàn Phi Tử.


CHƯƠNG IV - SỞ SÁCH

 

CHƯƠNG IV

SỞ SÁCH

Chu Thành Vương (1115-1078) phong Hùng Dịch ở đất Sở, đô ở Đan Dương (nay thuộc tỉnh Hồ Bắc). Thời Xuân Thu, Sở xưng vương, thời Chiến Quốc, thành một trong thất hùng, sau bị Tần diệt. Đất Sở nay nằm trên các tỉnh Hồ Bắc, Hồ Nam, Giang Tô, Giang Tây, Chiết Giang và phía nam tỉnh Hà Nam. Nước Sở cũng gọi là nước Kinh.



SỞ I

1. TỬ TƯỢNG KHUYÊN TỐNG ĐỪNG GIÚP TỀ

(Tề, Sở cấu nạn)


Tề, Sở đánh nhau, Tống xin được trung lập. Nhưng bị Tề áp bức, Tống phải hứa giúp Tề. Tử Tượng vì Sở mà thuyết vua Tống:

- Nếu Sở vì hoà hoãn mà mất Tống (vì Tống đứng về phía Tề), thì Sở sẽ theo gương Tề mà áp bức Tống (để Tống đứng về phía Sở). Tề dùng áp bức mà được Tống giúp thì sau này tất (quen mưu) thường dùng áp lực. Như vậy Tống theo Tề mà đánh Sở, vị tất đã có lợi (cho Tống). Tề mà thắng Sở, thế tất nguy cho Tống; không thắng thì là nước Tống nhược tiểu mà dám phạm tới nước Sở hùng cường. Như vậy là Tống khiến cho hai nước vạn thặng có thói dùng áp lực (với Tống) để được toại nguyện, Tống tất nguy mất!



3. CÁO MƯỢN OAI CỌP

(Tuyên Vương vấn quần thần)


(Kinh) Tuyên Vương hỏi quần thần:

- Ta nghe nói các nước phương bắc sợ Chiêu Hề Tuất 1 , thực sự là vì đâu?

Không ai trả lời. Giang Nhất 2 thưa:

- Con hổ tìm các con thú để ăn thịt, gặp con cáo. Con cáo bảo: “Mày không dám ăn thịt tao đâu! Thượng đế sai tao làm thủ lãnh các loài thú, mày mà ăn thịt tao thì trái lệnh Thượng đế. Mày không tin lời tao thì tao đi trước, mày theo sau, xem các loài thú thấy tao có phải chạy trốn không”. Con hổ cho là phải, rồi cùng thử đi với con cáo. Các thú thấy đều chạy, con hổ không biết rằng chúng sợ mình mà chạy, tưởng rằng chúng sợ con cáo. Nay đất của đại vương vuông năm ngàn dặm, binh sĩ có trăm vạn mà riêng uỷ thác cả cho Chiêu Hề Tuất, cho nên các nước phương bắc sợ Chiêu Hề Tuất, thực ra là sợ quân của đại vương, cũng như các loài thú sợ hổ vậy.

1       Chiêu Hề Tuất: là tể tướng nước Sở.

2       Giang Nhất: có chỗ viết là Giang Ất («»), là người nước Nguỵ mà làm quan nước Sở. Xưa hai chữ ất và nhất dùng thay nhau được.


5. SỞ CỨU TRIỆU ĐỂ CHIẾM ĐẤT CỦA NGỤY

(Hàm Đan chi nạn)


Trong trận Hàm Đan 3 , Chiêu Hề Tuất bảo vua Sở:

- Đại vương đừng nên cứu Triệu, mà nên giúp cho Nguỵ mạnh. Nguỵ mạnh thì đòi cắt đất của Triệu nhiều hơn, Triệu không chịu, tất cố chống cự, rốt cuộc là hai nước đều mệt mỏi.

Cảnh Xá (người nước Sở) bảo:

- Không phải vậy! Chiêu Hề Tuất không hiểu gì cả. Nguỵ đánh Triệu, thì sợ nhất là bị Sở tập hậu. Nay ta không cứu Triệu, thì Triệu sẽ nguy mà Nguỵ không phải lo Sở (tập hậu), thế cũng tức như Sở, Nguỵ cùng đánh Triệu, hại cho Triệu càng lớn, chứ làm sao mà “hai nước đều mệt mỏi” (như Chiêu Hề Tuất nói)?

Vả lại Nguỵ đem binh 4 thâm nhập Triệu mà chiếm đất, Triệu thấy cái thế nguy rồi, mà Sở lại không cứu mình, thì tất liên hợp với Nguỵ để đánh Sở.

Cho nên tốt hơn, đại vương nên đem một ít quân cứu Triệu, Triệu cậy có Sở mạnh, tất chiến đấu với Nguỵ. Nguỵ thấy Triệu có thái độ đó, tất nổi giận; lại thấy cứu binh của Sở (ít) không đáng sợ, nhất định không tha Triệu. Như vậy Triệu và Nguỵ đều mệt mỏi. Tề và Tần sẽ hưởng ứng Sở và Nguỵ sẽ bị diệt.

Sở bèn sai Cảnh Xá đem binh cứu Triệu, Hàm Đan bị phá, và Sở chiếm được đất (của Nguỵ) từ sông Tuy đến sông Hối.

3       Hàm Đan: kinh đô của Triệu, bị Nguỵ vây.

4       Có bản chép là hợp «» (chứ không phải là linh «»), nghĩa là tập hợp binh lại.


7. GIANG ẤT GHÉT CHIÊU HỀ TUẤT

(Giang Ất ố Chiêu Hề Tuất)


Giang Ất ghét Chiêu Hề Tuất, bảo vua Sở:

- Một người có một con chó khéo giữ nhà nên cưng nó lắm. Con chó đó có lần đái vào giếng. Người hàng xóm thấy nó đái vào giếng, muốn vô mách chủ nhà. Con chó ghét người hàng xóm, đứng ở cửa mà sủa, người hàng xóm sợ, không vô mách được.

Trong trận Hàm Đan, Sở tiến quân mà chiếm Đại Lương. Chiêu Hề Tuất chiếm được những bảo khí của Nguỵ. Hồi đó thần ở Nguỵ nên biết được việc đó, vì vậy mà Chiêu Hề Tuất không muốn cho thần yết kiến đại vương.



8. GIANG ẤT GIÈM PHA CHIÊU HỀ TUẤT

(Giang Ất dục ố Chiêu Hề Tuất)


Giang Ất muốn gièm pha Chiêu Hề Tuất, nói với vua Sở:

- Người dưới mà kết đảng thì người trên nguy, người dưới mà chia rẽ tranh nhau thì người trên yên, đại vương biết điều đó chứ? Xin đại vương đừng quên. Có người thích khen cái hay của người khác thì đại vương xét người đó ra sao?

Vua đáp:

- Người đó là hạng quân tử, nên thân cận với.

Giang Ất hỏi:

- Có người ưa vạch cái xấu của người khác thì đại vương xét người đó ra sao?

Vua đáp:

- Người đó là hạng tiểu nhân, nên tránh xa ra.

Giang Ất bảo:

- Như vậy, nếu có đứa con giết cha, kẻ bề tôi giết vua, rồi rốt cuộc đại vương cũng không biết. Là tại sao? Tại đại vương chỉ thích nghe cái tốt mà không muốn nghe cái xấu của người.

Vua đáp:

- Phải. Quả nhân xin nghe cả hai.



9. AN LĂNG QUÂN XIN CHẾT THEO VUA

(Giang Ất thuế ư An Lăng Quân)


Giang Ất nói với An Lăng Quân 5 :

- Ông không có một thước đất, không có tình cốt nhục với vua, mà được hưởng địa vị tôn quí, bổng lộc hậu hĩnh, người trong nước thấy ông, ai cũng xốc áo mà vái, cúi mình mà chào, là nhờ đâu?

Đáp:

- Nhờ vua quá đề cử đấy thôi, nếu không thì đâu được vậy.

Giang Ất bảo:

- Dùng tiền bạc kết giao, hết tiền thì hết tình; dùng nhan sắc mà kết hợp, sắc suy thì tình đổi. Cho nên người ái thiếp thì chưa nát chiếu mà đã bị chồng đuổi; kẻ sủng thần thì chưa hư xe mà đã bị vua bỏ. Nay ông riêng được quyền lớn ở Sở mà chưa có gì thâm thiết giao kết với vua, tôi trộm lấy làm nguy cho ông!

An Lăng Quân hỏi:

- Vậy thì phải làm sao bây giờ?

Giang Ất đáp:

- Ông nên xin được chết với vua, đem thân mà tuẫn táng với vua, như vậy thì được trọng dụng hoài ở Sở.

- Xin tuân lời dạy bảo.

Ba năm sau, An Lăng Quân không hề nói gì với vua, Giang Ất lại tới thăm, bảo:

- Lời tôi nói với ông trước kia nay vẫn chưa làm, ông không dùng kế của tôi, tôi xin từ nay không dám yết kiến ông nữa.

An Lăng Quân đáp:

- Không dám quên lời dạy của tiên sinh, chỉ vì chưa có cơ hội đấy thôi.

Sau vua Sở đi săn ở Vân Mộng 6 , nghìn cỗ xe bốn ngựa nối tiếp nhau, cờ xí rợp trời, lửa đốt đồng nổi lên như mây ráng, huỷ 7 rống, cọp gầm vang như sấm động. Có một con huỷ cuồng nộ chạy theo xe vua, muốn đâm càn vào xe, vua giương cung bắn một phát chết. Vua rút ra một khúc cán cờ, đè lên đầu con huỷ rồi ngửa mặt lên trời, cười:

- Cuộc săn hôm nay vui quá! Quả nhân khi vạn tuổi rồi, còn vui với ai được như vậy nữa?

An Lăng Quân nước mắt ròng ròng, tiến lên tâu:

- Thần ở trong cung thì ngồi gần chiếu đại vương, ra ngoài thì ngồi hầu cùng xe với đại vương, đại vương vạn tuổi rồi, thần xin được tự đem thân xuống chốn suối vàng thử làm cái nệm che cho đại vương khỏi bị sâu kiến, cái vui đó so với cái vui này mới ra sao!

Vua Sở mừng, phong cho làm An Lăng Quân 8 .

Người quân tử nghe chuyện đó, bảo:

- Giang Ất giỏi bày mưu thật, mà An Lăng Quân giỏi lựa cơ hội thật.

5       An Lăng Quân: tên là Triền, người nước Sở, được phong ở đất An Lăng, nay thuộc tỉnh Hà Nam.

6       Vân Mộng: là tên hai cái hồ, Vân hồ ở Giang Bắc và Mộng hồ ở Giang Nam. Lại có thuyết rằng Vân Mộng tức Động Đình hồ. Ở đây nên theo thuyết sau.

7       Huỷ: là con tê cái.

8       Lúc đó Triền mới được phong là An Lăng Quân.


CHƯƠNG V - TRIỆU SÁCH

 

CHƯƠNG V

TRIỆU SÁCH

Tổ tiên của Triệu họ Doanh, trước làm quan nước Tấn.

Nhà Chu, Uy Liệt Vương (425-401) phong cho tước hầu 1 , từ đó Triệu thành một nước chư hầu, đô ở Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Trực Lệ), tới đời Triệu Tương Tử dời đô qua Tấn Dương (Sơn Tây ngày nay). Truyền ngôi được 182 năm rồi bị Tần diệt. Thời Chiến Quốc cũng là một trong thất hùng.

Đất của Triệu nay nằm trên các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây và Hà Nam (phía bắc sông Hoàng Hà).

1       Uy Liệt Vương (sách in sai thành Ung Liệt Vương): Năm 403, Chu Uy Liệt Vương phong hầu cho ba đại phu của nước Tấn là Triệu Tịch (tức Triệu Liệt hầu), Nguỵ Tư, Hàn Kiền.


TRIỆU I

2. TRÍ BÁ QUÁ THAM MÀ BỊ DIỆT

(Trí Bá suất Triệu, Hàn, Nguỵ)


Trí Bá thống lĩnh quân của ba nước Triệu, Hàn, Nguỵ, đánh hai họ Phạm và Trung Hàng và diệt được; vài năm sau, sai người qua Hàn đòi đất. Hàn Khang Tử định không cho, Đoàn Qui can:

- Không nên vậy. Trí Bá là con người ham lợi và hung bạo, hắn sai người lại đòi đất mà không cho thì hắn tất dấy binh đánh Hàn. Nhà vua nên cho hắn để hắn quen mùi, lại đòi đất của nước khác, nước khác không chịu, hắn tất đem binh đánh, như vậy Hàn tránh được hoạ mà đợi xem sự thể chuyển biến ra sao.

Khang Tử đáp:

- Hay!

Rồi sai sứ giả đem một ấp một vạn nhà dâng Trí Bá. Trí Bá mừng, lại sai người đòi đất của Nguỵ. Nguỵ Tuyên Tử định không cho. Triệu Gia can:

- Hắn đòi đất của Hàn, Hàn cho; nay đòi đất của Ngụy, Nguỵ không cho thì Nguỵ ở trong lòng là tự thị mình mạnh, mà ở ngoài là chọc giận Trí Bá; như vậy Trí Bá tất đem quân đánh Nguỵ! Không bằng cho hắn đi.

Tuyên Tử đáp:

- Phải.

Rồi sai người đem một ấp một vạn nhà cho Trí Bá. Trí Bá mừng, lại sai người qua Triệu; đòi đất Thái và Cao Lăng 2 . Triệu Tương Tử không cho, Trí Bá bèn lén liên minh với Hàn, Nguỵ định đánh Triệu.

Triệu Tương Tử vời Trường Mạnh Đàm vô cho hay và bảo:

- Trí Bá là con người lá mặt lá trái, ba lần sai sứ giả đi đòi đất, Hàn, Nguỵ cho mà quả nhân không cho, thế nào hắn cũng đem binh qua đánh Triệu, chúng ta nên đề phòng cách nào bây giờ?

Trương Mạnh Đàm đáp:

- Xưa Đổng Ất An Vu 3 là bề tôi giỏi của Giản Chúa 4 . Ông ta cai trị đất Tấn Dương, sau Doãn Trạch 5 theo chính sách của ông ta, tới nay đất đó còn giữ được chính giáo cũ, nhà vua nên thiên đô lại Tấn Dương.

Vua đáp:

- Phải.

CHƯƠNG VI - NGUỴ SÁCH

 

CHƯƠNG VI

NGUỴ SÁCH

Thời Xuân Thu vua Tấn phong Tất Vạn ở Nguỵ, thành cũ nay thuộc tỉnh Sơn Tây, các đời sau làm đại phu ở Tấn. Đời Chu Uy Liệt Vương (425-401), Nguỵ và Triệu chia nước Tấn, đứng vào hàng chư hầu, đóng đô ở An Ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Thời Chiến Quốc, Nguỵ là một trong thất hùng. Sau dời đô qua Đại Lương, gọi là nước Lương. Cuối đời Chiến Quốc bị Tần diệt.

Nước Nguỵ nằm một phần trên tỉnh Hà Nam, một phần trên tỉnh Sơn Tây ngày nay.



NGUỴ I

1. TRÍ BÁ VÌ THAM VÀ KIÊU MÀ MẤT NƯỚC

(Trí Bá sách địa ư Nguỵ Hoàn Tử)


Trí Bá đòi Nguỵ Hoàn Tử cắt đất cho mình, Nguỵ Hoàn Tử không cho. Nhiệm Chương 1 hỏi:

- Sao không cho?

Hoàn Tử đáp:

- Vô cố mà đòi đất, cho nên không cho.

- Hắn vô cố mà đòi đất thì các nước láng giềng sẽ sợ vì được rồi hắn lại muốn nữa, không bao giờ cho là đủ, mà rồi thiên hạ sẽ hoảng. Nhà vua cứ cho đất đi, Trí Bá tất sẽ kiêu căng, kiêu căng thì khinh địch; các nước láng giềng hoảng sợ thì sẽ kết thân với nhau mà đợi quân của một nước khinh địch, mạng của Trí Bá không thọ được đâu! Chu Thư có câu: “Muốn hại nó thì hãy tạm giúp nó; muốn chiếm lấy nó thì hãy tạm cho nó”. Nhà vua nên cho đi để Trí Bá hoá kiêu căng. Sao nhà vua lại bỏ lỡ cơ hội cùng với thiên hạ diệt Trí Bá mà ngược lại để Trí Bá đem riêng nước ta ra làm cái đích 2 .

Vua bảo: “Phải”, rồi tặng Trí Bá một ấp vạn nóc nhà. Trí Bá rất mừng rồi quen mùi đòi Triệu những đất Thái, Cao, Lương. Triệu không cho, Trí Bá bèn vây Tấn Dương; Hàn, Nguỵ phản Trí Bá ở ngoài, Triệu tiếp ứng ở trong, họ Trí bị diệt 3 .

Hàn, Triệu tranh chấp với nhau, Hàn đòi mượn binh của Nguỵ, bảo:

- Xin cho mượn binh để đánh Triệu.

Nguỵ Văn Hầu đáp:

- Nước quả nhân và Triệu là anh em với nhau, nên không dám vâng lời.

Triệu cũng đòi mượn binh để đánh Hàn. Văn Hầu đáp:

- Nước quả nhân với Hàn là hai anh em với nhau, nên không dám dâng lời.

Hàn, Triệu xin mượn binh mà không được, đều giận mà đem binh về, sau mới biết rằng, Nguỵ Văn Hầu ở giữa muốn giải hoà cho hai bên, nên đều triều phục Nguỵ.

1       Nhiệm Chương: là tể tướng của Nguỵ.

2       Ý nói: nếu không cho thì Trí Bá sẽ đánh Nguỵ, Nguỵ phải chịu nguy một mình, không nước nào cứu; để tới lúc các nước khác cùng oán Trí Bá, lúc đó sẽ hợp lực nhau đánh Trí Bá thì hơn.

3       Coi bài Triệu I 2. Phần trên bài này, (tới: họ Trí bị diệt) có chép trong thiên Thuyết lâm thượng, bộ Hàn Phi Tử.


CHƯƠNG VII - HÀN SÁCH

 

CHƯƠNG VII

HÀN SÁCH

Thời Xuân Thu, vua Tấn phong Hàn Vũ Tử ở đất Hàn Nguyên (nay thuộc tỉnh Thiểm Tây), các đời sau, họ Hàn làm quan đại phu cho Tấn.

Tới đời Chu Uy Liệt Vương (425-401), Hàn cùng với Triệu, Nguỵ chia ba nước Tấn, xưng làm vua chư hầu, (cho nên gọi là Tam Tấn). Thời Chiến Quốc, Hàn là một trong thất hùng, đóng đô ở Bình Dương (nay thuộc tỉnh Sơn Tây), sau dời đô qua Dương Dịch (nay thuộc tỉnh Hà Nam), rồi qua Tân Trịnh (cũng thuộc tỉnh Hà Nam), cho nên có chỗ gọi Hàn là Trịnh. Thời thịnh nhất, đất Hàn gồm một phần tỉnh Thiểm Tây và một phần tỉnh Hà Nam ngày nay.

Sau cùng bị Tần diệt.



HÀN I

5. TÔ TẦN THUYẾT VUA HÀN THEO HỢP TUNG

(Tô Tần vi Sở hợp tung)

 

Tô Tần thay vua Sở thuyết vua Hàn (Tuyên Nguỵ Vương) theo kế hoạch hợp tung:

- Hàn, phía bắc có các miền Củng, Lạc 1 , Thành Cao kiên cố, phía tây có Nghi Dương và Thường Bản 2 hiểm yếu, phía đông có đất Uyển, đất Nhương 3 , và sông Vị, phía nam có núi Hình; đất rộng ngàn dặm, binh số tới mười vạn. Cung cứng nỏ mạnh trong thiên hạ đều sản xuất ở Hàn; các loại tên Khê tử, Thiếu phủ, Thời lực và Cư lai 4 đều bắn được xa ngoài sáu trăm bước. Quân Hàn đưa chân mà đạp nỏ 5 thì liên tiếp trăm phát không ngừng, xa thì bắn trúng bụng, gần thì xuyên qua tim. Kiếm và kích của Hàn đều sản xuất ở Minh Sơn, Thường Khê 6 , Mặc Dương và Hợp Bá 7 ; những kiếm Đặng Sư 8 , Uyển Phùng 9 chế tạo, những cây Long Uyên, Thái A 10 đều có thể ở trên cạn thì chém đứt ngựa, bò, ở dưới nước thì chém đứt chim hộc, chim nhạn; khi chiến đấu thì chém đứt những chiếc giáp cứng, những chiếc mộc, chiếc ủng bằng da, những giáp sắt che cánh tay, những áo da che vai, lườn, những dây đai cột mộc, (như vậy khí giới) không có gì là không đủ.

Quân Hàn dũng cảm mà bận áo giáp cứng, đạp nỏ mạnh, đeo kiếm sắc, thì một người chống nổi trăm người, điều đó chẳng cần phải nói nữa. Hàn cường thịnh mà đại vương lại hiền năng, vậy mà muốn hướng về phía tây thờ Tần, tự xưng là thần thuộc ở phía đông, xây cất hành cung cho Tần, chịu nhận áo mão cân đai của Tần, mùa xuân và mùa thu tiến cống, cung cấp đồ tế tự cho Tần, chắp tay đứng hầu Tần, làm nhục xã tắc mà bị thiên hạ cười chê, tới vậy là cùng cực, cho nên tôi xin đại vương nghĩ kỹ lại xem.

Đại vương chịu thờ Tần thì Tần tất đòi đất Nghi Dương, Thành Cao, nay đem dâng hắn thì sang năm hắn lại đòi cắt thêm nữa cho tới khi hết đất mới thôi; nếu không cho thì công trước của mình 11 sẽ mất toi mà còn chịu thêm hoạ về sau nữa. Vả lại đất của đại vương có hạn mà lòng tham của Tần thì vô cùng. Lấy số đất có hạn để đáp sự đòi hỏi vô cùng, như vậy là “chuốc oán mua hoạ”, rốt cuộc là chẳng có chiến tranh mà đất cũng bị chiếm đoạt hết! Tôi nghe tục ngữ có câu: “Thà làm mỏ gà còn hơn là làm mông bò”. Nay đại vương hướng về tây, khoanh tay mà thờ Tần, thì có khác gì làm mông con bò đâu. Hiền minh như đại vương, có quân đội cường thịnh như Hàn mà chịu mang cái tiếng làm mông con bò, tôi trộm xấu hổ thay cho đại vương!

Vua Hàn tím mặt, nổi giận, vung tay, nắm chặt cây kiếm, ngửa mặt lên trời, than:

- Quả nhân dù chết chứ nhất định không chịu thờ Tần; nay ông lại cho quả nhân hay lời chỉ giáo của vua Sở 12 , xin kính cẩn đem xã tắc để theo.

1       Củng và Lạc là những đất hiểm yếu, nay thuộc Hà Nam.

2       Thường Bản cũng gọi là Thương Bản, hoặc Thương Sơn, Thương Lạc Sơn, là một nhánh của Chung Nam Sơn, nay thuộc tỉnh Thiểm Tây.

3       Nhương là tên đất, nay ở Hà Nam.

4       Bốn loại tên đó đều rất tốt, có danh tiếng.

5       Có sách giảng là: khi bắn tên đưa chân ra phía sau để lấy đà.

6       Thường Khê nay ở Hà Nam.

7       Bốn nơi đó đều sản xuất những thứ kiếm rất quí. Mặc Dương sản xuất loại kiếm “mạc da”.

8       Đặng Sư: Đặng là tên nước, nay ở Hà Nam. Đặng Sư là tên một người giỏi chế tạo kiếm ở nước Đặng.

9       Uyển Phùng: Uyển là tên nước nay ở Hà Nam; nước đó có một người tên là Phùng Trì giỏi chế tạo kiếm, nên gọi người đó là Uyển Phùng.

10     Long Uyên, Thái A: vua Sở nghe tiếng nước Ngô có một người tên là Can Tướng, nước Việt có một người tên là Âu Dã, đều giỏi chế tạo kiếm, bèn sai người đi mời hai người đó lại chế tạo cho hai cây kiếm tốt, tức cây Long Uyên và Thái A.

11     Ý nói công tặng đất trước kia cho Tần.

12     Tức Sở Uy Vương.


CHƯƠNG VIII - YÊN SÁCH


CHƯƠNG VIII

YÊN SÁCH

Tổ tiên vua Yên họ Ki, đời Chu được phong tước Bá, thành nước chư hầu, đô ở đất Tô, nay thuộc tỉnh Hà Bắc. Truyền ngôi được chín trăm năm, sau bị Tần diệt.



YÊN I

1. TÔ TẦN THUYẾT VUA YÊN THEO HỢP TUNG

(Tô Tần tương vi tung)


Tô Tần muốn hợp tung các nước chư hầu, lên phía bắc thuyết vua Yên Văn Hầu:

- Nước Yên phía đông có Triều Tiên, Liêu Đông 1 , phía bắc có Lâm Hồ, Lâu Phiền 2 , phía Tây có Vân Trung, Cửu Nguyên, phía nam có Hô Đà, Dịch Thuỷ 3 , đất vuông trên hai ngàn dặm, quân lính được vài chục vạn, binh xa được bảy trăm cỗ, chiến mã được sáu ngàn con, lúa thóc đủ chi dùng trong mười năm. Phía nam có miền Kệ Thạch, Nhạn Môn 4 phì nhiêu, phía bắc sản xuất táo và lật 5 , nhân dân tuy không cày ruộng mà trồng táo, lật cũng đủ ăn, như vậy gọi là cái kho của trời.

Cái cảnh quốc gia an lạc, khỏi phải lo lắng thấy quân bị diệt, tướng bị giết, không đâu hơn nước Yên. Đại vương hiểu tại sao được vậy không? Yên Sở dĩ không bị giặc cướp xâm phạm, là nhờ có Triệu che chở cho ở phía nam. Tần và Triệu đánh nhau năm lần, Tần thắng hai lần, Triệu thắng ba lần; Tần và Triệu đều mệt mỏi, khốn đốn mà đại vương dùng toàn lực của Yên khống chế họ ở phía sau. Yên không bị xâm phạm, nguyên do ở đó. Vả lại Tần muốn đánh Yên thì phải vượt Vân Trung, Cửu Nguyên, qua miền Đại và Thượng Cốc, toàn là những đất xa xôi, đi liên tiếp mấy ngàn dặm, dù có chiếm được thành của Yên thì Tần cũng không có cách nào giữ được; vậy Tần không thể hại Yên được, lẽ ấy cũng đã rõ. (Trái lại, nếu) nay Triệu đánh Yên, lệnh xuất quân ban bố rồi thì không đầy mười ngày sau vài chục vạn quân đã tới Đông Viên, qua Hồ Đà và sông Dịch rồi thì không đầy bốn năm ngày sau, đã tới sát kinh đô của Yên; cho nên tôi bảo rằng Tần đánh Yên thì chiến trường ở ngoài ngàn dặm, còn Triệu mà đánh Yên thì chiến trường ở trong trăm dặm. Không lo cái hoạ ở trong trăm dặm mà coi nặng cái hoạ ở ngoài ngàn dặm, không còn gì lầm lớn hơn thế nữa. Cho nên tôi xin đại vương hợp tung, kết thân với Triệu để xin các nước trong thiên hạ hợp nhất, như vậy nước Yên tất không phải lo lắng gì cả.

Vua Yên bảo:

- Nước của quả nhân nhỏ, phía tây bị cường Tần áp bách 6 , phía nam giáp Tề và Triệu, hai nước này đều là cường quốc. Nay chủ quân 7 vui vẻ chỉ giáo cho chính sách hợp tung để nước được an, quả nhân xin đem nước Yên để hợp tung.

Rồi tặng Tô Tần xe ngựa, vàng lụa để Tô Tần về Triệu.

1       Liêu Đông: đây là miền đông sông Liêu Hà, nay thuộc Phụng Thiên, Liêu Thẩm. Liêu Hà ở trên biên giới của Triều Tiên thời đó.

2       Lâm Hồ và Lâu Phiền: là tên những nước nhỏ ở phương bắc thời đó.

3       Dịch Thuỷ: có ba nguồn, gọi là Trung Dịch, Nam Dịch, Bắc Dịch. Nam Dịch chảy vô Nam Hải.

4       Nhạn Môn: cũng là tên núi, nay ở Sơn Tây.

5       Lật là một loại cây, trái lớn mà có gai, ăn được.

6       Phía tây, Yên giáp Triệu và Trung Sơn chứ đâu có giáp Tần.

7       Chỉ Tô Tần.