CHƯƠNG VI
NGUỴ SÁCH
Thời Xuân Thu vua Tấn
phong Tất Vạn ở Nguỵ, thành cũ nay thuộc tỉnh Sơn Tây, các đời sau làm đại phu ở
Tấn. Đời Chu Uy Liệt Vương (425-401), Nguỵ và Triệu chia nước Tấn, đứng vào
hàng chư hầu, đóng đô ở An Ấp (nay thuộc tỉnh Sơn Tây). Thời Chiến Quốc, Nguỵ
là một trong thất hùng. Sau dời đô qua Đại Lương, gọi là nước Lương. Cuối đời
Chiến Quốc bị Tần diệt.
Nước Nguỵ nằm một phần
trên tỉnh Hà Nam, một phần trên tỉnh Sơn Tây ngày nay.
NGUỴ I
1. TRÍ BÁ VÌ THAM VÀ
KIÊU MÀ MẤT NƯỚC
(Trí Bá sách địa ư
Nguỵ Hoàn Tử)
Trí Bá đòi Nguỵ Hoàn Tử
cắt đất cho mình, Nguỵ Hoàn Tử không cho. Nhiệm Chương 1 hỏi:
- Sao không cho?
Hoàn Tử đáp:
- Vô cố mà đòi đất, cho
nên không cho.
- Hắn vô cố mà đòi đất
thì các nước láng giềng sẽ sợ vì được rồi hắn lại muốn nữa, không bao giờ cho
là đủ, mà rồi thiên hạ sẽ hoảng. Nhà vua cứ cho đất đi, Trí Bá tất sẽ kiêu
căng, kiêu căng thì khinh địch; các nước láng giềng hoảng sợ thì sẽ kết thân với
nhau mà đợi quân của một nước khinh địch, mạng của Trí Bá không thọ được
đâu! Chu Thư có câu: “Muốn hại nó thì hãy tạm giúp nó; muốn
chiếm lấy nó thì hãy tạm cho nó”. Nhà vua nên cho đi để Trí Bá hoá kiêu căng.
Sao nhà vua lại bỏ lỡ cơ hội cùng với thiên hạ diệt Trí Bá mà ngược lại để Trí
Bá đem riêng nước ta ra làm cái đích 2 .
Vua bảo: “Phải”, rồi tặng
Trí Bá một ấp vạn nóc nhà. Trí Bá rất mừng rồi quen mùi đòi Triệu những đất
Thái, Cao, Lương. Triệu không cho, Trí Bá bèn vây Tấn Dương; Hàn, Nguỵ phản Trí
Bá ở ngoài, Triệu tiếp ứng ở trong, họ Trí bị diệt 3 .
Hàn, Triệu tranh chấp với
nhau, Hàn đòi mượn binh của Nguỵ, bảo:
- Xin cho mượn binh để
đánh Triệu.
Nguỵ Văn Hầu đáp:
- Nước quả nhân và Triệu
là anh em với nhau, nên không dám vâng lời.
Triệu cũng đòi mượn
binh để đánh Hàn. Văn Hầu đáp:
- Nước quả nhân với Hàn
là hai anh em với nhau, nên không dám dâng lời.
Hàn, Triệu xin mượn
binh mà không được, đều giận mà đem binh về, sau mới biết rằng, Nguỵ Văn Hầu ở
giữa muốn giải hoà cho hai bên, nên đều triều phục Nguỵ.
1 Nhiệm Chương:
là tể tướng của Nguỵ.
2 Ý nói: nếu không
cho thì Trí Bá sẽ đánh Nguỵ, Nguỵ phải chịu nguy một mình, không nước nào cứu;
để tới lúc các nước khác cùng oán Trí Bá, lúc đó sẽ hợp lực nhau đánh Trí Bá
thì hơn.
3 Coi bài Triệu
I 2. Phần trên bài này, (tới: họ Trí bị diệt) có chép trong thiên Thuyết lâm
thượng, bộ Hàn Phi Tử.
2. NHẠC DƯƠNG ĂN THỊT
CON
(Nhạc Dương vi Nguỵ
tướng)
Nhạc Dương là tướng nước
Nguỵ, đem quân đánh nước Trung Sơn. Con ông ta ở Trung Sơn. Vua Trung Sơn đem mổ
thịt người con đó, nấu canh, gởi cho Nhạc Dương. Nhạc Dương ngồi ở dưới trướng,
húp hết một tô. Nguỵ Văn Hầu bảo Đổ Sư Tán:
- Nhạc Dương vì ta mà
ăn thịt con.
Tán đáp:
- Thịt con mà ông ấy
còn ăn được thì thịt ai ông ấy không ăn?
Nhạc Dương đánh bại
quân Trung Sơn rồi, Văn Hầu thưởng công nhưng nghi lòng 4 .
4 Bài này có
chép trong Thuyết lâm thượng, bộ Hàn Phi Tử.
4. NGUỴ VĂN HẦU GIỮ LỜI
HẸN
(Văn Hầu dữ ngu nhân
kì liệp)
Nguỵ Văn Hầu hẹn với
viên quan coi rừng núi một ngày để săn bắn. Đúng hôm ấy, Nguỵ Văn Hầu uống rượu,
rất vui, mà trời lại mưa, nhưng cũng sửa soạn ra đi. Kẻ tả hữu hỏi:
- Hôm nay uống rượu
vui, trời lại mưa, nhà vua đi đâu?
Văn Hầu đáp:
- Ta đã hẹn với viên
quan coi rừng núi hôm nay đi săn, mặc dầu uống rượu vui, đâu có bỏ được buổi hẹn.
Rồi đích thân đi lại
viên quan coi rừng núi cho hay là bỏ cuộc săn bắn. Từ đó nước Nguỵ bắt đầu mạnh.
6. ĐỊA THẾ KHÔNG QUAN
TRỌNG BẰNG CHÍNH TRỊ
(Nguỵ Vũ Hầu dữ chư
đại phu phù ư Tây Hà)
Nguỵ Vũ Hầu 5 cùng với các quan đại phu chơi thuyền ở
Tây Hà 6 , khen rằng:
- Núi sông hiểm trở thế
này; quả là kiên cố!
- Nước Tấn sở dĩ mạnh
là nhờ địa thế hiểm trở; nếu khéo sửa sang thì sự nghiệp bá vương có thể thành
được.
Ngô Khởi trách:
- Lời của vua chúng ta
là cái cơ nguy cho quốc gia, mà ông còn phụ hoạ vào, làm cho quốc gia thêm
nguy.
Vũ Hầu nổi giận, hỏi:
- Ông nói như vậy có lý
do gì không?
Ngô Khởi đáp:
- Núi sông hiểm trở,
không đủ để giữ gìn quốc gia, sự nghiệp bá vương không nhờ vào đó mà thành.
Xưa, đất đai của Tam Miêu phía trái có hồ Bành Lãi 8 , phía mặt có hồ Động Đình; núi Văn Sơn ở
phía nam, núi Hành Sơn ở phía bắc 9 ; ỷ vào địa thế hiểm trở đó mà chính trị
không tốt, nên bị vua Vũ đuổi đi. Nước của vua Kiệt nhà Hạ phía trái là mặt bắc
của núi Thiên Môn 10 , phía phải là mặt nam của miền Thiên
Khê 11 , núi Lư, núi Thạch ở phía bắc, sông Y,
sông Lạc 12 chảy ở phía nam, địa thế hiểm trở như vậy
đó, nhưng chính trị không tốt nên vua Thang diệt được. Nước của vua Trụ nhà Ân
phía trái có núi Mạnh Môn 13 , phía mặt có sông Chương, sông Phủ, mặt
nhìn ra sông, lưng dựa vào núi, địa thế hiểm trở như vậy đó mà chính trị không tốt,
cho nên vua Võ diệt được. Vả lại vua thân chinh cùng với bề tôi chiếm được một
thành đầu hàng nào đó thì có thành nào là không cao, dân chúng nào là không
đông; sở dĩ thôn tính được cũng là do chính trị của địch xấu. Lấy đó mà xét thì
địa thế hiểm trở đâu có đủ để làm bá vương.
Vũ Hầu khen:
- Phải. hôm nay ta mới
được nghe lời thánh nhân. Ta uỷ thác riêng cho ông mọi việc ở Tây Hà đấy.
5 Nguỵ Vũ Hầu là
con Nguỵ Văn Hầu.
6 Tây Hà: ở phía
tây Kí Châu.
7 Có sách chép
là Vương Thác.
8 Hồ Bành Lãi:
cũng gọi là hồ Bà Dương, ở Giang Tây, dài 200 dặm.
9 Theo sách Hàn
Thi ngoại truyện thì Hành Sơn ở phía nam; Văn Sơn, tức Kỳ Sơn ở phía bắc. Kỳ
Sơn nay thuộc tỉnh Thiểm Tây, Hành Sơn ở Hồ Nam.
10 Núi Thiên Môn:
ở tỉnh Hồ Nam.
11 Miền Thiên
Khê: có lẽ là miền Thiên Trì ở Sơn Tây.
12 Sông Y xuất
phát từ Hà Nam, chảy vô sông Lạc; sông Lạc xuất phát từ Thiểm Tây, chảy vô
Hoàng Hà.
13 Núi Mạnh Môn:
tức núi Thái Hàng Sơn (theo sách Phương dư kỷ yếu).
9. TÔ TẦN THUYẾT VUA
NGUỴ HỢP TUNG
(Tô Tử vi Triệu hợp
tung)
Tô Tử 14 mưu việc hợp tung cho Triệu, thuyết vua
Nguỵ (Tương Vương):
- Nước của đại vương
phía nam có sông Hồng Câu 15 , sông Nhữ 16 của nước Trần, có Hứa, Yên, Côn Dương,
Thiệu Lăng, Vũ Dương và Tân Thê; phía đông có sông Hoài, sông Doảnh 17 , sông Nghi, Hoàng, Chử Tảo, Hải Diêm, Vô
Sơ; phía tây có trường thành làm ranh giới, phía bắc có đất Quyển, Diễn và Toan
Tảo; đất rộng ngàn dặm. Đất tiếng là nhỏ nhưng đều là nhà cửa, vườn ruộng, ít
có chỗ nào hoang dã chỉ để chăn ngựa, thả bò. Nhân dân đông, ngựa xe nhiều,
ngày đêm qua lại không ngớt, nườm nượp không khác gì quân lính.
Tôi trộm nghĩ rằng nước
của đại vương không kém nước Sở. Vậy mà bọn người theo chính sách liên hoành,
mưu tính việc nước, khiến cho nhà vua ở ngoài thì kết giao với nước Tần cường bạo
như hổ lang, xâm lược thiên hạ; tới khi thình lình nước gặp tai hoạ thì họ chẳng
chịu tội vạ gì cả. Họ dựa vào cái thế của cường Tần, ở trong thì áp bách vua,
không có tội nào nặng bằng tội đó. Vả lại Nguỵ là nước mạnh trong thiên hạ. Đại
vương là bậc vua hiền minh, thế mà nay lại có ý muốn hướng về phía tây mà thờ Tần,
tự xưng là thân thuộc ở phía đông, xây cất hành cung để đón Tần, nhận áo mão,
cân đai của Tần, xuân thu hai kỳ nộp cống để cung phụng việc tế tự cho Tần, tôi
trộm lấy làm xấu hổ cho đại vương!
Tôi nghe Việt Vương Câu
Tiễn dùng ba ngàn quân tán loạn mà bắt được Ngô Vương Phù Sai ở Can Toại; vua
Võ Vương nhà Chu chỉ có ba ngàn binh và năm trăm cổ xe bằng da mà chém được vua
Trụ ở Mục Dã, các ông đó đâu có cần quân lính cho nhiều, mà thực đã chấn phát
được uy phong.
Nay tôi trộm nghe quân
lính của đại vương, hạng võ sĩ có trên hai chục vạn, hàng đầu quấn khăn xanh có
hai chục vạn, hạng xung phong có hai chục vạn, hạng làm các việc vặt có mười vạn,
binh xa có sáu trăm cổ, chiến mã có năm ngàn con, nhiều hơn Việt Vương Câu Tiễn
và Võ Vương nhà Chu xa mà!
Nay đại vương bị bọn sủng
thần áp bách, mà nghe lời họ, muốn thờ Tần; muốn thờ Tần thì trước hết phải cắt
đất dâng Tần, gởi vương tử làm con tin ở Tần, thế là chưa hề dùng binh mà nước
đã bị hao tổn! Quần thần kẻ nào chủ trương thờ Tần đều là gian thần, không phải
trung thần. Làm bề tôi cắt đất của vua để kết giao với nước ngoài, lấy trộm được
cái công một ngày mà không nghĩ đến sao này ra sao, phá hoại của công mà làm của
riêng, ở ngoài thì dựa vào uy thế của cường Tần, để áp bách vua ở trong, bắt
vua phải cắt đất, xin đại vương xét kĩ điều đó.
Sách Chu Thư có
câu: “Liên miên, bất tuyệt, chằng chịt gỡ bằng cách nào đây? Khi nó mới manh
nha mà không nhổ đi thì nó lớn bằng cái cán búa. Không biết lo trước đi thì sau
tất có hoạ lớn. Biết làm sao đây?”. Nếu đại vương biết nghe tôi, sáu nước hợp
tung kết thân với nhau, chuyên tâm góp sức thì sẽ không có cái hoạ cường Tần.
Cho nên Triệu Vương của tệ quốc sai tôi dâng kế ngu lên đại vương, cùng nhau
liên kết xin đợi lệnh đại vương.
Vua Nguỵ đáp:
- Quả nhân bất tiếu
chưa từng được nghe lời dạy bảo sáng suốt, nay ngài đem mệnh lệnh của Triệu
Vương lại bảo cho quả nhân, kính xin đem nước Nguỵ mà theo lệnh.
14 Tức Tô Tần.
15 Sông Hồng Câu:
cũng gọi là Lang Đãng, ở tỉnh Hà Nam.
16 Sông Nhữ: cũng
ở Hà Nam. Sông này ở nước Nguỵ thời đó, không phải ở nước Tần. Theo Hứa Khiếu
Thiên thì nói như vậy là khoe khoang (?).
17 Ta quen đọc là
Dĩnh.
10. TRƯƠNG NGHI THUYẾT
VUA NGUỴ THEO LIÊN HOÀNH
(Trương Nghi vi Tần
liên hoành)
Trương Nghi mưu việc
liên hoành cho Tần, thuyết vua Nguỵ (Ai Vương):
- Đất Nguỵ vuông không
đầy ngàn dặm, binh không quá ba vạn người; bốn bề đều là đồng bằng thông với
các nước chư hầu như các tay hoa tụ lại ở bầu xe, không có núi cao sông rộng
ngăn cách. Từ Trịnh tới Lương không đầy trăm dặm, từ Trần tới Lương chỉ được
hai trăm dặm 18 , rong ngựa mà chạy thì người ngựa chưa mệt
đã tới Lương. Phía nam Nguỵ tiếp với Sở, phía tây tiếp với Hàn, phía bắc tiếp với
Triệu, phía đông tiếp với Tề, phải đặt lính thú ở bốn mặt. Những nơi hiểm yếu,
phải xây thành đắp luỹ liên tiếp nhau thành hàng, phải đào kinh vận tải lương
thực, phải cất lẫm để chứa lúa thóc, số lẫm không dưới mười vạn. Theo địa thế,
Nguỵ vốn là chiến trường; nếu ở phía nam Nguỵ liên hiệp với Sở mà không liên hiệp
với Tề, thì Tề tất đánh Nguỵ ở phía đông; nếu phía đông liên hợp với Tề mà
không liên hiệp với Triệu thì Triệu tất đánh Nguỵ ở phía bắc; không liên hiệp với
Hàn thì Hàn đánh ở phía Tây; không thân với Sở thì Sở đánh ở phía nam; thế đó gọi
là thế chia bốn xẻ năm!
Vả lại chư hầu mưu tính
việc hợp tung là để xã tắc được yên, vua được tôn quí, binh lực được cường thịnh,
thanh danh được hiển dương. Hợp tung là hợp nhất thiên hạ, cùng thề với nhau
làm anh em, giết ngựa trắng để ăn thề trên sông Viên Thuỷ mà giữ vững lòng tin.
Đã thân với nhau như anh em ruột thịt mà còn tranh nhau về tiền tài, muốn dùng
gian trá để phản phúc, đó là mưu kế còn sót lại của Tô Tần 19 , không thể thành công được, lẽ đó rõ
ràng quá.
Đại vương mà không thờ
Tần, Tần sẽ đem binh đánh Hà Ngoại, chiếm Quyển Diễn, Yên và Toan Tảo, áp chế Vệ
mà cướp Tấn Dương, thì Triệu không xuống phía nam được; Triệu không xuống phía
nam được thì Nguỵ không lên phía bắc được; Nguỵ không lên phía bắc được thì
chính sách hợp tung hết thi hành được; chính sách hợp tung hết thi hành được
thì nước của đại vương, muốn cầu cho khỏi nguy là điều không được. Tần kẹp cứng
Hàn rồi mà đánh Nguỵ, Hàn bị Tần áp chế, không dám không nghe lời Tần, Hàn với
Tần đã hợp nhất thì sự diệt vong của Nguỵ có thể ngồi đó mà đợi nó xảy ra. Đó
là điều mà tôi lo giùm đại vương! Vì đại vương mà mưu tính thì không gì bằng thờ
Tần. Thờ Tần thì Sở, Hàn không dán vọng động. Không lo về phía Sở, Hàn nữa thì
đại vương gối cao ngủ kỹ, nhất định không có gì phải ưu tư cả.
Vả lại Tần muốn làm cho
suy yếu nhất là nước Sở, mà có thể làm cho Sở suy yếu thì không gì bằng nước
Nguỵ. Sở tuy có tiếng là cường đại phú túc, kỳ thực là rỗng không, quân lính
tuy nhiều nhưng chỉ ham nói, mà dễ đánh cho chạy dài, không dám quyết chiến.
Binh của Nguỵ mà tiến đánh về phía nam thì nhất định là thắng Sở. Làm cho Sở
suy tổn để cho Nguỵ cường đại lên, đánh Sở để làm vui lòng Tần, đem cái hoạ của
mình gán cho người để cho nước mình được yên, đó là một việc tốt.
Nếu đại vương không
nghe lời tôi, Tần sẽ đem binh qua phía đông, lúc đó dù muốn thờ Tần thì cũng
không được nữa!
Vả lại bọn người chủ
trương hợp tung kia phần lớn là ăn nói huênh hoang mà ít người đáng tin. Nhận
đi thuyết phục một vua chư hầu thì được ban xe để đi, dụ được một nước kết ước
để phản Tần thì khi về được phong hầu. Vì vậy mà kẻ du sĩ trong thiên hạ không
ai là không ngày đêm nắm tay, trợn mắt, nghiến răng bàn về cái lợi của chính
sách hợp tung, để thuyết phục các vua chúa. Vua chúa nghe họ nói, bị lời họ lôi
cuốn, làm sao mà không mê hoặc cho được. Tôi nghe nói rằng: “Chất lông nhiều
quá có thể làm chìm thuyền”, “Vật nhẹ mà nhiều cũng làm cho gẫy xe, nhiều người
nói quá thì vàng cũng chảy” 20 ; cho nên tôi xin đại vương mưu tính kỹ
đi.
Vua Nguỵ đáp:
- Quả nhân ngu xuẩn,
trước kia tính bậy. Nay xin làm thần thuộc của Tần ở phương đông, xây cất hành
cung để đón Tần, nhận áo mão cân đai của Tần, xuân thu nhị kỳ tiến cống để cung
phụng việc tế tự của Tần và xin nhượng cho Tần đất Hà Ngoại.
18 Theo Sử ký của
Tư Mã Thiên thì là: từ Trịnh tới Lương trên hai trăm dặm; không có câu: từ Trần
tới Lương chỉ được hai trăm dặm.
19 Lúc đó Tô Tần
đã bị giết rồi, cho nên nói vậy.
20 Ý nói huống hồ
là lòng người.
16. TRƯƠNG SỬU KHÔNG MUỐN
CHO TRƯƠNG NGHI VÔ NGUỴ
(Trương Nghi tẩu chi
Nguỵ)
Trương Nghi chạy qua
Nguỵ, vua Nguỵ muốn đón. Trương Sửu can vua Nguỵ đừng cho Trương Nghi vô nước,
vua Nguỵ không nghe. Trương Sửu lui ra rồi lại vô can lần nữa:
- Nhà vua có biết người
thiếp già thờ vợ cả ra sao không? Con đã lớn mà sắc mình thì suy, chỉ còn cách
cải giá mà thôi. Nay tôi thờ nhà vua cũng như người thiếp già thờ người vợ cả vậy
thôi!
Vua bèn không cho
Trương Nghi vô nước.
18. UNG THƯ THUYẾT TỀ,
SỞ ĐỪNG ĐÁNH NGUỴ
(Trương Nghi
dĩ Tần tướng Nguỵ)
Trương Nghi nhờ thế lực
của vua Tần (Huệ Vương) mà được làm tướng quốc nước Nguỵ. Tề và Sở bất bình, muốn
đánh Nguỵ. Ung Thư bảo Trương Nghi:
- Nước Nguỵ sở dĩ dùng
ông làm tướng quốc vì nghĩ rằng ông làm tướng quốc thì nước yên và trăm họ khỏi
lo. Nhưng nay ông làm tướng quốc mà Nguỵ chịu binh hoạ, vậy là Nguỵ đã tính lầm
rồi. Tề, Sở đánh Nguỵ thì ông sẽ nguy đấy.
Trương Nghi hỏi:
- Vậy thì phải làm sao?
Ung Thư đáp:
- Xin cho tôi thuyết Tề,
Sở để Tề, Sở bỏ việc tấn công Nguỵ.
(Trương Nghi bằng lòng
và) Ung Thư bảo vua Tề, vua Sở:
- Nhà vua có biết
Trương Nghi kết ước với vua Tần ra sao không? Kết ước rằng: “Nếu đại vương sai
tôi làm tướng quốc ở Nguỵ thì Tề, Sở ghét Nghi tôi, tất đánh Nguỵ. Nguỵ mà thắng
thì binh Tề, Sở tan tành, mà Nghi tôi sẽ làm tướng quốc ở Nguỵ được hoài; nếu
không thì Nguỵ sẽ phải thờ Tần để bảo vệ quốc gia, sẽ phải cắt đất tặng đại
vương; rồi sau dù có muốn đánh lại Tần thì đã suy nhược, không đủ sức chống Tần
nữa”. Nghi sở dĩ kết ước với Tần là vậy đó. Nay Nghi làm tướng quốc Nguỵ mà Tề,
Sở đánh Nguỵ là làm cho mưu kế của Nghi thực hành được ở Tần, đó không phải là
cách làm cho Trương Nghi khốn đốn đâu.
Vua Tề, vua Sở đều bảo:
“Phải”, rồi vội vàng ngưng việc tấn công Nguỵ.
24. KẾ LY GIÁN CỦA CÔNG
TÔN DIỄN
(Tề vương tương kiến
Yên...)
Vua Tề sắp hội kiến với
tướng quốc các nước Yên, Triệu, Sở ở nước Vệ, hẹn với nhau là gạt Nguỵ ra
ngoài. Vua Nguỵ lo lắng, sợ họ tính đánh Nguỵ, bàn với Công Tôn Diễn. Công Tôn
Diễn bảo:
- Nhà vua cho tôi trăm
nén vàng, tôi xin phá mưu của họ.
Vua bèn sai sửa soạn
xe, tiễn đưa trăm nén vàng. Tê Thủ 21 đoán ngày vua Tề tới, trước hết đem năm
chục cỗ xe tới Vệ để ly gián Tề, dùng trăm nén vàng xin được yết kiến vua Tề
trước, và được yết kiến. Rồi ngồi thật lâu, thung dung nói về việc ba nước oán
lẫn nhau 22 .
Có kẻ (thấy vậy) bảo
vua Tề:
- Nhà vua kết ước với
ba nước, gạt Nguỵ ra ngoài, mà sao sứ giả của Nguỵ là Công Tôn Diễn lại tới? Rồi
hôm nay lại đàm đạo với hắn lâu như vậy, thế là nhà vua muốn phản ba nước kia vậy.
Vua Tề đáp:
- Vua Nguỵ nghe nói quả
nhân tới sai Công Tôn Diễn thăm hỏi quả nhân, chứ quả nhân có nói gì với hắn
đâu.
Tướng quốc ba nước kia
không tin ở sự hội nghị với vua Tề nữa và việc hội nghị thất bại.
21 Tê Thủ là chức
của Công Tôn Diễn.
22 Ba nước đó tức
Yên, Triệu, Sở.
26. XEN BÒ VÀO VỚI NGỰA
(Công Tôn Diễn vi Ngụy
tướng)
Công Tôn Diễn làm tướng
quân nước Nguỵ, bất hoà với tướng quốc Nguỵ là Điền Nhu. Quí Tử vì Diễn mà bảo
vua Lương 23 :
- Nhà vua có thấy đánh
xe mà xen bò vào giữa hai con ngựa ký 24 không? Như vậy dầu chỉ muốn tiến trăm bước
thôi cũng không được. Nay nhà vua cho Diễn là có thể làm tướng quân được cho
nên mới dùng, rồi lại nghe lời tướng quốc thì khác gì xen bò vào với ngựa; bò
và ngựa đều chết cả mà công thì không thành. Nước của nhà vua sẽ bị tổn hại mất.
Xin nhà vua xét kỹ đi.
23 Nước Lương tức
nước Nguỵ.
24 Nguyên văn: phục
ngưu tham ký. Hồi xưa mỗi xe dùng bốn ngựa, hai con ở giữa gọi là phục, hai con
ở bên gọi là tham. Ký là con ngựa hay. Phục ngưu tham ký là xen hai con bò vào
giữa hai con ngựa hay.
NGUỴ II
4. TÊ THỦ TRẢ THÙ SỬ CỬ
(Sử Cử phi Tê Thủ ư
vương)
Vì Sử Cử chê Tê Thủ 25 trước mặt vua nên Tê Thủ muốn làm khốn Sử
Cử, nói với Trương Nghi:
- Tôi xin nói với vua
Nguỵ đem nước nhường tiên sinh. Vua Nguỵ là bậc Nghiêu, Thuấn 26 ; nếu tiên sinh không nhận thì tiên sinh
sẽ là bậc Hứa Do 27 và tôi sẽ khuyên vua đem một ấp vạn nóc
nhà tặng tiên sinh.
Trương Nghi khoái quá,
sai Sử Cử thường tới thăm Tê Thủ. Vua Nguỵ hay vậy, không tín nhiệm Sử Cử nữa,
Sử Cử không cáo từ vua Nguỵ mà lẩn đi.
25 Chưa rõ ai,
nhưng chắc không phải là Công Tôn Diễn.
26 Nghiêu, Thuấn:
là những ông vua không truyền ngôi lại cho con mà truyền lại cho người hiền.
27 Hứa Do: là một
ẩn sĩ thời vua Nghiêu. Vua Nghiêu thấy Hứa Do có tài đức, muốn nhường ngôi cho;
Hứa Do nghe tin đó, cho là bẩn tai mình, xuống sông rửa tai.
5. THÀNH KHÔI KHUYÊN
HÀN ĐỪNG VỘI ĐÁNH NGUỴ
(Sở vương công Lương
nam)
Vua Sở đánh phía nam nước
Lương (Nguỵ); Hàn thừa thế vây đất Tường 28 . Thành Khôi 29 vì Tê Thủ bảo vua Hàn:
- Đánh gấp đất Tường
thì Sở sẽ tiến binh đánh (mạnh nước) Nguỵ. Nguỵ không chống nổi tất phải khoanh
tay mà nghe lệnh Sở; (Sở, Nguỵ liên hiệp) thì Hàn tất nguy; cho nên vua đừng
nên vây đất Tường. Nguỵ khỏi lo phía Hàn, tất đánh nhau với Sở, đánh nhau mà
thua thì ngay cả nước Đại Lương cũng không giữ được, huống hồ là đất Tường. Còn
như đánh mà thắng Sở thì binh sĩ mệt mỏi rồi, lúc đó đại vương đánh đất Tường sẽ
dễ.
28 Theo Sơn Hải
kinh thì Tường là tên sông, xuất phát từ núi Cao Đồ (không biết ở đâu).
29 Thành Khôi: là
người nước Chu.
6. HOÃN LẠI NGÀY TÁNG
VUA NGUỴ HUỆ VƯƠNG
(Ngụy Huệ vương tử)
Vua Nguỵ Huệ Vương mất,
đã tới ngày táng thì trời đổ nhiều tuyết, tuyết ngập tới mắt bò, thành quách đều
huỷ hoại. Thái tử muốn làm một đường sạn đạo để tống táng, quần thần nhiều người
can:
- Tuyết đổ nhiều như vậy
mà cử hành lễ tống táng thì dân sẽ rất khổ cực mà công phí rất nặng, e cung cấp
không đủ, xin thái tử hoãn lại một ngày khác.
Thái tử đáp:
- Làm con mà vì lẽ dân
phải lao khổ, công phí không đủ, không làm lễ tống táng cho tiên vương, như vậy
là bất nghĩa. Thôi, ông đừng nói nữa.
Quần thần không ai dám
can nữa, lại hỏi Tê Thủ. Tê Thủ bảo:
- Tôi chưa biết có cách
gì khuyên đây, việc này chỉ có Huệ Công 30 là khuyên được chăng? Xin lại hỏi Huệ
Công.
Huệ Công nghe rồi, đáp:
“Vâng” và lên xe lại yết kiến thái tử, hỏi:
- Ngày táng đã định rồi?
Thái tử đáp:
- Phải.
Huệ Công nói:
- Xưa Vương Quý Lịch 31 chôn ở đuôi núi Sở Sơn 32 , mộ bị nước ở dưới ngầm xoi, để lộ ra
phía đầu quan tài. Ông Văn Vương bảo: “Ha! Tiên quân muốn được thấy quần thần
và bách tính một lần nữa chăng, cho nên mới khiến cho nước xoi để lộ quan tài
như vậy”.
Rồi kéo quan tài lên,
dăng trướng chung quanh để tiếp kiến bách tính, bách tính đều lại yết kiến, ba
ngày sau mới chôn lại, đó là ý nghĩa của ông Văn Vương. Nay ngày táng đã tới mà
tuyết đổ nhiều, ngập tới mắt bò, khó đi lại được, thái tử muốn tống táng cho kịp
ngày, e rằng chẳng gấp quá ư? Xin thái tử hoãn lại ngày khác. Chắc là tiên
vương muốn lưu lại ít bữa mà phù trì xã tắc, an định lê dân, cho nên mới khiến
cho tuyết đổ nhiều như vậy, để thái tử có thể hoãn lại ngày tống táng; đó là ý
nghĩa của ông Văn Vương, nếu không theo thì chẳng hoá ra cho việc bắt chước Văn
Vương là đáng xấu hổ ư?
Thái tử đáp:
- Rất phải. Xin hoãn lại
và chọn ngày khác.
Huệ Công nào phải chỉ
khéo làm cho lời mình được nghe theo mà thái tử hoãn ngày tống táng, ông lại
còn nhân đó giảng ý nghĩa của Văn Vương, giảng ý nghĩa của Văn Vương là để răn
thiên hạ, công đó đâu phải là nhỏ!
30 Tức Huệ Thi:
cũng gọi là Huệ Tử, một triết gia đương thời.
31 Tức cha Văn
Vương.
32 Sở Sơn: cũng gọi
là Chung Nam Sơn, hoặc Thái Sơn, nay ở Quan Trung đạo.
13. TRỒNG KHÓ, NHỔ DỄ
(Điền Nhu quý ư Ngụy vương)
Điền Nhu được vua Nguỵ
(An Hi Vương) quí mến. Huệ Tử 33 bảo:
- Ông nên lấy lòng kẻ tả
hữu của vua. Cây dương 34 kia trồng ngang nó cũng sống, trồng ngược
nó cũng sống, cắt đi rồi cắm xuống nó cũng vẫn sống; nhưng nếu mười người trồng
dương mà một người nhổ thì không có cây dương nào sống được. Dùng tới mười người
để trồng một loại cây dễ sống mà phải thua một người là tại sao? Là tại trồng
thì khó mà nhổ thì dễ. Nay ông tuy tự trồng ông ở trước mặt vua nhưng kẻ muốn
nhổ ông thì đông, cho nên ông sẽ nguy mất.
33 Tức Huệ Thi.
34 Dương: là một
cây lá dày và rộng, hoa trắng.
14. TÔ ĐẠI THUYẾT VUA
NGUỴ CHO THÁI TỬ LÀM TƯỚNG QUỐC
(Điền Nhu tử)
Điền Nhu chết. Chiêu
Ngư 35 bảo Tô Đại:
- Điền Nhu chết, tôi sợ
Trương Nghi, hoặc Tiết Công, hoặc Tê Thủ sẽ làm tướng quốc nước Nguỵ.
Đại hỏi:
- Vậy, theo ông, ai làm
tướng quốc thì có lợi hơn cả?
- Tôi muốn chính thái tử 36 làm tướng quốc.
- Tôi xin vì ông mà qua
yết kiến vua Lương 37 , vua Lương tất phong thái tử làm tướng
quốc.
Chiêu Ngư hỏi:
- Ông sẽ thuyết cách
nào?
- Giả sử ông là vua
Lương, và tôi sẽ thuyết ông nhé.
- Ông thuyết ra sao?
- (Tôi sẽ thuyết như vầy)
Đại tôi từ Sở lại, thấy Chiêu Ngư rất lo. Tôi hỏi: “Ông lo lắng cái gì đó?”.
Đáp: “Điền Nhu chết, tôi sợ Trương Nghi hoặc Tiết Công hoặc Tê Thủ sẽ làm tướng
quốc nước Nguỵ”. Đại bảo: “Ông đừng lo. Vua Lương là ông vua giỏi, tất không
dùng Trương Nghi làm tướng quốc vì Trương Nghi làm tướng quốc nước Nguỵ thì tất
thân với Tần mà xa Nguỵ; Tiết Công mà làm tướng quốc nước Nguỵ thì tất thân với
Tề mà xa Nguỵ; Tề Thủ mà làm tướng quốc nước Nguỵ thì tất thân với Hàn mà xa
Nguỵ. Vua Lương là một ông vua giỏi, tất không dùng những người đó làm tướng quốc”.
Tôi nói thêm: “Không gì bằng thái tử tự giữ chức tướng quốc. Thái tử mà giữ chức
tướng quốc thì ba người kia cho rằng thái giữ chức đó không lâu, đều hết sức
đem nước mình ra mà thờ Nguỵ để sau được chiếc ấn thừa tướng” 38 . Nguỵ đã mạnh mà lại có ba nước vạn thặng 39 giúp sức thì Nguỵ tất yên. Cho nên tôi bảo
rằng: không gì bằng thái tử tự giữ chức tướng quốc”.
Rồi Tô Đại đi về phía bắc 40 yết kiến vua Lương, đem những lời đó ra
thuyết. Quả nhiên, thái tử tự giữ chức tướng quốc.
35 Chiêu Ngư: làm
tướng quốc nước Sở.
36 Tức Nguỵ Chiêu
Vương.
37 Tức vua Nguỵ.
38 Thừa tướng là
chức tướng quốc của Tần.
39 Tức ba cường
quốc: Tần, Tề, Hàn. Trương Nghi sẽ đem Tần để giúp Nguỵ; Tiết Công sẽ đem Tề để
giúp Nguỵ; Tê Thủ sẽ đem Hàn để giúp Nguỵ.
40 Câu chuyện này
chắc xảy ra Sở vì Chiêu Ngư là tướng quốc nước Sở; mà Sở ở phía nam, cho nên Tô
Đại đi sang Nguỵ là đi về phía bắc.
16. VUA SỞ PHẢN TẦN BỊ
TẦN PHẢN LẠI
(Tần, Sở công Ngụy)
Tần, Sở đánh Nguỵ, vây
Bì Thị 41 . Có người vì vua Nguỵ mà bảo vua Sở:
- Tần và Sở mà thắng
Nguỵ thì vua Nguỵ sợ quốc gia bị diệt vong, tất liên hiệp với Tần. Sao nhà vua
không phản Tần mà liên hiệp với Nguỵ? Như vậy vua Nguỵ sẽ mừng, sẽ cho thái tử
qua làm con tin ở Sở, Tần sợ mất Sở, tất cắt đất và thành tặng nhà vua, rồi sau
nhà vua có muốn lại liên hiệp với Tần để đánh Nguỵ thì cũng được.
Vua Sở (Hoài Vương)
đáp: “Phải”, rồi phản bội Tần mà liên hiệp với Nguỵ, vua Nguỵ cho thái tử qua
làm con tin ở Sở. Tần Sợ, hứa tặng đất và thành cho Sở để Sở cùng Tần đánh Nguỵ
nữa. Xư Lý Tật 42 giận, muốn cùng Nguỵ đánh Sở, lại sợ nước
Nguỵ còn có thái tử làm con tin ở Sở, cho nên chưa đánh Sở được. Có người vì Xư
Lý Tật mà nói với vua Sở: “Bề tôi nước Tần là Tật sai tôi thưa với đại vương rằng:
“Vua tệ quốc muốn đem thành và đất dâng đại vương, nhưng vì thái tử nước Nguỵ
còn ở Sở, nên chưa dám, đại vương cho thái tử về Ngụy đi, thì vua tệ quốc sẽ
xin dâng thành và đất, lại củng cố bang giao giữa Tần và Sở để gấp đánh Nguỵ”.
Vua Sở nhận lời, rồi
cho thái tử nước Nguỵ về; Tần bèn liên hiệp với Nguỵ đánh Sở.
41 Bì Thị: vốn là
tên một họ. Sau này lấy tên họ làm tên đất.
42 Xư Lý Tật: là
bề tôi Tần.
17. NGHE RIẾT RỒI THÌ
TIN
(Bàng Thông giữ thái
tử)
Bàng Thông 43 sắp cùng với thái tử (nước Nguỵ) qua Hàm
Đan làm con tin, bảo vua Nguỵ (Huệ Vương):
- Nay có một người nói
rằng ở chợ có hổ xuất hiện, đại vương tin không?
Vua đáp:
- Không.
- Hai người nói ở chợ
có hổ xuất hiện, đại vương tin không?
- Quả nhân còn ngờ.
- Ba người nói ở chợ có
hổ xuất hiện, đại vương tin không?
- Quả nhân tin chứ.
Bàng Thông bảo:
- Ở chợ làm gì có hổ, lẽ
đó hiển nhiên. Nhưng hễ có ba người nói thì thành ra có hổ. Nay Hàm Đan cách đại
vương xa hơn là từ chợ tới đây mà những bề tôi hay bàn xằng thì không phải chỉ
có ba người mà thôi. Xin đại vương xét kỹ điều đó cho!
Vua đáp:
- Quả nhân tự biết điều
đó rồi.
Như vậy Bàng Thông với
thái tử mới tới Hàm Đan thì lời xàm báng đã tới tai vua Nguỵ trước rồi. Quả
nhiên về sau, khi thái tử khỏi phải làm con tin, Bàng Thông cũng không được gặp
mặt vua Nguỵ nữa.
43 Trong sách Hàn
Phi Tử gọi là Bàng Cung.
18. VUA LỖ KHUYÊN VUA
LƯƠNG
(Lương vương Ngụy
Anh trương chư hầu)
Vua Lương là Nguỵ Anh đặt
tiệc đãi các chư hầu ở Phạm Đài 44 , đương lúc vui, mời vua Lỗ (Cung Công) cạn
một chén, vua Lỗ đứng dậy, rời chiếu rượu, lựa lời, nói:
- Xưa, con gái vua
Nghiêu sai Nghi Địch cất được rượu ngon, dâng lên ông Vũ, ông Vũ uống khen
ngon, bèn sơ với Nghi Địch, chừa rượu ngon, bảo: “Đời sau tất có kẻ vì rượu mà
mất nước”; Tề Hoàn Công nửa đêm buồn miệng, Dịch Nha 45 nấu nướng chiên xào, điều hoà ngũ vị,
dâng lên, Hoàn Công no say, đến sáng vẫn chưa tỉnh, bảo: “Đời sau tất có kẻ vì
miếng ngon mà mất nước”; Tấn Văn Công 46 được nàng Nam Chi Uy 47 , ba ngày không họp triều, bèn xa lánh
nàng, bảo: “Đời sau tất có kẻ vì sắc đẹp mà mất nước”; vua Sở lên Cường Đài ngắm
núi Băng Sơn 48 , bên trái là sông, phải là hồ, dưới mặt
đều là cảnh làm cho la cà vui đến quên chết, bèn thề không lên Cường Đài nữa, bảo:
“Đời sau tất có kẻ vì đài cao, gò đẹp, ao hồ mà mất nước”. Nay trong chén của
chúa quân có rượu Nghi Địch; thức ăn của chúa quân là món chiên xào của Dịch
Nha; bên trái có nàng Bạch Đài, bên phải có nàng Lữ Tu, đều diễm lệ như nàng
Nam Chi Uy; trước mặt có cảnh Giáp Lâm 49 , phía sau có cảnh Lan Đài, vui đẹp như
Cường Đài; có một trong bốn cái đó đã đủ để mất nước; nay chúa quân có đủ cả bốn,
chẳng nên răn mình ư?
Vua Lương khen phải và
nghe theo.
44 Phạm Đài: tên
một cái đài danh tiếng ở nước Lương. Vua Lương đây là Lương Huệ Vương.
45 Dịch Nha: một
bề tôi được Tề Hoàn Công sủng ái nhờ tài nấu nướng.
46 Tấn Văn Công:
tên là Trùng Nhĩ, cũng là một trong ngũ bá như Tề Hoàn Công.
47 Có sách chép
là Nam Uy.
48 Băng Sơn: cũng
gọi là Sùng Sơn, hoặc Liệp Sơn, hoặc Liệu Sơn.
49 Giáp Lâm: một
thắng cảnh thời cổ có núi sông, hoa cỏ.
NGUỴ III
4. CHU HÂN CAN VUA
NGUỴ ĐỪNG VÔ TẦN
(Tần bại Ngụy ư Hoa)
Tần đánh bại Nguỵ ở Hoa
(Dương), vua Nguỵ (An Hi Vương) tính vô triều phục Tần thì Chu Hân bảo:
- Nước Tống có một người
đi học ở nước ngoài, ba năm mới về nhà, kêu tên mẹ ra mà gọi. Người mẹ hỏi:
“Mày đi học ở nước ngoài, ba năm mới về, mà kêu tên tao ra mà gọi là tại sao?”.
Người con đáp: “Con thấy hiền thì không ai bằng vua Nghiêu, vua Thuấn mà người
ta đều gọi đích danh hai ông ấy; con thấy lớn thì không gì bằng Trời, Đất, mà
người ta đều gọi đích danh là Trời, Đất. Mẹ hiền không hơn vua Nghiêu, vua Thuấn,
lớn không hơn Trời, Đất, vì vậy mà con gọi đích danh mẹ”. Người mẹ bảo: “Mày
đem cái sở học của mày thực hành được hết không? Nếu được thì mày đổi cách gọi
tên tao đi (chứ đừng gọi đích danh tao nữa); còn như nếu mày chưa đem cái sở học
của mày thực hành hết được thì mày hãy khoan đã, đừng gọi đích danh tao vội”.
Nay đại vương thờ Tần,
có thể nào thay cách vô triều phục Tần không? Nếu có thì xin đại vương đổi cách
đi mà hoãn việc vô triều phục Tần lại sau.
Vua Nguỵ đáp:
- Ông lo rằng quả nhân
vô Tần rồi thì không ra được chăng? Hứa Quản 50 nguyện với ta rằng: “Nếu đại vương vô Tần
mà không ra được thì hạ thần xin đem đầu hạ thần để tuẫn táng đại vương”.
Chu Hân bảo:
- Ti tiện như hạ thần
đây, mà nếu có người bảo: “Ông vô cái vực sâu nguy hiểm không lường trước được
kia, vô rồi mà không ra thì tôi xin lấy một cái đầu chuột để tuẫn táng ông”,
thì hạ thần tất không nghe kẻ đó. Tần là một nước bất trắc ra sao, cũng như một
cái vực sâu nguy hiểm không lường trước được; mà cái đầu của Hứa Quản thì cũng
như cái đầu chuột vậy. Đưa đại vương vô nước Tần bất trắc kia mà đem cái đầu
chuột để tuẫn táng đại vương, hạ thần trộm nghĩ đại vương không theo lời đó. Vả
lại không có nước Lương với không có đất Hà Nội thì đằng nào nguy hơn?
Vua đáp:
- Không có nước Lương
nguy hơn.
- Không có nước Lương với
không có bản thân thì đàng nào nguy hơn?
- Không có thân thì
nguy hơn.
- Vậy ba cái đó thì bản
thân là khẩn yếu nhất, Hà Nội kém khẩn yếu nhất. Tần chưa đòi cái kém khẩn yếu
nhất mà đại vương đã vội đem tặng họ cái khẩn yếu nhất thì có nên không?
Vua Nguỵ vẫn chưa chịu
nghe. Chi Kỳ 51 bảo:
- Xin đại vương theo
vua Sở (Khoảnh Tương Vương). Vua Sở mà vô Tần thì đại vương dùng ba binh xa mà
vô trước; nếu vua Sở không vô Tần thì Sở và Nguỵ liên hiệp với nhau, còn đủ sức
chống Tần mà!
Vua Nguỵ bèn thôi không
vô Tần nữa, bảo Chi Kỳ:
- Trước kia ta đã hứa với
Ưng Hầu, nay không đi thì là gạt ông ta mất.
Chi Kỳ bảo:
- Xin đại vương đừng
lo. Tôi xin nói với Trường Tín Hầu xin đại vương đừng vô Tần. Đại vương đợi tôi
một chút.
Chi Kỳ bảo Trường Tín Hầu:
- Vua sai tôi lại vời
tướng quốc.
- Vì chuyện gì vậy?
- Tôi không được biết.
Vua vời ông vô gấp.
- Tôi khuyên vua vô Tần,
đâu phải vì Tần, vì Nguỵ đấy.
- Ông đừng mưu tính cho
Ngụy, cứ mưu tính cho ông đi. Ông thích chết hay thích sống? Thích cảnh bần
cùng hay thích cảnh phú quí? Ông mưu tính cho ông trước đi, rồi sau hãy mưu
tính cho Nguỵ.
- Lâu Công sắp tới, tôi
sẽ cùng đi với ông ấy 52 .
- Vua vời ông gấp, ông
không đi thì áo ông sẽ đẫm máu đa!
Trường Tín Hầu ra đi,
Chi Kỳ theo sau, tới yết kiến vua Nguỵ. Chi Kỳ vô trước nói với vua:
- Xin đại vương làm bộ
đau mà tiếp ông ta, tôi đã doạ ông ta rồi.
Trường Tín Hầu vô, vua
Nguỵ bảo:
- Ta đau nặng, làm sao
bây giờ? Trước ta đã hứa với Ưng Hầu, dù có chết giữa đường thì cũng đi.
Trường Tín Hầu đáp:
- Xin đại vương đừng đi
nữa, tôi sẽ làm cho Ưng Hầu không vời đại vương qua Tần nữa, xin đại vương đừng
lo.
50 Hứa Quản tức
Trường Tín Hầu.
51 Chi Kỳ: là người
nước Nguỵ.
52 Lâu Công tức
Lâu Hoãn, người nước Triệu, làm quan ở Tần. Trường Tín Hầu muốn nói: đợi Lâu
Công tới sẽ giảng hoà với Lâu Công.
5. TÔN THẦN CAN VUA NGUỴ
ĐỪNG CẮT ĐẤT CHO TẦN
(Hoa quân chi chiến)
Trong trận Hoa Dương,
Nguỵ thua Tần. Năm sau vua Nguỵ (An Hi Vương) tính sai sứ Đoàn Can Sùng cắt đất
cho Tần để giảng hoà, Tôn Thần bảo vua Nguỵ:
- Nguỵ không cắt đất
ngay khi mới thua Tần là khéo đối phó khi thua, mà Tần không đòi cắt đất ngay
khi mới thắng, là vụng đối phó khi thắng. Nay đã một năm rồi mới xin cắt đất
cho Tần, đó là việc quần thần mưu tính riêng (vì lợi của họ), đại vương không
biết gì cả. Vả lại cái kẻ muốn được Tần phong tước kia là Đoàn Can Sùng, mà đại
vương lại sai ông ta đi cắt đất; cái nước muốn được đất kia là Tần mà đại vương
lại để cho Tần phong tước cho Đoàn Can Sùng; kẻ muốn được phong tước thì giữ đất
mà kẻ muốn được đất thì giữ ấn (để phong tước), ở trong cái thế đó, nước Nguỵ sẽ
mất thôi. Bọn gian thần đều muốn cắt đất để thờ Tần; cắt đất để thờ Tần thì
khác nào ôm củi mà cứu lửa; củi chưa hết thì lửa còn cháy. Đất của đại vương có
hạn mà sự đòi hỏi của Tần thì vô cùng, đúng là cái việc ôm củi cứu lửa vậy.
Vua Nguỵ bảo:
- Phải. Nhưng ta đã hứa
với Tần rồi, không thể đổi được.
- Đại vương không thấy
cái sự dùng con kiêu 53 trong cờ bạc ư? Muốn đánh con đó thì
đánh, muốn ngừng thì ngừng chứ. Nay đại vương bị quần thần áp bách mà phải hứa
cắt đất cho Tần, rồi đại vương lại bảo rằng không thể đổi được; sao đại vương
trị nước mà không dùng trí như kẻ đánh bạc đánh con kiêu vậy?
Vua Nguỵ bảo: “Phải”, rồi
không cho Đoàn Can Sùng qua Tần nữa 54 .
53 Một lối đánh bạc
thời đó dùng năm khúc gỗ vẽ năm hình con vật, hễ ra hình con kiêu (con cú) thì
ăn hết những con kia.
54 Theo Sử ký của
Tư Mã Thiên thì vua Nguỵ không nghe lời Tôn Thần; cắt đất Nam Dương để giảng
hoà.
6. THUẦN VU KHÔN CAN
VUA TỀ ĐỪNG ĐÁNH NGUỴ
(Tề dục phạt Ngụy)
Tề muốn đánh Nguỵ. Nguỵ
sai người nói với Thuần Vu Khôn:
- Tề muốn đánh Nguỵ, chỉ
có tiên sinh là giải nguy cho Nguỵ được. Tệ quốc có đôi ngọc bích quí, hai con
ngựa vằn xin tặng tiên sinh.
Thuần Vu Khôn nhận lời
rồi vô thuyết vua Tề:
- Sở là nước cừu địch của
Tề, Nguỵ là nước liên kết với Tề. Đánh một nước liên kết để cho nước cừu địch
thừa lúc mình mệt mỏi mà đánh mình, đã mang tiếng xấu mà lại còn nguy hại, tôi
vì đại vương mà tính thì không nên.
Vua Tề đáp: “Phải”, rồi
không đánh Nguỵ nữa.
Có người khách bảo vua
Tề:
- Thuần Vu Khôn 55 sở dĩ khuyên đừng đánh Nguỵ là vì nhận được
ngọc bích và ngựa của Nguỵ.
Vua Tề bèn hỏi Thuần Vu
Khôn:
- Nghe nói tiên sinh nhận
ngọc bích và ngựa của Nguỵ, có không?
- Có.
- Vậy thì tiên sinh mưu
tính giùm cho quả nhân ra sao đây? 56
- Việc đánh Nguỵ mà
không có lợi thì Nguỵ dù có giết Khôn tôi, phỏng có ích gì cho đại vương không?
Nếu việc đó thực có lợi thì đại vương dù phong tước cho Khôn tôi phỏng có thiệt
gì cho đại vương đâu? Còn như đại vương không bị mang tiếng đánh một nước liên
kết, Nguỵ tránh được cái nguy mất nước, trăm họ khỏi bị cái lo binh đao, thì
Khôn tôi được bảo vật ngọc bích và ngựa vằn, thì có hại gì cho đại vương đâu?
55 Thuần Vu Khôn:
là người nước Tề, có tài biện thuyết, nhất là tài hoạt kê, nhiều lần đi sứ các
nước chư hầu mà làm cho Tề được chư hầu phục.
56 Vua Tề có ý
trách Thuần Vu Khôn ăn hối lộ của Nguỵ tính cái lợi cho mình, chứ không tính
cái lợi cho vua, cho nước.
7. MẠNH THƯỜNG QUÂN
THUYẾT CHƯ HẦU CỨU NGUỴ
(Tần tương phạt Ngụy)
Tần sắp đánh Nguỵ. Vua
Nguỵ hay tin, đương đêm hội kiến với Mạnh Thường Quân, bảo:
- Tần sắp đánh Nguỵ,
làm sao bây giờ, ông tính giùm quả nhân.
Mạnh Thường Quân đáp:
- Nếu được chư hầu giúp
thì giữ được nước.
Vua Nguỵ bảo:
- Quả nhân cậy ông đi
giùm cho, xin cho sửa soạn trăm cổ xe đưa ông.
Mạnh Thường Quân qua
Triệu, bảo vua Triệu:
- Văn tôi mượn binh của
đại vương để cứu Nguỵ.
Vua Triệu đáp:
- Quả nhân không giúp
được.
- Sở dĩ tôi dám lại mượn
binh đây là vì trung với đại vương đấy.
- Vì lẽ gì, cho nghe được
chăng?
- Binh của Triệu không
mạnh hơn binh của Nguỵ, binh của Nguỵ không yếu hơn binh của Triệu; mà đất của
Triệu không phải năm nào cũng nguy, dân Triệu không phải năm nào cũng chết, còn
đất của Nguỵ năm nào cũng nguy, dân của Nguỵ năm nào cũng chết, là tại sao? Là
vì Nguỵ che cho Triệu ở phía tây. Nay Triệu không cứu Nguỵ, Nguỵ phải uống màu
ăn thề với Tần thì Triệu hoá ra giáp ranh với cường Tần mà đất cũng sẽ mỗi năm
mỗi nguy, dân cũng sẽ mỗi năm mỗi chết! Văn tôi sở dĩ trung với đại vương là lẽ
đó.
Vua Triệu bằng lòng
giúp Ngụy mười vạn binh và ba trăm chiến xa.
Mạnh Thường Quân lại
lên phía bắc yết kiến vua Yên, bảo:
- Ngày trước công tử
thường hứa rằng hai vua kết giao với nhau; nay Tần sắp đánh Nguỵ, xin đại vương
cứu cho.
Vua Yên bảo:
- Nước tôi mất mùa đã
hai năm rồi, nay lại đem quân đi xa mấy ngàn dặm để giúp Nguỵ, làm sao được?
Điền Văn bảo:
- Đem quân đi xa mấy
ngàn dặm để cứu người, đó là cái lợi cho nước; nay vua Nguỵ ra cửa ải mà ngóng
trông quân tới cứu, như vậy dù muốn đem quân đi xa vài ngàn dặm để cứu người
thì có được không?
Vua Yên còn chưa chịu.
Điền Văn nói thêm:
- Tôi gắng tính cái lợi
cho đại vương, đại vương không dùng mưu kế trung thành của tôi thì tôi xin đi
đây! Tôi e thiên hạ sắp có chuyện đại biến!
Vua Yên hỏi:
- Đại biến ra sao, xin
cho nghe được chăng?
Đáp:
- Tần đánh Nguỵ, chưa
thắng được Nguỵ mà lâu đài (của Nguỵ) đã bị đốt, những nơi du ngoạn đã bị chiếm;
mà Yên không chịu cứu Nguỵ thì vua Nguỵ tất phải chịu khuất thân cắt đất tặng Tần
một nửa nước Nguỵ, Tần mới chịu rút lui. Tần đã rút khỏi Nguỵ rồi thì Nguỵ sẽ
đem hết binh của Hàn, Nguỵ, lại mượn thêm binh của Tần ở phía tây rồi lại thêm
binh của Triệu, đem binh bốn nước đánh Yên, thì có lợi gì cho đại vương không?
Đem binh đi xa vài ngàn dặm mà cứu người là lợi, hay ra cửa Nam của
nước Yên mà ngóng trông quân tới cứu viện là lợi? Đường đã gần mà chuyên chở lại
dễ. Đại vương thấy bên nào lợi?
Vua Yên đáp:
- Ông về đi, quả nhân
xin nghe ông.
Rồi xuất tám vạn binh
và hai trăm chiến xa cho theo Điền Văn.
Vua Nguỵ rất mừng, bảo:
- Ông được Yên, Triệu
giúp cho rất nhiều quân mà lại rất mau.
Vua Tần hoảng sợ, cắt đất
xin hoà với Nguỵ, vì vậy vua Nguỵ cho binh Yên, Triệu về nước và phong cho Điền
Văn.
8. VÔ KỴ THUYẾT VUA NGUỴ
ĐỪNG NGHE LỜI TẦN MÀ ĐÁNH HÀN
(Ngụy tương dữ Tần
Công Hán)
Nguỵ tính cùng Tần đánh
Hàn. Vô Kỵ bảo vua Nguỵ (An Hi Vương):
- Phong tục Tần giống
phong tục rợ Nhung Địch, có lòng hổ lang, tham lam, bạo ngược, hiếu lợi mà
không có đức tín, không biết hiếu nghĩa, đức hạnh; hễ có lợi là chẳng đoái hoài
tới thân thích, anh em, không khác gì cầm thú! Điều đó trong thiên hạ ai cũng biết.
Họ chẳng thi ân tích đức gì đâu. Cho nên thái hậu là mẹ mà rồi âu sầu tới chết;
Nhương Hầu là cậu, công lao không ai lớn bằng mà cũng đuổi đi 57 ; hai người em vô tội mà bị tước mất quyền
trị nước 58 . Đối với thân thích, anh em mà còn như vậy
huống hồ là đối với cừu địch. Nay đại vương cùng với Tần đánh Hàn, thêm thân cận
với Tần, tôi lấy làm ngại lắm, mà đại vương không biết, thế là đại vương bất
minh! Quần thần đều biết mà chẳng một ai can đại vương, thế là bất trung!
Nay ở nước Hàn kia, một
người đàn bà chuyên quyền vì vua còn nhỏ 59 , trong nước có loạn lớn, làm sao ở ngoài
chống nổi binh của Tần và Nguỵ? Hay là đại vương cho rằng Hàn sẽ không mất nước?
Hàn mà mất thì Tần sẽ chiếm hết đất của Trịnh, biên giới sẽ tiếp với Đại Lương
(tức Nguỵ), đại vương cho vậy là yên ổn ư? Đại vương tưởng lấy lại được đất
cũ 60 mà hiện thời đã phải đeo cái hoạ của Tần
rồi, đại vương cho vậy là lợi ư? Tần không phải là nước ưa hoà bình (không gây
sự), sau khi Hàn mất, tất sẽ gây sự; gây sự thì tất tìm việc dễ làm mà có lợi;
tìm việc dễ làm mà có lợi tất không đánh Sở và Triệu. Tại sao vậy? Là vì vượt
núi, qua sông, ngăn cách đất Thượng Đảng của Hàn để đánh nước Triệu hùng cường,
thì tất sẽ như việc đánh Át Dư 61 hồi trước, Tần tất không làm. Còn như qua
Hà Nội, quay lưng lại đất Nghiệp và Triêu Ca, cắt đứt Chương Thuỷ và Phủ Thuỷ,
mà cùng quân Triệu quyết thắng ở ngoài thành Hàm Đan thì sẽ bị cái hoạ của Trí
Bá 62 , Tần cũng không dám. Đánh Sở thì phải
qua Thiệp Cốc 63 , vượt ba ngàn dặm để tấn công nơi quan
tái hiểm yếu; đường đã rất xa mà việc tấn công lại rất khó, Tần cũng không làm
đâu. Còn như qua miền Hà Ngoại, quay lưng với Đại Lương, phía mặt hướng về Thượng
Thái, Triệu Lăng, để quyết thắng với quân Sở ở ngoài đồng nước Trần 64 thì Tần cũng không dám nữa. Cho nên tôi bảo
rằng Tần tất không đánh Sở và Triệu, cũng không đánh Vệ và Tề 65 ; sau khi Hàn bị diệt, ngày mà Tần xuất
binh nếu không phải là để đánh Nguỵ thì không đánh nước nào khác (…) 66
(…) Trước kia hợp tung
mà không thành công, Sở và Nguỵ đều hoài nghi, Hàn không kết ước với họ được.
Nay Hàn bị Tần tấn công đã ba năm rồi; Tần muốn khuất phục Hàn, bắt cắt đất cầu
hoà, Hàn biết rằng như vậy sẽ bị diệt vong, không chịu nghe, cho thái tử qua
Triệu làm con tin, xin cùng các nước trong thiên hạ nối tiếp nhau mà tiến quân
giao chiến với Tần. Theo ý tôi thì Sở và Triệu tất cùng đánh Tần. Tại sao? Tại
hai nước đó đều biết Tần tham lam vô cùng, hễ không diệt được hết quân trong
thiên hạ, ngự trị được hết dân trong hải nội, tất không chịu ngừng. Cho nên tôi
xin khuyên đại vương hợp tung, gấp kết ước với Sở, Triệu, nắm vật làm tin của
Hàn, Nguỵ, lấy việc bảo tồn Hàn làm nghĩa vụ; nhân đó xin Hàn trả lại cho đất
cũ, Hàn tất phải dâng trả. Như vậy thì quân và dân không phải khó nhọc, mà đất
cũ lấy lại được, kết quả còn hơn là cùng với Tần đánh Hàn, mà khỏi bị cái hoạ
có cường Tần ở giáp biên giới. Bảo tồn nước Hàn, an định nước Nguỵ mà làm lợi
cho thiên hạ, đó là thời cơ rất tốt cho đại vương đấy. Đem đất Thượng Đảng của
Hàn thông tới đất Cộng, đất Mạc, đường xá thông hành, rồi đặt cửa quan tra xét
người qua lại, ai ra vào phải đóng thuế, như vậy Nguỵ được đất Thượng Đảng làm
của tin, cùng thâu thuế với Hàn, đủ cho nước hoá giàu, Hàn tất sẽ cảm kích với Nguỵ,
yêu Nguỵ, trọng Nguỵ, sợ Nguỵ, Hàn tất không dám phản Nguỵ, Hàn sẽ là một quận
huyện của Nguỵ; Nguỵ có Hàn làm quận huyện thì Vệ, Đại Lương và Hà Ngoại được
yên. Nay không bảo tồn Hàn thì hai nước 67 tất nguy, nước An Lăng tất đổi chủ 68 . Sở, Triệu tất bị Tần đánh tan, Vệ, Tề tất
hoảng sợ, các nước trong thiên hạ đều hướng về phía tây mà vô triều kiến Tần,
xin làm bề tôi của Tần, ngày đó không xa đâu.
57 Năm thứ 49 đời
Chu Noản Vương, vua Tần nghe lời Phạm Tuy truất phế thái hậu và đuổi Nhương Hầu
đi, do đó thái hậu âu sầu mà chết. Coi Tần III 9 quyển I.
58 Hai người em của
vua Tần là Cao Lăng Quân và Kinh Dương Quân bị đuổi ra ngoài biên cảnh, cũng
vào năm 49 đời Chu Noản Vương.
59 Lúc đó, vua
Hàn là Hoàn Huệ Vương còn nhỏ, nên thái hậu chuyên quyền.
60 Trước Nguỵ mất
đất cho Hàn, nên nay Nguỵ cùng với Tần đánh Hàn để lấy đất lại.
61 Tần có lần
đánh đất Át Dư của Triệu, Triệu Xa đem binh lại cứu, đúng lúc đó công tử nước
Nguỵ cũng đem binh lại tiếp mà quân Tần phải thua.
62 Triệu Tương Tử
ngầm mưu với hai vua nước Hàn, Nguỵ ngăn sông để làm ngập chỗ Trí Bá đóng quân,
quân Trí Bá hỗn loạn, binh Hàn, Nguỵ đánh hai bên hông, Triệu Tương Tử đánh ở
phía trước, binh Trí Bá đại bại, bắt được Trí Bá.
63 Thiệp Cốc: là
một nơi hiểm trở; từ Tần qua Sở có hai đường, đường phía tây phải qua Thiệp Cốc,
đường phía đông phải qua Hà Ngoại.
64 Nước Trần: nay
ở Hà Nam, huyện Hoài Dương.
65 Vệ và Tề đều ở
phía đông ba nước Hàn, Nguỵ, Triệu; Tần ở phía tây; Tần không đánh Hàn, Triệu
thì tất cũng không đánh Vệ, Tề.
66 Bỏ một đoạn.
67 Hai nước Chu tức
Đông Chu và Tây Chu.
68 Ý nói bị Tần
chiếm.
NGUỴ IV
1. CÓ NGƯỜI KHUYÊN TẦN
ĐỪNG ĐÁNH LƯƠNG MÀ ĐÁNH SỞ
(Hiến thư Tần vương)
(Mất mấy chữ) dâng thư
lên Tần (Chiêu Vương):
- Trước kia tôi trộm
nghe nói đại vương định đánh Lương, tôi e rằng việc đó lầm, xin đại vương tính
kỹ lại. Lương là chỗ lợi hại của Sơn Đông. Thấy con rắn, nếu ta đập cái đuôi
thì đầu nó quày lại cứu, đập cái đầu thì cái đuôi quật lại cứu, đập khúc giữa thì
đầu và đuôi đều cứu. Nay Lương là khúc giữa của thiên hạ, Tần đánh Lương thì là
tỏ rõ cho thiên hạ thấy rằng Tần muốn chặt cái xương sống của Sơn Đông, lúc đó
khúc đầu và khúc đuôi của Sơn Đông đều cứu khúc giữa. Sơn Đông thấy nguy cơ sẽ
mất thì tất sợ, sợ thì tất liên hiệp với nhau làm một; các nước Sơn Đông còn mạnh,
và tôi cho rằng cái mối lo lớn của Tần có thể đứng đó mà đợi nó tới được.
Tôi trộm mưu tính giùm
đại vương, thấy rằng nên xuất binh đánh phương nam 69 thì hơn. Binh nước đó yếu, các nước trong
thiên hạ tất không thể cứu được, đại vương (chiếm được nước đó thì) có thể mở
mang đất đai, làm cho binh lực mạnh lên, uy thế của đại vương tôn quí lên. Đại
vương không nghe chuyện vua Thang diệt Kiệt đấy ư? Mới đầu hãy thử đánh một nước
yếu là Mật Tu Thị 70 để dạy quân sĩ chiến đấu, chiếm được Mật
Tu Thị rồi mới chinh phục Kiệt. Nay Tần với Sơn Đông là thù địch, nếu không thử
đánh một nước yếu trước để dạy quân sĩ chiến đấu thì tất sẽ đại bại mà Tần sẽ
nguy to.
Quả nhiên Tần đánh Lam
Điền và Yên, Dĩnh 71 .
69 Chỉ nước Sở.
70 Mật Tu Thị là
một nước nhỏ đời Thương, nay thuộc tỉnh Cam Túc.
71 Tức những đất
của Sở.
2. ĐỪNG NÊN TRÔNG CẬY Ở
NƯỚC KHÁC
(Bát niên... vị Ngụy
vương)
Năm thứ tám, (mất mấy
chữ) bảo vua Nguỵ (An Hi Vương):
- Xưa nước Tào cậy có Tề
mà khinh Tấn, Tề đánh Ly 72 , Cử mà Tấn diệt Tào; Tăng 73 cậy có Tề mà nghịch với Việt, khi Tề có nạn
Hoà Tử 74 thì Việt diệt Tăng; Trịnh cậy có Nguỵ mà
khinh Hàn, Nguỵ đánh Du Quan 75 mà Hàn diệt Trịnh; Nguyên 76 cậy có Tần Địch mà khinh Tấn, Tần Địch gặp
năm mất mùa, mà Tấn diệt Nguyên; Trung Sơn cậy có Tề, Nguỵ mà khinh Triệu, Tề,
Nguỵ đánh Sở mà Triệu diệt Trung Sơn, năm nước đó sở dĩ bị diệt vong là vì cậy ở
nước khác. Mà chẳng riêng gì năm nước đó như vậy, hết các nước bị diệt vong
trong thiên hạ đều như vậy!
Sở dĩ không thể cậy ở
nước khác được vì có những biến hoá không thể lường hết được, hoặc việc chính
trị, giáo dục không chỉnh đốn, trên dưới không một lòng, nên không trông cậy được;
hoặc có nạn chư hầu và lân bang nên không trông cậy được; hoặc gặp năm mất mùa,
vật súc tích hết nhẵn nên không thể trông cậy được; hoặc thấy lợi mà đổi lòng,
hoặc phải tiếp cận với những họa hoạn, vì vậy tôi biết rằng không nên trông cậy
vào nước khác. Nay đại vương cậy có Sở mạnh mà tin lời Xuân Thân Quân, chống với
Tần, không thể biết được bao lâu; tới khi Xuân Thân Quân gặp biến, thì đại
vương sẽ một mình chịu cái hoạ của Tần đa. Như vậy là đại vương có một nước vạn
cổ xe mà đem để cho lòng một cá nhân định đoạt, tôi cho rằng chính sách đó
không hoàn thiện, xin đại vương tính kỹ đi.
72 Nước Ly: nay
thuộc tỉnh Sơn Đông.
73 Nước Tăng: nay
thuộc tỉnh Sơn Đông.
74 Hoà Tử: tức Điền
Hoà.
75 Du Quan: nay
thuộc tỉnh Hà Nam.
76 Nước Nguyên:
nay thuộc tỉnh Hà Nam.
3. TRƯƠNG MAO KHUYÊN
VUA ĐỪNG ĐÁNH HÀN
(Ngụy vương vấn
Trương Mao)
Vua Nguỵ hỏi Trương
Mao:
- Ta cùng với Tần đánh
Hàn, ông nghĩ thế nào?
Trương Mao đáp:
- Hàn sẽ ngồi đó đợi
lúc bị diệt vong chăng? Hay là sẽ cắt đất mà theo nước khác? 77
- Hàn sẽ cắt đất mà
theo nước khác.
- Hàn oán Nguỵ hay oán
Tần?
- Oán Nguỵ.
- Hàn cho là Tần mạnh
hay Nguỵ mạnh?
- Cho Tần là mạnh.
- Hàn sẽ cắt đất theo
nước mạnh mà mình không oán hay cắt đất theo nước không mạnh mà mình oán?
- Hàn sẽ cắt đất theo
nước mạnh mà mình không oán.
Trương Mao bảo:
- Vậy thì cái việc đánh
Hàn, đại vương tự biết được rồi.
77 Ý nói cắt đất
cho Tần hoặc Nguỵ để cầu hoà.
7. KHÔNG CẤM ĐƯỢC CHÓ SỦA
(Bạch Khuê vị Tân
Thanh quân)
Bạch Khuê (người triều
đình Chu) bảo Tân Thành Quân 78 :
- Người đi đêm có thể
là không làm điều gian nhưng không thể cấm chó sủa được. Cho nên tôi có thể là
không nói xấu ông với vua nhưng không thể cấm người khác nói xấu tôi với ông được.
78 Ngờ là Tân
Nhung (?).
10. BÌNH ĐÔ QUÂN KHUYÊN
NGUỴ ĐỪNG TIN TẦN
(Tường Bình chi dịch)
Trong trận Trường Bình,
Bình Đô Quân bảo vua Nguỵ (An Hi Vương):
- Sao đại vương không
theo chính sách hợp tung (để cự Tần)?
Vua Nguỵ đáp:
- Vì Tần hứa cắt đất
Viên Ung cho quả nhân.
- Tôi cho rằng chuyện cắt
đất Viên Ung là chuyện hão.
- Tại sao vậy?
- Tần và Triệu cầm cự
nhau từ lâu ở Trường Bình mà bất phân thắng bại; nếu thiên hạ liên hiệp với Tần
thì Triệu mất, liên hiệp với Triệu thì Tần mất, Tần sợ đại vương đổi lòng nên
đem đất Viên Ung ra làm mồi nhử đại vương. Tần thắng Triệu rồi, đại vương dám
đòi Tần cắt đất Viên Ung không?
- Không dám.
- Tần mà không thắng
Triệu thì đại vương có thể khiến cho Hàn cắt đất Viên Ung cho đại vương không?
- Không.
- Vì vậy tôi cho rằng cắt
đất Viên Ung là chuyện hão.
- Phải.
16. CÀNG HÀNH ĐỘNG CÀNG
XA MỤC ĐÍCH
(Ngụy vương dục công
Hàm Đan)
Vua Nguỵ muốn đánh Hàm
Đan, Quí Lương hay tin, đương đi xa, vội quay về, áo quần xốc xếch, đầu tóc cát
bụi, vô yết kiến vua, bảo:
- Hôm nay khi lại đây,
tôi gặp một người trên đường cái, hướng về phía bắc mà đánh xe, bảo tôi: “Tôi
muốn qua nước Sở”. Tôi bảo: “Ông qua nước Sở mà sao lại đi về hướng bắc?”. Đáp:
“Ngựa tôi chạy hay”. Tôi bảo: “Ngựa tuy chạy hay nhưng đó không phải đuờng qua
Sở”. Đáp: “Tôi có nhiều lương thực”. Tôi bảo: “Lương thực tuy nhiều nhưng đó
không phải là đường qua Sở”. Đáp: “Người đánh xe của tôi giỏi”. Mấy cái đó càng
giỏi, càng nhiều thì càng cách xa nước Sở. Nay đại vương muốn lập được nghiệp
bá, hành động muốn được thiên hạ tin, mà lại cậy có nước rộng lớn, quân tinh
nhuệ mà đánh Hàm Đan để mở rộng đất đai, nâng cao uy danh, thì càng hành động
nhiều càng cách xa mục đích của đại vương, cũng như muốn qua Sở mà tiến về
phương bắc vậy.
20. ĐƯỜNG THƯ THUYẾT
VUA TẦN CỨU NGUỴ
(Tần Ngụy vi dữ quốc)
Tần và Nguỵ liên minh với
nhau, Tề và Sở kết hợp với nhau, muốn đánh Nguỵ. Nguỵ sai người qua cầu cứu Tần,
sứ giả qua lại nườm nượp 79 mà Tần không phát binh cứu viện. Nước Nguỵ
có một người tên là Đường Thư 80 đã ngoài chín chục tuổi, bảo vua Nguỵ (An
Hi Vương):
- Lão thần xin qua phía
tây thuyết vua Tần (Chiêu Vương), khiến cho Tần xuất binh cứu viện trước khi thần
về, đại vương nghĩ sao?
Vua đáp:
- Xin vâng.
Rồi cho sửa soạn xe đưa
Đường Thư qua Tần. Đường Thư yết kiến vua Tần. Vua Tần bảo:
- Ông lão mệt mỏi từ xa
lại đây, cực khổ quá! Nước Nguỵ đã cầu cứu mấy lần rồi, quả nhân biết Nguỵ nguy
cấp lắm!
Đường Thư đáp:
- Đại vương đã biết Nguỵ
nguy cấp mà không phát binh cứu viện thế là những người trù tính việc cho đại
vương không làm tròn nhiệm vụ. Vả lại Nguỵ là nước có vạn cỗ xe mà tự xưng là
phiên thuộc phía đông của Tần, chịu nhận áo mão cân đai, xuân thu tiến cống Tần
các đồ cúng tế, là vì cho rằng Tần mạnh, đáng làm đồng minh của mình. Nay quân
Tề, Sở đã tới cõi ngoài của Nguỵ, mà quân cứu viện của đại vương không tới, cấp
bách quá, Nguỵ sẽ phải cắt đất liên hiệp với Tề, Sở, lúc đó đại vương muốn cứu
Nguỵ, đâu còn kịp nữa. Như vậy là mất một nước vạn cỗ xe là Nguỵ mà làm cho hai
địch quốc là Tề, Sở mạnh thêm. Cho nên tôi trộm nghĩ rằng những người trù tính
việc cho đại vương không làm tròn nhiệm vụ.
Vua Tần bùi ngùi, tỉnh
ngộ. Vội phát quân ngày đêm gấp qua Nguỵ; Tề, Sở hay tin bèn thu quân kéo về.
Nước Nguỵ lại được bảo toàn là nhờ lời biện thuyết của Đường Thư.
79 Nguyên văn là:
mão và lọng qua lại không dứt.
80 Đường Thư: là
người nước Nguỵ. Sử ký chép là Đường Tuy.
21. NÊN QUÊN RẰNG MÌNH
CÓ ÂN ĐỨC VỚI NGƯỜI
(Tín Lăng quân sát Tấn
Bỉ)
Tín Lăng Quân giết Tấn
Bỉ, cứu Hàm Đan, phá quân Tần, bảo toàn nước Triệu, vua Triệu (Hiến Thành
Vương) ra tận ngoài thành để đón. Đường Thư bảo Tín Lăng Quân:
- Tôi nghe nói: “Sự
tình có cái không nên biết, có cái không nên không biết, có cái không nên quên,
có cái không nên không quên”.
Tín Lăng Quân hỏi:
- Ông muốn nói những sự
tình gì vậy?
Đường Thư đáp:
- Người khác ghét ta,
điều đó ta không thể không biết; ta ghét người, điều đó không nên để cho người
biết; người có ân đức với ta, điều đó ta không nên quên; ta có ân đức với người,
điều đó không nên không quên. Nay ông giết Tần Bỉ, cứu Hàm Đan, phá quân Tần, bảo
toàn nước Triệu, đó là ân đức lớn. Vua Triệu thân hành ra ngoài thành đón ông
thì lúc ông hốt nhiên thấy vua Triệu, tôi xin ông quên ân đức đó đi.
Tín Lăng Quân đáp:
- Vô Kỵ tôi xin kính cẩn
thụ giáo.
22. SÚC CAO VÀ AN LĂNG
QUÂN KHÔNG CHỊU NHỤC
(Ngụy công Quản nhi
bất hạ)
Nguỵ đánh thành Quản mà
hạ không được. Súc Cao, người nước An Lăng 81 , có một người con giữ thành Quản. Tín
Lăng Quân sai người bảo An Lăng Quân:
- Bảo Súc Cao (nghe lời
tôi) 82 thì tôi sẽ cho làm một trong những chức
ngũ đại phu 83 , làm Trì Tiết Uý 84 .
An Lăng Quân đáp:
- An Lăng là một nước
nhỏ, vua không sai bảo dân được, sứ giả lại mà nói với Súc Cao.
Rồi sai người dẫn sứ giả
tới chỗ ở của Súc Cao. Sứ giả lặp lại lệnh của Tín Lăng Quân.
Súc Cao đáp:
- Ông 85 mến Cao tôi, nên bảo Cao tôi đánh thành
Quản, cái việc cha đánh thành, con giữ thành, người ta chê cười lắm; làm bề tôi
mà dâng thành của vua, là phản vua, cha dạy con phản vua, điều đó chắc ông cũng
không thích. Tôi xin lạy hai lạy mà từ chối.
Sứ giả về nói lại với
Tín Lăng Quân, Tín Lăng Quân cả giận, sai một vị sứ giả quan trọng qua An Lăng,
bảo:
- An Lăng (do Nguỵ quản
trị) thì cũng là đất của Nguỵ; nay ta đánh thành Quản mà không hạ được thì Tần
sẽ đánh ta, xã tắc nguy mất; xin nhà vua trói sống Súc Cao lại nạp cho ta, nếu
không nạp thì Vô Kỵ này sẽ đem mười vạn quân chiếm thành An Lăng.
An Lăng Quân đáp:
- Tiên quân là Thành Hầu,
nhận chiếu của (Nguỵ) Tương Vương mà giữ đất này, tay cầm hiến chương của chức
đại phủ 86 . Thiên đầu của hiến chương có câu: “Con
giết cha, bề tôi giết vua, thì theo phép (nước mà trị), không tha”. Dù trong nước
có dịp đại xá thì kẻ giữ thành mà hàng giặc và kẻ giết con người khác cũng
không được tha. Súc Cao kính cẩn bỏ địa vị cao để bảo toàn nghĩa cha con, mà
ông bảo phải bắt sống nộp cho ông; như vậy là khiến cho tôi phụ tờ chiếu của
Tương Vương, bỏ hiến chương của chức đại phủ. Dù chết, tôi cũng không dám thi
hành lệnh đó.
Súc Cao nghe vậy, bảo:
- Tín Lăng Quân là người
hung dữ mà độc đoán; lời đó mà tới tai ông ta thì nước mình tất có tai hoạ, ta
bảo toàn lấy thân ta, đã không phải là cái nghĩa vua tôi, có đâu lại khiến cho
vua ta bị cái vạ của Nguỵ.
Rồi lại chỗ cư xá của sứ
giả, đâm cổ tự tử.
Tín Lăng Quân hay tin
Súc Cao chết, bận đồ trắng (đồ tang) rời chỗ ở 87 , sai sứ giả lại tạ lỗi An Lăng Quân:
- Vô Kỵ tôi là kẻ tiểu
nhân, vì lo lắng quá mà quẫn chí, đã lỡ lời với ông, xin lạy hai lạy để tha tội
cho.
81 An Lăng vốn là
đất của Nguỵ, vua Nguỵ Tương Vương đem phong cho một người em.
82 Coi đoạn sau sẽ
rõ.
83 Đại phu là một
chức quan, ở dưới bậc khanh và trên bậc sĩ. Mỗi thời mỗi khác. Thời tam đại có
ba hạng đại phu: thượng, trung, hạ. Không rõ năm chức đại phu ở đây là những chức
nào.
84 Trì Tiết Úy là
chức úy cầm cái tiết (chiếc thẻ làm tin) để đi sứ.
85 Chỉ Tín Lăng
Quân.
86 Chỉ chức quan
đứng đầu một miền lớn.
87 Có lẽ là cách
cư tang thời đó.
23. KHÉO TON HÓT
(Ngụy vương dữ Long
Dương quân)
Vua Nguỵ ngồi chung
thuyền với Long Dương Quân 88 , đi câu. Long Dương Quân câu được mười
con cá, rồi mà nước mắt ròng ròng. Vua hỏi:
- Có cái gì không vui đấy,
sao không cho nhau hay?
Đáp:
- Hạ thần đâu dám không
vui.
- Vậy thì tại sao lại
khóc?
- Hạ thần khóc vì con
cá đại vương câu được.
- Nghĩa là thế nào?
- Khi hạ thần mới câu
được cá thì hạ thần rất mừng, sau càng câu càng được cá lớn; bây giờ thần muốn
liệng phắt mấy con cá câu được lúc đầu đi. Nay hạ thần hung ác mà được quét giường
trải chiếu cho đại vương, chức tước trên mọi người, sai khiến cả bách quan, đi
đâu thì có kẻ dẹp đường. Trong bốn bể, có rất nhiều người dong mạo đẹp đẽ, biết
rằng hạ thần được đại vương sủng ái như vậy tất vén xiêm mà chạy lại với đại
vương. Hạ thần rồi cũng như con cá câu được lúc đầu kia thôi, cũng sẽ bị đại
vương vứt bỏ đi thôi! Nghĩ nông nỗi đó, hạ thần làm sao mà không nhỏ lệ được!
Vua Nguỵ bảo:
- Bậy nào! Có nỗi lòng
như vậy sao không cho nhau hay?
Rồi sai bố cáo ở khắp
nước rằng: “Ai mà dám nói rằng có người đẹp thì giết cả họ”.
Do đó mà xét, những kẻ
thân cận bọn vua chúa, từ xưa vốn có cái tật ton hót rất mực chăng? Họ bao, cột
cái tình yêu của vua chúa thật là hoàn bị. Kẻ ở ngoài, ngàn dặm mà muốn dâng mĩ
nhân cho vua chúa, thì kẻ được tiến cử kia chắc đã được vua yêu không? Giả sử kẻ
đó được vua yêu thì chắc có giúp ta được không? Mà ta bị người thân cận của vua
thêm oán. Chỉ thấy hoạ chứ không thấy phúc, chỉ thấy cái oán chứ chưa thấy ân,
đó không phải là thuật dùng trí.
88 Long Dương
Quân: là một kẻ bề tôi nhờ dong nhan đẹp đẽ mà được vua Nguỵ sủng ái.
25. ĐƯỜNG THƯ KHÔNG LÀM
NHỤC SỨ MỆNH
(Tần vương sử nhân vị
An Lăng quân)
Vua Tần (Thuỷ Hoàng)
sai người bảo An Lăng Quân:
- Quả nhân muốn đem năm
trăm dặm đất đổi lấy nước An Lăng, An Lăng Quân bằng lòng đổi cho quả nhân đi?
An Lăng Quân đáp:
- Đại vương gia ân, đem
đất lớn đổi lấy đất nhỏ, thật là quí hoá. Tuy nhiên tôi nhận đất của tiên
vương, xin giữ nó tới cùng, không dám đổi.
Vua Tần không vui, An
Lăng Quân bèn sai Đường Thư đi sứ Tần. Vua Tần bảo Đường Thư:
- Quả nhân đem năm trăm
dặm đất đổi lấy nước An Lăng, An Lăng Quân không nghe lời quả nhân là tại sao?
Tần đã diệt Hàn, chiếm Nguỵ; An Lăng Quân chỉ có năm chục dặm đất mà bảo tồn được
là vì quả nhân trọng An Lăng Quân là bậc trưởng giả 89 mà để yên cho đó. Nay ta đem một khu đất
rộng gấp mười xin đổi để làm rộng đất của An Lăng Quân mà An Lăng Quân trái ý
quả nhân, bộ khinh quả nhân chăng?
Đường Thư đáp:
- Không, không phải vậy.
An Lăng Quân nhận đất của tiên vương mà gìn giữ, dẫu ngàn dặm cũng không dám đổi,
nói chi là năm trăm dặm!
Vua Tần nổi giận, bảo
Đường Thư:
- Ông đã từng nghe nói
thiên tử giận thì ra sao không?
Đường Thư đáp:
- Hạ thần chưa từng được
nghe.
- Thiên tử mà nổi giận
thì thây nằm trăm vạn, máu chảy ngàn dặm…
- Thế đại vương đã từng
nghe nói hạng áo vải nổi giận thì ra sao không?
- Tụi áo vải mà nổi giận
thì cũng chỉ lột mão, tuột dép mà dập đầu xuống đất chứ gì?
Đường Thư bảo:
- Bọn thất phu nổi giận
thì như thế, kẻ sĩ nổi giận thì khác. Lúc Chuyên Chư đâm Vương Liêu 90 thì sao chổi át mặt trăng; lúc Nhiếp
Chính đâm Hàn Khôi 91 thì cầu vòng trắng xuyên qua mặt trời;
lúc Yêu Li đâm Khánh Kỵ 92 thì chim ưng xanh mổ nhau 93 ở trên điện, ba vị đó đều là những kẻ sĩ
áo vải cả, trong lòng nén giận chưa cho nó phát tiết mà trên trời đã lộ ra những
hiện tượng đó. Nay sắp thêm có tôi nữa là bốn. Kẽ sĩ mà phải nổi giận lên thì
thây nằm hai cái, máu chảy năm bước, thiên hạ phải để tang, tức như ngày hôm
nay đây!
Rồi tuốt gươm, đứng dậy.
Vua Tần hoá nhũn, quì mọp xuống tạ lỗi:
- Mời tiên sinh ngồi xuống,
làm gì tới nỗi đó! Quả nhân hiểu rồi. Hàn, Nguỵ bị diệt vong, An Lăng chỉ có
năm chục dặm mà còn được, chỉ là nhờ có tiên sinh vậy!
89 Bậc trưởng giả
là bậc lớn tuổi đáng kính.
90 Vương Liêu: là
vua nước Ngô; Chuyên Chư: là thích khách nước Ngô. Ngô Vương là Hạp Lư sai
Chuyên Chư giết Vương Liêu. Vương Liêu thích ăn cá nướng. Chuyên Chư giấu lưỡi
dao trong bụng con cá, khi dâng cá, dùng dao đâm Vương Liêu.
91 Nhiếp Chính là
người đời Chiến Quốc; Nghiêm Trọng Tử có hiềm khích với Hàn Khôi, cậy Nhiếp
Chính giết (coi truyện Hàn II 19 ở sau).
92 Yêu Li: là người
nước Ngô, Ngô Vương là Hạp Lư sai khi sai Chuyên Chư giết Vương Liêu rồi, lại
sai Yêu Li giết con của Vương Liêu là Khánh Kỵ.
93 Có sách chú
thích là xẩn vấn ở trên điện, hoặc sà xuống cung điện.
--------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét