Thứ Năm, 29 tháng 12, 2022

CHƯƠNG V - TRIỆU SÁCH

 

CHƯƠNG V

TRIỆU SÁCH

Tổ tiên của Triệu họ Doanh, trước làm quan nước Tấn.

Nhà Chu, Uy Liệt Vương (425-401) phong cho tước hầu 1 , từ đó Triệu thành một nước chư hầu, đô ở Hàm Đan (nay thuộc tỉnh Trực Lệ), tới đời Triệu Tương Tử dời đô qua Tấn Dương (Sơn Tây ngày nay). Truyền ngôi được 182 năm rồi bị Tần diệt. Thời Chiến Quốc cũng là một trong thất hùng.

Đất của Triệu nay nằm trên các tỉnh Hà Bắc, Sơn Tây và Hà Nam (phía bắc sông Hoàng Hà).

1       Uy Liệt Vương (sách in sai thành Ung Liệt Vương): Năm 403, Chu Uy Liệt Vương phong hầu cho ba đại phu của nước Tấn là Triệu Tịch (tức Triệu Liệt hầu), Nguỵ Tư, Hàn Kiền.


TRIỆU I

2. TRÍ BÁ QUÁ THAM MÀ BỊ DIỆT

(Trí Bá suất Triệu, Hàn, Nguỵ)


Trí Bá thống lĩnh quân của ba nước Triệu, Hàn, Nguỵ, đánh hai họ Phạm và Trung Hàng và diệt được; vài năm sau, sai người qua Hàn đòi đất. Hàn Khang Tử định không cho, Đoàn Qui can:

- Không nên vậy. Trí Bá là con người ham lợi và hung bạo, hắn sai người lại đòi đất mà không cho thì hắn tất dấy binh đánh Hàn. Nhà vua nên cho hắn để hắn quen mùi, lại đòi đất của nước khác, nước khác không chịu, hắn tất đem binh đánh, như vậy Hàn tránh được hoạ mà đợi xem sự thể chuyển biến ra sao.

Khang Tử đáp:

- Hay!

Rồi sai sứ giả đem một ấp một vạn nhà dâng Trí Bá. Trí Bá mừng, lại sai người đòi đất của Nguỵ. Nguỵ Tuyên Tử định không cho. Triệu Gia can:

- Hắn đòi đất của Hàn, Hàn cho; nay đòi đất của Ngụy, Nguỵ không cho thì Nguỵ ở trong lòng là tự thị mình mạnh, mà ở ngoài là chọc giận Trí Bá; như vậy Trí Bá tất đem quân đánh Nguỵ! Không bằng cho hắn đi.

Tuyên Tử đáp:

- Phải.

Rồi sai người đem một ấp một vạn nhà cho Trí Bá. Trí Bá mừng, lại sai người qua Triệu; đòi đất Thái và Cao Lăng 2 . Triệu Tương Tử không cho, Trí Bá bèn lén liên minh với Hàn, Nguỵ định đánh Triệu.

Triệu Tương Tử vời Trường Mạnh Đàm vô cho hay và bảo:

- Trí Bá là con người lá mặt lá trái, ba lần sai sứ giả đi đòi đất, Hàn, Nguỵ cho mà quả nhân không cho, thế nào hắn cũng đem binh qua đánh Triệu, chúng ta nên đề phòng cách nào bây giờ?

Trương Mạnh Đàm đáp:

- Xưa Đổng Ất An Vu 3 là bề tôi giỏi của Giản Chúa 4 . Ông ta cai trị đất Tấn Dương, sau Doãn Trạch 5 theo chính sách của ông ta, tới nay đất đó còn giữ được chính giáo cũ, nhà vua nên thiên đô lại Tấn Dương.

Vua đáp:

- Phải.

Rồi sai Diên Lăng Vương thống lĩnh chiến xa và kị binh, tới Tấn Dương trước, còn mình theo sau. Tới nơi xem xét ngay thành quách, kho, phủ cùng lẫm lúa, rồi vời Trương Mạnh Đàm vô hỏi:

- Thành quách kiên cố, kho và phủ đủ dùng, lẫm đầy lúa, nhưng không có tên, làm sao bây giờ?

Trương Mạnh Đàm đáp:

- Tôi nghe nói Đổng Tử khi xây dựng Tấn Dương, tường các cung và dinh thự đều làm bằng các loại cây cỏ địch, cảo, hộ, sở 6 , và đều cao trên một trượng. Nhà vua nên phá ra mà dùng.

Vua bèn đem những thứ cây cỏ đó ra dùng thử thì thấy dẫu đến tên bằng loại trúc quần lộ 7 cũng không cứng hơn được.

Lại bảo:

- Tên như vậy là có đủ rồi, nhưng đồng ít quá, làm sao bây giờ?

Trương mạnh Đàm đáp:

- Tôi nghe nói khi xây thành Tấn Dương, cột các phòng trong cung đều làm bằng đồng đã luyện, xin nhà vua phá ra mà dùng thì sẽ có dư đồng.

Vua đáp:

- Phải.

Thế là hiệu lệnh đã ban, các khí cụ phòng bị đã đủ. Binh ba nước tới thành Tấn Dương, quân Triệu nghênh chiến, ba tháng mà địch không phá được thành. Địch bèn nghỉ tấn công mà bao vây, đào sông Tấn tháo nước vô thành. Vây tới ba năm. Trong thành dân phải làm ổ trên cây mà ở, treo nồi lên mà đun nấu, thức ăn gần hết, quân lính đau ốm.

Tương Tử bảo Trương Mạnh Đàm:

- Lương thực cạn, sức chống cự hết, sĩ và đại phu đau. Tôi không còn giữ thành được nữa, muốn xin hàng đây, ông nghĩ sao?

Trương Mạnh Đàm đáp:

- Tôi nghe nói: nước sắp diệt vong mà không bảo toàn được, thế muốn nguy mà không cứu được thì còn quí kẻ tài trí làm gì? 8 Nhà vua nên bỏ cái kế đó đi 9 , đừng nói nữa. Tôi xin đi yết kiến vua Hàn và vua Nguỵ.

Tương Tử đáp:

- Vâng.

Trương Mạnh Đàm bèn lén yết kiến vua Hàn và vua Nguỵ, bảo:

- Tôi nghe nói môi hở thì răng lạnh. Nay Trí Bá đem quân của hai nước (Hàn, Nguỵ) mà đánh Triệu. Triệu sắp mất rồi. Triệu mất thì sẽ đến phiên nước của hai vua đấy.

Vua Hàn, vua Nguỵ đáp:

- Chúng tôi biết như vậy, Trí Bá là con người hung bạo, ít lòng nhân ái, nếu mưu kế của chúng tôi chưa kịp thực hành mà hắn đã biết được thì hoạ lớn cho chúng tôi. Tính sao bây giờ?

Trương Mạnh Đàm đáp:

- Mưu kế từ miệng hai vua phát ra, đi thẳng vào tai tôi, không ai biết được.

Vua Hàn và vua Nguỵ cùng với Trương Mạnh Đàm lén liên kết quân ba nước, hẹn nhau một ngày nào đó, đương đêm sẽ cho quân tới thành Tấn Dương. Trương Mạnh Đàm về báo với Tương Tử. Tương Tử vái Trương Mạnh Đàm hai vái. Rồi Trương Mạnh Đàm triều kiến Trí Bá, khi ra, gặp Trí Quá ở ngoài viên môn 10 . Trí Quá vô yết kiến Trí Bá, bảo:

- E rằng hai vua Hàn, Nguỵ sẽ phản loạn.

Trí Bá hỏi:

- Sao biết?

- Tôi gặp Trương Mạn Đàm ở viên môn, thấy hắn ý chí tự đắc, hành vi ngạo mạn.

- Không phải. Ta đã kết ước với hai vua Hàn, Nguỵ rồi; hễ phá Triệu xong thì chia đất làm ba phần đều nhau, ta thân thiện với hai vua đó, họ tất không lừa ta. Thôi đừng nói nữa.

Trí Quá ra, qua yết kiến hai vua Hàn, Nguỵ, rồi lại vô nói với Trí Bá:

- Hai vua Hàn, Nguỵ sắc diện và tâm ý đều biến động, thế nào cũng phản bội nhà vua, nên sai người giết đi.

- Binh đóng ở Tấn Dương này đã ba năm. Chỉ trong sớm tối là phá được mà hưởng lợi, lúc này mà còn đổi tâm là việc không thể có 11 . Thôi, ông đừng nói thêm một lời nào nữa.

- Nếu không giết họ thì nên thân thiện với họ.

- Thân thiện làm sao?

- Mưu thần của Nguỵ Hàn Tử là Triệu Gia, mưu thần của Khang Tử là Đoàn Qui, hai người đó đều có thể làm thay đổi mưu kế của chủ. Nhà vua kết ước với hai vua, hễ phá Triệu rồi thì nhà vua phong cho hai mưu thần đó mỗi người một huyện một vạn nhà. Như vậy lòng hai vua kia sẽ không thay đổi mà dục vọng của nhà vua sẽ đạt.

Trí Bá bảo:

- Phá Triệu rồi chia đất làm ba phần đều nhau, mà ta phải phong cho hai người đó mỗi người một huyện một vạn nhà, phần của ta nhỏ quá. Không được.

Trí Quá thấy vua không dùng mình, không nghe lời mình, ra về, đổi thành họ Phụ, rồi đi đâu mất biệt.

Trương Mạnh Đàm hay tin, vô yết kiến Tương Tử, bảo:

- Tôi gặp Trí Quá ở ngoài viên môn, hắn có vẻ nghi tôi, hắn vô yết kiến Trí Bá, rồi trở ra đổi tên họ. Tối nay mà không tấn công ngay thì lỡ mất cơ hội.

Tương Tử đáp:

- Vâng.

Rồi sai Trương Mạnh Đàm yết kiến hai vua Hàn, Nguỵ, hẹn nhau đêm đó giết tên quan coi đập 12 , mà cho nước sông ùa vào chỗ quân Trí Bá đóng. Quân Trí Bá lo việc cứu thuỷ mà hỗn loạn; Hàn, Nguỵ hai bên đánh vào hông, còn tướng sĩ của Tương Tử đánh phía trước, phá tan quân Trí Bá, cầm tù Trí Bá.

Trí Bá chết rồi, mất nước, đất bị chia, thiên hạ cười là tham lam vô độ. Vì không nghe lời Trí Quá nên mới bị diệt vong. Họ Trí bị diệt hết, duy có họ Phụ là còn.

2       Hai đất đó, đều của Triệu nay thuộc tỉnh Sơn Tây.

3       Đổng Ất An Vu: cũng gọi là Đổng An Vu là gia thần của Triệu Giản Tử. Trong sách Hàn Phi, gọi là Đổng Vu.

4       Tức Triệu Giản Tử, cha của Tương Tử.

5       Doãn Trạch: cũng là gia thần của Triệu Giản Tử. Trong sách Quốc ngữ gọi là Doãn Đạc

6       Những cây cỏ đó đều dùng làm tên.

7       Một loại trúc rất tốt.

8       Ý nói như vậy thì kẻ tài trí hoá vô dụng mất.

9       Tức ý định đầu hàng.

10     Viên môn là cửa ngoài các nha thự.

11     Ý nói vua Hàn và vua Nguỵ dại gì mà phản Trí Bá lúc này.

12     Cái đập này ngăn nước sông Tấn để nước chảy vô thành Tấn Dương.


4. TRUYỆN DỰ NHƯỢNG

(Tấn Tất Dương chi tôn)



Cháu Tấn Tất Dương tên là Dự Nhượng, mới đầu thờ hai họ Phạm và Trung Hàng, không được như ý, mới qua thờ Trí Bá, được Trí Bá rất quí. Đến khi Tam Tấn phân chia đất của họ Trí, Triệu Tương Tử rất oán Trí Bá, dùng đầu lâu Trí Bá làm tô đựng rượu. Dự Nhượng trốn vào trong núi, bảo:

- Than ôi! “Kẻ sĩ hy sinh vì tri kỷ, đàn bà tô điểm vì người yêu”. Thế nào ta cũng báo thù cho họ Trí.

Rồi đổi họ, giả dạng làm người bị tội, vô cung quét dọn 13 cầu tiêu để có cơ hội đâm Tương Tử. Tương Tử vô cầu tiêu, thấy tâm xao động, bắt người quét dọn cầu tiêu ra tra hỏi thì là Dự Nhượng. Dự Nhượng đã mài nhọn cái “thiên” 14 , đáp: “Muốn báo thù cho Trí Bá”.

Kẻ tả hữu muốn giết Dự Nhượng, Triệu Tương Tử can:

- Hắn là nghĩa sĩ, ta nên cẩn thận tránh hắn thôi. Vả lại Trí Bá chết, không có kẻ nối dõi, bề tôi thay con cháu của chủ mà báo thù cho chủ thì là người hiền trong thiên hạ.

Rồi tha Dự Nhượng.

Dự Nhượng lại sơn mình thành người cùi, cạo hết râu và lông mày, tự huỷ hoại thân thể để biến đổi dung mạo, giả trang làm kẻ ăn mày đi ăn xin. Vợ nhận không ra, bảo:

- Dong mạo thì khác chồng mình mà sao giọng nói thì rất giống?

Dự Nhượng nghe vậy bèn nuốt than để đổi giọng cho hoá khàn khàn. Một người bạn bảo Dự Nhượng:

- Việc anh làm đã rất khó khăn mà không công hiệu. Bảo rằng anh có chí thì đúng, còn bảo rằng anh có trí thì không. Dùng tài của anh mà thờ Tương Tử thì Tương Tử tất thân tín anh, được thân tín rồi, mới thi hành việc anh muốn làm thì việc rất dễ mà công tất thành.

Dự Nhượng cười, đáp:

- Như vậy thì là vì báo thù cho người tri kỷ trước mà hại người tri kỷ sau, vì vua cũ mà giết vua mới, làm loạn cái nghĩa vua tôi đến vậy là cùng cực. Chí hướng của tôi là muốn làm sáng cái nghĩa vụ vua tôi, chứ không phải là muốn lựa việc dễ mà làm. Vả lại đã làm lễ tương kiến 15 mà thờ người ta mà lại còn muốn giết người ta thì là ăn ở hai lòng với người ta. Tôi sở dĩ lựa việc khó mà làm là cũng muốn cho những kẻ bề tôi trong thiên hạ sau này mà ăn ở hai lòng với vua thì phải xấu hổ.

Ít hôm sau, Tương Tử có việc phải đi tuần thú, Dự Nhượng nép ở dưới một chiếc cầu mà Tương Tử sẽ qua. Tương Tử tới cầu thì con ngựa bỗng hoảng, Tương Tử bảo:

- Tất có Dự Nhượng núp đâu đây.

Sai người tra vấn 16 , quả nhiên là Dự Nhượng. Tương Tử bèn vạch mặt Dự Nhượng, kể tội:

- Ngươi từng thờ hai họ Phạm và Trung Hàng đấy chứ? Trí Bá diệt họ Phạm và Trung Hàng mà ngươi không báo thù cho vua, lại làm lễ tương kiến thờ Trí Bá. Trí Bá đã chết, sao ngươi riêng quyết tâm phục thù cho Trí Bá như vậy?

Dự Nhượng đáp:

- Tôi thờ hai họ Phạm và Trung Hàng, Phạm và Trung Hàng coi tôi như mọi người thường, cho nên tôi cũng lấy tư cách của mọi người thường mà đáp lại. Trí Bá coi tôi như bậc quốc sĩ, cho nên tôi lấy tư cách quốc sĩ đáp lại.

Tương Tử, bùi ngùi, sa lệ, than:

- Ôi! Ông Dự! Ông vì Trí Bá mà hành động như vậy cũng đã là được tiếng rồi! Mà tôi tha ông một lần như vậy cũng là đủ rồi! Ông tự xử lấy đi 17 , tôi không tha ông nữa đâu.

Rồi sai lính vây Dự Nhượng. Dự Nhượng đáp:

- Tôi nghe nói bậc minh quân không che lấp lòng trung nghĩa của người, mà bực trung thần không tiếc chết, miễn là thành danh. Ngài trước đã khoan dung phóng thích tôi, trong thiên hạ không ai không khen ngài hiền; việc hôm nay, tôi đành chịu tội chết, chỉ xin ngài cho tôi mượn chiếc áo của ngài để tôi đâm vào, như vậy chết sẽ không hận. Tôi chỉ xin bày tỏ nguyện vọng như vậy, còn thì tuỳ lượng ngài.

Tương Tử trọng nghĩa khí đó, sai người cầm áo của mình đưa cho Dự Nhượng. Dự Nhượng tuốt gươm ra, nhảy lên ba lần kêu trời chứng giám, vừa đâm vào áo vừa nói:

- Ha, có thể báo thù Trí Bá được rồi.

Rồi đâm cổ tự tử. Hôm mất, kẻ sĩ nước Triệu không ai là không nhỏ lệ.

13     Nguyên văn là đồ xí «塗廁». Các nhà nho nước ta thời trước và cả Diệp Ngọc Lân đều giảng là quét dọn cầu tiêu. Crump dịch là trát cầu tiêu. Chữ đồ nghĩa là bùn, nhớp, tô màu lên vật khác, lấp chỗ hở. Vậy hiểu theo nghĩa nào cũng được.

14     Nguyên văn là nhẫn kỳ hãn «刃其扞». Hứa Khiếu Thiên giảng nhẫn là chặt, hãn là mũi nhọn của cây thương, (cũng gọi là đạc «», nhưng trong Từ Hải về chữ đạc không thấy ghi nghĩa này). Diệp Ngọc Lân dịch nhẫn kỳ hãn là để lộ binh khí ra (lộ xuất binh khí) thì sai quá. Crump trên đã dịch đồ là trát, nên dịch hãn là cái bay, và nhẫn kỳ hãn là mài nhọn cái bay thành lưỡi dao. Nhưng tra Từ Hải, Từ Nguyên chúng tôi không thấy hãn có nghĩa là cái bay. Chỉ thấy trong Từ Hảicó chữ thiên «» (rất giống chữ hãn) nghĩa là một vật dải, nhọn hình như lá tre để nạo những vật dơ. Chúng tôi đoán có lẽ là chữ thiên nên dịch: “đã mài nhọn cái thiên”.

15     Nguyên văn: uỷ chí là giao lễ vật. Hồi xưa khi mới tương kiến, thường có vật tặng nhau; kẻ sĩ muốn xin làm bề tôi một người quyền quí nào cũng mang theo lễ vật.

16     Nguyên văn là vấn «». Crump dịch là: tìm kiếm.

17     Nguyên văn là: Tử tự vi kế, Crump dịch là: Ông tất phải biết rằng…


8. TÔ TẦN THUYẾT LÍ ĐOÁI

(Tô Tần thuế Lí Đoái)


Tô Tần thuyết Lí Đoái rằng:

- Tô Tần ở Lạc Dương (…) 18 , nhà nghèo, cha mẹ già, không có xe tồi ngựa hèn, không có xe bánh bằng gỗ dâu, tráp đương bằng sậy, nên đùi quấn xà cạp, chân đi dép cỏ, đội sách, đeo đẫy, giẫm cát, dầm sương, qua sông Chương, chân thành chai, trăm ngày mới ngừng 19 , tới cửa ngoài, xin được yết kiến ngài mà đàm đạo việc thiên hạ.

Lí Đoái đáp:

- Tiên sinh đem lời ma quỉ kể với tôi thì được, còn nhân sự thì Đáo tôi biết hết cả rồi.

Tô Tần đáp:

- Tôi vốn có ý đem lời ma quỉ kể với ngài đây, không phải là kể những lời của người sống đâu.

Lí Đoái bèn cho yết kiến.

Tô Tần bảo:

- Ngày tôi lại đây, trời đã tối mà còn ở ngoài cửa thành, kiếm một chiếc chiếu để nằm cũng không có, phải vô tá túc một trại ruộng. Bên cạnh trại có một bụi cây lớn. Nửa đêm, một hình bằng đất cải nhau với một hình bằng gỗ, bảo: “Mày không bằng tao. Tao là đất, dù có gặp gió lớn, mưa dầm, tao có bị tan rã thì cũng trở về với đất. Còn mày, nếu không phải là rễ thì là cành cây, mày mà gặp gió lớn mưa dầm thì trôi vào sông Chương rồi phiêu bạt qua đông, tới bể, không biết ngừng ở đâu”.

Tôi trộm nghĩ rằng hình bằng đất thắng hình bằng gỗ. Nay ngài giết chúa và diệt dòng dõi của chúa, địa vị của ngài trong thiên hạ nguy như trứng để đầu đẳng 20 , ngài mà nghe kế của tôi thì sống, không nghe thì chết.

Lí Đoái đáp:

- Xin tiên sinh về nghỉ, ngày mai lại vô yết kiến Đoái tôi.

Tô Tần ra. Kẻ tả hữu của Lí Đoái bảo Lí Đoái:

- Tôi trộm nghĩ, chúa công và ông Tô bàn bạc với nhau thì tài biện bác của ông Tô hơn chúa công. Chúa công có chịu theo kế của ông Tô không?

Lí Đoái đáp:

- Không.

- Chúa công đã không chịu theo thì xin bịt kỹ hai lỗ tai lại, đừng nghe ông Tô nói nữa.

Hôm sau Tô Tần lại vô yết kiến, đàm đạo suốt ngày rồi đi. Kẻ tả hữu của Lí Đoái tiễn Tô Tần ra cổng. Tô Tần hỏi người đó:

- Hôm qua lời bàn bạc của tôi thô bạo mà chúa công của ông động lòng; hôm nay lời của tôi tinh tế mà chúa công của ông không động lòng là tại sao?

- Là vì kế hoạch của tiên sinh lớn mà mục đích của tiên sinh lại cao, chúa công tôi không dùng được, cho nên tôi xin người bịt hai tai lại, không nghe lời tiên sinh bàn bạc. Nhưng ngày mai, tiên sinh cứ lại, tôi sinh chúa công tôi trọng thưởng tiên sinh.

Hôm sau, Tô Tần lại vô, vỗ tay mà bàn bạc. Lí Đoái tặng Tô Tần một viên ngọc châu minh nguyệt 21 , một viên ngọc Hoà thị 22 , một chiếc áo bằng da điêu đen và trăm nén vàng. Tô Tần có số đó chi dùng, mà qua phía tây vô nước Tần.

18     Nguyên văn có ba chữ: thừa hiên xa (ngồi xe có hiên, xe của đại phu), chúng tôi ngờ rằng dư. Crump cũng không dịch ba chữ đó. Muốn dịch từng chữ cho đủ thì có thể dịch là: Ở Lạc Dương người ta đi xe sang trọng, mà Tô Tần nhà nghèo…

19     Nguyên văn có bốn chữ: “nhật bách nhi xá”, chúng tôi dịch như vậy không chắc đã đúng. Crump bỏ không dịch.

20     Dịch đúng nguyên văn: trứng chất đống (thế nào trứng trên ngọn cũng rớt xuống và vỡ tan).

21     Minh nguyệt: thứ ngọc châu ban đêm chiếu sáng dịu như ánh trăng.

22     Ngọc Hoà: là thứ ngọc quí ở nước Sở, do người họ Hoà kiếm được, dâng lên Lệ Vương. Một người thợ ngọc bảo Lệ Vương: “Đá đấy, không phải là ngọc”. Lệ Vương nổi giận, sai chặt chân trái của người họ Hoà. Người này lại dâng ngọc cho Vũ Vương, cũng vì lẽ trên, bị chặt chân bên phải nữa. Khi Văn Vương lên ngôi, họ Hoà cầm viên ngọc mà khóc ở chân núi tại Sở, luôn ba ngày ba đêm, tới hết nước mắt rồi ra máu. Văn Vương sai người hỏi duyên cớ; đáp rằng: “Không buồn vì chặt chân, mà buồn vì ngọc quí mà cho là đá, kẻ trong sạch mà cho là nói láo”. Văn Vương cho người coi kỹ lại viên ngọc, quả là quí, bèn gọi viên ngọc đó là viên ngọc Hoà thị (họ Hoà).

Ở trong bài này, không phải là viên ngọc ấy, mà chỉ là một thứ ngọc quí thôi.


TRIỆU II

2. TÔ TẦN THUYẾT TRIỆU TÚC HẦU THEO HỢP TUNG

(Tô Tần tòng Yên chi Triệu)



Tô Tần từ Yên qua Triệu để khởi xướng cho chính sách hợp tung, bảo vua Triệu:

- Trong thiên hạ, từ bậc nhân tướng khanh thần đến kẻ sĩ áo vải, không ai không phục hành vi, nghĩa khí của đại vương là cao cả, đã từ lâu không ai không mong được tới trước mặt đại vương bày tỏ hết lòng trung và xin đại vương dạy bảo cho. Nhưng vì Phụng Dương Quân 23 ghen ghét kẻ hiền năng mà đại vương lại không được chuyên quyền, cho nên những khách ở nước ngoài và những kẻ sĩ du thuyết không dám tới trước mặt đại vương để bày tỏ hết lòng trung. Phụng Dương Quân đã chết, đại vương từ nay trở đi được tiếp xúc với nhân dân, cho nên tôi mới dám tới dâng ý nông cạn và hết sức bày tỏ lòng trung ngu muội. Tôi vì đại vương mà mưu tính, nghĩ rằng không gì bằng dùng chính sách an dân, đừng “hữu vi” 24 bày đặt việc này việc khác. Gốc của sự an dân ở chỗ chọn nước mà giao hảo; khéo chọn nước mà giao hảo thì dân được an nhàn, không khéo chọn nước mà giao hảo thì suốt đời lao đao.

Tôi xin bàn về cái hoạ của nước ngoài. Tề và Tần là hai địch thủ lớn của Triệu, nên dân Triệu không được an nhàn. Dựa vào Tần mà đánh Tề thì dân không được an nhàn, dựa vào Tề mà đánh Tần thì dân cũng không được an nhàn. Cho nên tính chuyện với vua nước khác để đánh nước người, thì lời nói thường vội vàng mà đoạn tuyệt tình ban giao của người 25 , xin đại vương thận trọng đừng thốt ra những lời đó. Xin đại vương cho bọn tả hữu lui ra để tôi phân biệt hai chính sách âm dương 26 .

Nếu đại vương quả thật theo mưu kế của tôi thì nước Yên tất cống hiến những đất có dạ, áo lông, chó ngựa; Tề tất dâng những đất có cá, muối ở bờ biển; Sở tất dâng đất miền Vân, Mộng, có quất, bưởi; Hàn, Nguỵ đều dâng những ấp mà thuế má dùng vào việc tắm gội; thân thích cha anh đại vương đều được những đất phong hầu. Việc cắt đất và thu tiền tài hoá vật như vậy, ngũ bá hồi xưa chịu hy sinh tướng sĩ mà làm cho được; để cho thân thích được phong hầu, vua Thang, vua Vũ thời xưa phải giết Kiệt, Trụ mà tranh lấy đất. Nay đại vương chỉ cần rủ áo chắp tay 27 mà được cả hai 28 , đó là điều tôi vì đại vương mà mong mỏi.

Đại vương mà thân thiện với Tần thì Tần tất xâm lược Hàn, Nguỵ; thân thiện với Tề thì Tề tất xâm lược Sở, Nguỵ. Nguỵ suy yếu rồi thì tất phải cắt đất Hà Ngoại, Hàn suy yếu rồi thì tất phải dâng đất Nghi Dương, Nghi Dương dâng rồi thì Thượng Quận 29 bị cách tuyệt. Hà Ngoại cắt rồi thì đường nghẽn 30 ; Sở suy yếu rồi thì không còn ai cứu viện nữa. Ba kế sách đó không thể không tính cho kỹ 31 .

Tần đem quân chiếm Chỉ Đạo 32 thì Nam Dương biến động, rồi cướp nước Hàn, vây nước Chu mà Triệu tự nhiên tan rã. Tần mà chiếm cứ nước Vệ, được đất Kỳ thì nước Tề tất triều kiến Tần. Tần đã tới được Sơn Đông rồi thì tất đem quân nhắm nước Triệu; quân Tần qua sông Hoàng Hà, vượt khỏi Lâm Chương, chiếm Phiên Ngô thì tất đem quân đánh nhau với Triệu ở dưới chân thành Hàm Đan; đó là điều tôi lo giùm cho đại vương.

Đương lúc này, các nước ở Sơn Đông, không nước nào mạnh bằng Triệu, đất Triệu rộng hai ngàn dặm, binh giáp được vài chục vạn, chiến xa được ngàn cỗ, chiến mã được vạn con, lúa chi dùng được mười năm. Phía Tây có Thường Sơn, phía nam có Hà Chương 33 , phía đông có Thanh Hà, phía bắc có nước Yên. Yên là một nước yếu, không đáng lo. Trong thiên hạ Tần không hận nước nào bằng Triệu, mà Tần không dám cử binh đánh Triệu là vì sao? Là vì sợ có Hàn, Nguỵ đánh lén phía sau Tần. Như vậy thì Hàn, Nguỵ là cái phên che phía nam của Triệu. Nhưng nếu Tần đánh Hàn, Nguỵ thì tình hình sẽ khác; không có núi cao sông rộng ngăn cách, cứ lần lần tàm thực cho tới khi tới kinh đô mới ngừng; Hàn, Nguỵ không chống được Tần tất xin thờ Tần. Hàn, Nguỵ thờ Tần rồi, Triệu không có Hàn, Nguỵ ngăn cách với Tần nữa mà hoạ sẽ tới Triệu; đó là điều tôi lo giùm cho đại vương.

Tôi nghe nói vua Nghiêu không có được ba trăm mẫu ruộng, vua Thuấn không có được một tấc đất mà làm chủ được thiên hạ; vua Vũ không có trăm người theo mà làm vua chư hầu, quân lính không quá ba ngàn người, chiến xa không quá ba trăm cỗ mà vua Thang, vua Võ lên ngôi thiên tử, chính là nhờ hiểu được các đạo cường thịnh. Cho nên bậc minh quân, ở ngoài thì lượng sức mạnh yếu của địch, ở trong thì xét sĩ tốt nhiều ít, có hiền tài hay không, không đợi đến lúc quân mình với quân địch giao chiến mà cái cơ thắng bại tồn vong đã thấy rõ từ trước ở trong lòng rồi, đâu có bị lời đại chúng làm mê muội, mà quyết đoán một cách hồ đồ.

Tôi xin trộm đem địa đồ trong thiên hạ ra xét, đất của chư hầu rộng gấp năm Tần, tôi phỏng binh sĩ của chư hầu nhiều gấp mười Tần. Sáu nước 34 đoàn kết làm một, quay về phía tây đánh Tần thì Tần tất mất. Nay sáu nước để cho Tần đánh tan, hướng về phía Tần mà thờ Tần, làm bề tôi cho Tần. Phá tan nước người với bị nước người phá tan, người làm bề tôi mình với mình làm bề tôi người, hai cái đó khác nhau xa. Bọn người chủ trương liên hoành kia đều muốn cắt đất của chư hầu để cầu hoà với Tần. Họ cầu hoà với Tần thì có thể xây cất đài cao, sửa sang cung đẹp, nghe tiếng sáo, tiếng (đàn) sắt, nếm những món thơm ngon, phía trước có xe ngựa, phía sau có sân đài, có người đẹp cười duyên, nhưng rồi khi có cái hoạ vì Tần thì bỏ mặc vua. Thế cho nên bọn chủ trương liên hoành kia ngày đêm đem cái quyền uy của Tần doạ các chư hầu để chư hầu cắt đất cho Tần, xin đại vương nghĩ kỹ về điều đó.

Tôi nghe rằng bậc minh quân không do dự, không nghe lời gièm pha, mà gạt bỏ những lời không chứng cứ, lấp cái cửa bè đảng, cho nên thần xin trung thành dâng lên đại vương cái kế làm cho vua được tôn quí, đất được mở rộng, binh được hùng cường. Tôi trộm vì đại vương mưu tính thì không gì bằng sáu nước Hàn, Nguỵ, Tề, Sở, Yên, Triệu hợp tung thân thiện với nhau để chống cự với Tần; khiến cho các vị tướng quốc, tướng soái trong thiên hạ đều họp nhau ở trên bờ sông Viên, các nước trao đổi con tin với nhau, giết ngựa trắng, cùng thề với nhau rằng: “Tần mà đánh Sở thì Tề, Nguỵ sẽ đem binh tinh nhuệ ra giúp Sở, Hàn sẽ cắt đứt đường vận lương của Tần, Triệu sẽ đem quân qua sông Hà Chương, Yên sẽ giữ phía bắc miền Thường Sơn. Tần mà đánh Hàn, Nguỵ thì Sở sẽ cắt đứt phía sau của Tần, Tề sẽ đem binh tinh nhuệ ra giúp Hàn, Nguỵ. Triệu sẽ đem quân qua Hà Chương, Yên sẽ giữ miền Vân Trung. Tần mà đánh Tề thì Sở sẽ cắt đứt phía sau của Tần, Hàn sẽ giữ thành Cao, Nguỵ sẽ chặn ở Ngọ Đạo, Triệu sẽ đem quân qua sông Hà Chương, đóng ở Bắc Quan, Yên sẽ đem quân tinh nhuệ ra giúp Tề. Tần mà đánh Yên thì Triệu sẽ giữ Thường Sơn, Sở sẽ đem quân đóng ở Vũ Quan, Tề sẽ đem quân qua Bột Hải, Hàn và Nguỵ sẽ đem quân tinh nhuệ để giúp Yên. Tần mà đánh Triệu thì Hàn sẽ đem quân đóng ở Nghi Dương, Sở đem quân đóng ở Vũ Quan, Nguỵ sẽ đem quân đóng ở Hà Ngoại, Tề sẽ đem quân qua bột Hải, Yên sẽ đem quân tinh nhuệ ra giúp Triệu. Nước chư hầu nào bội ước trước thì năm nước kia sẽ cùng đem quân đánh”. Sáu nước hợp tung, thân thiện với nhau để chống cự Tần thì Tần không dám đem quân khỏi cửa Hàm Cốc mà đánh phá Sơn Đông, như vậy nghiệp bá của đại vương sẽ thành.

Vua Triệu đáp:

- Quả nhân nhỏ tuổi, cầm quyền mới được ít ngày, chưa từng được nghe kế hoạch trường cửu để trị nước; nay quí khách có ý bảo vệ thiên hạ, an định chư hầu, quả nhân xin kính cẩn đem nước Triệu ra theo kế hoạch của quí khách.

Rồi phong Tô Tần làm Vũ An Quân, tặng trăm cổ xe trang sức đẹp đẽ, ngàn nén vàng, trăm đôi bạch ngọc, ngàn tấm gấm vóc để Tô Tần đi liên hợp các chư hầu.

23     Phụng Dương Quân là em vua Triệu. Mới đầu, Tô Tần tới Triệu, không được Phụng Dương Quân niềm nở tiếp, nên bỏ qua Yên, nay mới trở lại Triệu.

24     “Hữu vi” ở đây có nghĩa là “nhiễu sự”.

25     Chỉ những người theo chính sách liên hoành.

26     Tức chính sách hợp tung và liên hoành, hai chính sách trái ngược nhau như âm với dương.

27     Ý nói ngồi không, không phải khó nhọc.

28     Tức vua Triệu đã chiếm được thêm đất của các nước kia, mà thân thích vua Triệu lại được đất phong nữa.

29     Có lẽ lầm, là Thượng Đảng thì phải hơn vì Thượng Đảng ở gần Nghi Dương, chỉ cách một con sông, còn Thượng Quận thì ở cách xa lắm.

30     Ý nói: Nguỵ suy rồi, phải cắt đất ở Hà Ngoại cho Tần và con đường tới Thượng Quận sẽ bị nghẽn.

31     Đoạn này lý luận không minh bạch. Chủ ý Tô Tần là ngăn Triệu liên hợp với Tần mà sao lại kể cái hại liên hợp với Tề? Mà ba kế sách đó là những kế sách nào?

32     Chỉ Đạo nay ở Thiểm Tây.

33     Hà Chương không rõ là một hay hai con sông, Từ Hải không có Hà Chương, chỉ có Chương Giang và Chương Hà.

34     Tức: Hàn, Nguỵ, Tề, Sở, Yên, Triệu.


3. TRƯƠNG NGHI THUYẾT TRIỆU VŨ LINH VƯƠNG THEO LIÊN HOÀNH

(Trương Nghi vi Tần liên hoành)


Trương Nghi vì Tần chủ trương kế hoạch liên hoành, bảo vua Triệu:

- Vua Tần của tệ quốc, sai tôi mạo muội dâng thư lên quan ngự sử của đại vương 35 . Đại vương thống lĩnh thiên hạ để chống Tần, quân Tần không dám ra khỏi cửa Hàm Cốc đã mười lăm năm rồi. Uy quyền của đại vương đã lan ra khắp miền Sơn Đông, trong thiên hạ; tệ quốc sợ sệt, cúi nép, chỉnh đốn binh khí, huấn luyện binh sĩ, sửa sang chiến xa, luyện tập kỵ xạ, gắng sức cày ruộng, trữ lúa, bảo vệ biên cảnh bốn bề, ở trong cảnh lo sầu, sợ sệt đó không dám vọng động, chỉ vì đại vương có ý trách lỗi Tần vậy.

Nay, Tần vì thấy uy lực đại vương phía tây chiếm Ba Thục, nước Hán Trung 36 , phía đông thu phục Đông Chu, Tây Chu mà dời chín đỉnh, giữ bến Bạch Mã, cho nên tuy ở nơi hẻo lánh, xa xôi, mà lòng oán hận sầu muộn đã từ lâu rồi. Nay vua Tần tới đem binh giáp tồi tàn đóng ở Thằng Trì, định qua Hà Chương, chiếm cứ Phiên Ngô, nghinh chiến với Triệu ở dưới chân thành Hàm Đan. Định tới ngày Giáp Tí 37 , giao chiến với Triệu, để noi gương (Chu Võ Vương), diệt Ân Trụ thời xưa, nên sai tôi cung kính lại báo trước cho kẻ tả hữu của đại vương hay.

Đại thể, đại vương sở dĩ tin chính sách hợp tung là trông cậy ở mưu kế của Tô Tần quyến rũ, mê hoặc được chư hầu, làm cho họ tin phải là trái, trái là phải. Nhưng Tô Tần muốn phản phúc nước Tề mà không được 38 , khiến cho chính mình bị xé xác ở chợ nước Tề. Vậy thiên hạ không thể hợp nhất được, lẽ ấy đã rõ.

Nay Sở với Tần đã là hai nước anh em, mà Hàn, Nguỵ đã là những nước phiên thuộc ở phía đông. Tề đã dâng Tần những đất có muối, cá, như vậy là chặt mất cánh tay phải của Triệu rồi. Người đã mất cánh tay phải mà còn mong chiến đấu với kẻ khác, đảng đã tan mà mình cô lập, như vậy thì làm sao khỏi nguy được?

Nay Tần phái ba vị tướng thống suất quân sĩ: một đạo quân chẹn lấp Ngọ Đạo 39 , rồi bảo Tề đem quân qua Thanh Hà 40 đóng ở phía đông Hàm Đan; một đạo quân đóng ở Thành Cao, đốc suất quân Hàn, Nguỵ mà đóng ở Hà Ngoại; một đạo quân đóng quân ở Thằng Trì, cùng hẹn với nhau rằng: “Bốn nước liên kết như một để đánh Triệu, phá được Triệu rồi thì chia đất Triệu làm bốn phần”. Vì vậy tôi không dám giấu giếm tình ý, xin báo trước với người tả hữu của đại vương.

Tôi trộm vì đại vương mưu tính, không gì bằng hẹn với Tần ở Thằng Trì, hội kiến nhau rồi kết thân với nhau. Tôi xin án binh, không tấn công, xin đại vương quyết định đi.

Vua Triệu đáp:

- Sinh thời của tiên vương, Phụng Dương Quân làm tướng quốc, chuyên quyền, che lấp chí tiên vương, độc đoán việc nước. Quả nhân lúc đó ở trong cung, thuộc quyền quan sư phó, không được mưu tính việc nước. Khi tiên vương bỏ quần thần mà qui tiên, quả nhân tuổi còn nhỏ, tới nay coi việc tế tự chưa được bao ngày 41 , nhưng lòng riêng vẫn trộm nghi ngờ, cho rằng kế hợp tung chống Tần không phải là cái lợi trường cửu của nước; cho nên đã có ý thay đổi kế hoạch, cắt đất để tạ tội cũ mà xin thờ Tần; đương cho sửa soạn xe để qua Tần thì vừa được tin sứ giả mang chiếu lệnh sáng suốt của vua Tần.

Rồi cho đánh trăm cổ xe, tới Thằng Trì triều kiến vua Tần, cắt đất Hà Giang để thờ Tần.

35     Lời khiêm tốn: không dám dâng thẳng lên vua Triệu mà dâng lên quan ngự sử.

36     Vậy là Triệu đã chiếm Sở mà uy hiếp Ba Thục ư? Hay là nước khác chiếm mà Trương Nghi trách như vậy vì Triệu là tung trưởng?

37     Ngày Giáp Tí là ngày Chu Võ Vương đánh bại vua Trụ.

38     Coi bài Sở I 17.

39     Ngọ Đạo: là tên đất ở phía đông nước Triệu, phía tây nước Tề.

40     Thanh Hà: nay ở Trực Lệ, qua khỏi Thanh Hà thì tới phía đông Hàm Đan.

41     Ý nói: cầm quyền chưa được bao lâu.


4. VŨ LINH VƯƠNG MUỐN BẬN HỒ PHỤC

(Vũ Linh Vương bình trú nhàn cư)


Vũ Linh Vương gặp lúc ban ngày ngồi không. Phì Nghĩa ngồi hầu, tâu:

- Đại vương có nghĩ đến việc đời biến hoá, đến việc sử dụng vũ khí binh lính, hay nhớ đến sự nghiệp của Giản Tử, Tương Tử 42 để lại, tính đến cái lợi về phía Hồ, Địch 43 không?

Vũ Linh Vương đáp:

- Một ông vua nối nghiệp không quên công đức của tiên vương, đó là cái đạo của người làm vua; trao đổi ý tưởng và chứng minh để làm sáng tỏ cái sở trường của vua mình, đó là phép bàn luận của người làm tôi. Vì vậy mà bậc minh quân khi ngồi không thì có bổn phận dạy dân để dắt dẫn dân cho công việc trị nước được tiện lợi, khi hành động thì có bổn phận làm sáng tỏ một phần trong trăm phần sự nghiệp của các tiên vương đời trước. Làm bề tôi, lúc khốn cùng thì giữ cái lễ từ nhượng với người trên, lúc hiển đạt thì lập cái công cứu dân giúp chúa. Vua tôi khác nhau ở hai chỗ đó. Nay ta muốn kế tục sự nghiệp của Tương Vương, mở mang đất đai của rợ Hồ, rợ Địch mà trọn đời không thành công. Địch quốc yếu thì ta dùng ít binh lực mà công được nhiều, có thể không bắt dân chúng hết sức lao khổ mà hưởng được công lao của cổ nhân. Hễ có cái công lao xuất thế thì tất chịu cái tai tiếng là không theo thế tục; hễ có những tư tưởng độc đáo, sáng suốt thì tất làm cho người đời lo ngại. Nay ta muốn bận y phục của người Hồ, dùng cách cỡi ngựa bắn tên của họ để dạy dân, nhưng như vậy tất bị người đời dị nghị.

Phì Nghĩa đáp:

- Tôi nghe nói: “Sự tình mà còn nghi hoặc thì không thành công, hành động mà còn nghi hoặc thì không thành danh”. Đại vương nếu muốn có những tư tưởng khác đời thì xin đừng chú ý tới lời dị nghị của thiên hạ. “Người nào bàn đến cái đức cực cao siêu thì không hợp với thế tục; người nào lập được công lớn thì không mưu tính với thường nhân”. Xưa vua Thuấn múa mà Hữu Miêu đầu hàng 44 ; vua Vũ loã lồ vào một nước có tục khoả thân 45 , hai vị đó đâu phải là túng dục cầu vui, mà là muốn luận đức và lập công vậy. “Kẻ ngu, việc thành rồi mà vẫn còn tối tăm chưa thấy; người khôn thì đã thấy trước từ khi việc chưa manh nha”. Xin đại vương cứ thi hành ý của mình.

Vũ Linh Vương nói:

- Quả nhân không chê y phục người Hồ, chỉ sợ thiên hạ cười chê thôi. Thấy kẻ cuồng vui nhộn, bậc trí giả thương cho họ; thấy kẻ ngu cười giỡn bậc hiền giả buồn cho họ. Nếu có người theo ta thì sự bận Hồ phục có kết quả tốt, chưa biết tới đâu. Dù người đời đều chê cười ta thì ta cũng không thể vì vậy mà bỏ đất Trung Sơn của rợ Hồ.

Vũ Linh Vương bèn bận Hồ phục, sai Vương Tôn Tiết bảo công tử Thành:

- Quả nhân bận Hồ phục sắp lâm triều đây, muốn chú cũng bận Hồ phục như ta. Ở trong nhà nghe lời cha mẹ, ở triều đình nghe lời vua, đó là cái đạo từ xưa đến nay; con không trái ý cha mẹ, bề tôi không trái ý vua, đó là cái phép chung của các tiên vương. Nay quả nhân đã ra lệnh đổi y phục, nếu chú không tin thì sợ thiên hạ dị nghị. Trị nước có phép thường, là lấy lợi dân làm gốc, trị dân có phép nhất định, là trước hết lệnh ban ra phải thi hành. Cho nên muốn làm sáng cái đức thì phải giảng sao cho bọn ti tiểu đều hiểu rõ, muốn thi hành chính sách thì phải làm sao cho bọn quyền quí đều tin theo. Ta có cái ý bận Hồ phục không phải là để túng dục cầu vui; lý do là ta muốn làm nên sự nghiệp; việc nên công thành rồi thì sau mới thấy được cái đức của ta. Ta sợ chú không tuân lệnh, cho nên phải nói rõ để chú biết mà phán đoán. Ta nghe nói rằng việc nào có lợi cho nước thì không phải là việc bậy, mà nhân danh quí thích mà làm thì không bị mang tiếng, cho nên ta muốn mượn cái tiếng tăm đạo nghĩa của chú để lập cái công nghiệp do Hồ phục gây nên, và sai Tiết lại yết kiến chú, xin chú bận Hồ phục.

Công tử Thành lại hai lạy, đáp:

- Tôi đã được nghe nói nhà vua bận Hồ phục, nhưng vì đau, không đi được, nên không tới sớm được, nay nhà vua ra lệnh, tôi xin đem hết lòng trung thành ngu muội ra bày tỏ. Tôi nghe nói Trung Quốc là nước của những người thông minh tài trí, chỗ tụ họp của tài sản vật dụng, là đất được các vị hiền, thánh giáo hoá, chỗ thi hành điều nhân nghĩa, chỗ mà Thi, Thư, Lễ, Nhạc được dùng, các kỹ nghệ mới mẻ được thí nghiệm, là nơi mà các người phương xa quan chiêm, các rợ man di noi gương mà hành động. Nay nhà vua bỏ cả mà bận theo y phục của người phương xa, biến đổi giáo hoá cùng đạo lý cổ thời, làm trái lòng người, ngược với hạng trí thức, ly khai với văn hóa Trung Quốc. Tôi xin đại vương xét kỹ cho.

Sứ giả về tâu lại với Vũ Linh Vương. Vua đáp:

- Ta biết trước rằng chú không tán thành.

Rồi tới nhà Công Thúc Thành, đích thân giảng giải:

- Y phục cốt sao tiện cho việc sử dụng; lễ pháp cốt sao tiện cho việc thi hành. Vì vậy mà thánh nhân xem xét dân tình trong miền để hợp với phong tục, tuỳ sự tình mà đặt lễ pháp, cốt lợi cho dân mà ích cho nước. Cắt tóc, xâm mình, vẽ lên cánh tay, vạt áo lớn ở bên tả, đó là phong tục dân Âu Việt 46 ; nhuộm răng, sơn đầu, dùng da cá niêm lớn làm nón, may vá cực xấu xí, đó là phong tục dân Đại Ngô, lễ phục tuy khác nhau mà đều là tiện lợi cả. Vì vậy mà khác miền thì cách dùng cũng đổi, khác sự tình thì lễ pháp cũng biến. Cho nên thánh nhân chỉ cầu lợi dân, cách dùng bất tất phải nhất luật; chỉ cần tiện việc, bất tất lễ pháp phải giống nhau. Những người học nho cùng học một thầy mà lễ chế khác nhau. Trung Quốc cùng một phong tục mà giáo hoá khác nhau, như vậy thì nói chi đến miền sơn cốc, cốt tiện thì thôi. Cho nên tới lui biến hoá dù bậc trí giả cũng không thể cứ giữ một lối được, về cách phục sức ở các miền, dù thánh hiền cũng không thể bắt đều như nhau được. Phong tục miền xa xôi có nhiều cái lạ, các học thuyết tà khúc thường ham tranh biện; không biết thì vẫn nghi ngờ, thấy khác mình mà không chê, đó mới là công tâm cầu thiện. Lời của khanh là theo thói tục, lời của ta là muốn sửa phong tục. Nước ta phía đông có sông Hà, sông Bạc Lạc 47 , chung dòng với nước Trung Sơn, nước Tề mà chúng ta không biết dùng thuyền; từ Thường Sơn cho tới miền Đại, Thượng Đảng, cùng chung biên giới với miền Đông Hồ của Yên, phía tây có miền Lâu Phiền, giáp ranh với Tần, Hàn mà không có đủ lính kỵ biết bắn. Cho nên quả nhân mới đóng thuyền, chiêu mộ những dân ở miền sông nước để giữ sông Hà, sông Bạc Lạc, thay đổi y phục, dạy cưỡi ngựa bắn tên để phòng bị biên giới Tam Hồ, Lâu Phiền, Tần, Hàn.

Vả lại trước kia Giản Vương không chẹn miền hiểm yếu từ Tấn Dương đến Thượng Đảng 48 , Tương Vương thôn tính Nhung, Đại rồi muốn đánh các rợ Hồ, điều đó dù kẻ ngu cũng thấy rõ. Hồi trước Trung Sơn cậy có Tề mạnh, đem quân xâm lược nước ta, bắt trói dân ta, dẫn nước vô để vây thành Hạo, nếu thần linh xã tắc không phù hộ thì thành Hạo khó mà giữ được, cho nên tiên vương phẫn uất về việc đó, hận đó đến nay vẫn chưa báo. Nay đổi y phục, bận đồ lính kỵ bắn tên, cái lợi gần là hoàn bị được sự phòng vệ Thượng Đảng, cái lợi xa là báo được cái hận Trung Sơn, mà chú cứ theo cái tục Trung Quốc, làm trái cái ý Giản Vương, Tương Vương, ghét cái tên biến đổi y phục, mà quên cái nhục nước, quả nhân có ngờ đâu chú lại như vậy.

Công tử Thành lạy hai lạy, dập đầu đáp:

- Tôi ngu muội, không hiểu được mưu kế của đại vương, cho nên chỉ bàn về thế tục. Nay đại vương muốn nối ý của Giản Vương, Tương Vương để theo chí của tiên vương, tôi đâu dám không tuân lệnh.

Nói xong, lạy hai lạy. Vũ Linh Vương cấp cho Hồ phục.

*

Triệu Văn tiến lên can:

- Dân cày thì phải khó nhọc để nuôi người quân tử 49 , đó là lẽ thường trong việc trị nước; kẻ ngu thì bày tỏ ý kiến và bậc trí giả bàn luận, phê bình, đó là cái đạo của việc dạy dỗ. Bề tôi không giấu lòng trung, vua chúa không che lấp lời phải, đó là cái phúc của nước. Tôi tuy ngu, xin tỏ hết lòng trung.

Vũ Linh Vương đáp:

- Suy nghĩ không phải là làm loạn, trung trực không phải là có tội, ngươi cứ nói.

Triệu Văn đáp:

- Thời nào kỷ cương ấy; y phục có phép tắc, đó là sự chế định của lễ; sửa phép mà không lầm, đó là nghĩa vụ của dân. Ba cái đó là lời dạy bảo của thánh nhân thời xưa. Nay đại vương bỏ ba cái đó mà theo y phục của người phương xa, sửa đổi giáo huấn của cổ nhân, biến cải đạo của cổ nhân, cho nên tôi xin đại vương nghĩ kỹ lại.

Vũ Linh Vương đáp:

- Lời ngươi nói đó là lời thế tục. Hạng thường dân thì chìm đắm ở thế tục, hạng có học thì chìm đắm ở điều học được (ở sách vở); hai hạng đó chỉ để dùng làm quan tốt, theo chính lệnh, không có thể nhìn xa bàn sâu được. Đời Tam đại y phục không giống nhau mà đều là vương cả, đời Ngũ Bá giáo huấn không giống nhau mà đều giỏi trị nước cả; bậc trí giả lập ra giáo huấn mà kẻ ngu bị bó chặt vào giáo huấn; bậc hiền giả bàn về phong tục mà kẻ bất tiếu thì câu nệ. Hạng dân theo tục về y phục, không thể tỏ hết lòng với họ được; hạng dân câu nệ về phong tục, không thể tỏ hết ý với họ được. Cho nên thời thế phải cùng với phong tục mà biến hoá, lễ cũng phải biến theo, đó là cái đạo của thánh nhân. Theo lời dạy bảo mà hành động, theo phép chứ không được riêng tư, đó là nghĩa vụ của dân. Người biết đọc, có thể tuỳ sự học hỏi mà biến đổi, người hiểu được sự biến hoá của lễ thì có thể tuỳ thời thay đổi; cho nên kẻ biết học (học để cho mình tiến ích) thì không trông đợi ở người, người qui định luật lệ cho đời nay thì không theo cổ. Ngươi nên hiểu điều đó.

Triệu Tạo can rằng:

- Giấu lòng trung mà không tận lực thì thuộc vào hạng gian tà, vì tư lợi mà làm hại nước thì thuộc vào hạng đạo tặc. Phạm tội gian thì phải chết, làm hại nước thì phải giết cả họ. Hai cái đó là hình pháp rõ ràng của bực tiên thánh, và là cái tội lớn của kẻ bề tôi. Tôi tuy ngu, xin tỏ hết lòng trung mà không trốn tử tội.

Vũ Linh Vương đáp:

- Bề tôi bày tỏ hết ý mà không kiêng nể là trung, vua không che lấp lời của bề tôi là sáng suốt. Trung thần không tránh cái nguy, minh quân không cự người nói thẳng, ngươi cứ nói.

Triệu Tạo đáp:

- Tôi nghe nói bực thánh nhân không thay đổi thiên tính của dân khi dạy dỗ, bậc trí giả không biến cải phong tục khi hành động; tuỳ theo thiên tính của dân mà dạy thì không mệt mà thành công, căn cứ vào phong tục mà hành động thì suy nghĩ mau mà dễ thấy. Nay đại vương đổi cũ mà không theo tục, bận Hồ phục mà chẳng kể gì đến thế tục, đó không phải là để dạy dân và giữ được lễ. Vả lại ăn mặc mà kỳ dị thì lòng sinh ra phóng đãng, phong tục rắc rối thì làm cho dân sinh loạn. Cho nên người trị nước không theo y phục kỳ dị, rắc rối; người Trung Quốc thì không có hành động giống với man di, vì cái đó không phải là để dạy dân và giữ lễ. Vả lại theo phép cũ thì không mắc lỗi, theo lễ tục thì không có tà tâm (không cong queo). Tôi xin đại vương nghĩ kỹ lại.

Vũ Linh Vương đáp:

- Mỗi đời phong tục không giống nhau, thế thì biết theo thời cổ nào? Các vị đế vương không theo lễ của nhau, thế thì biết theo lễ nào? Phục Hi, Thần Nông dạy dân mà không dùng tử hình, hoàng đế Nghiêu, Thuấn dùng tử hình mà không giận lây. Đến đời Tam vương tuỳ thời mà định pháp lệnh, tuỳ việc mà đặt ra lễ, pháp lệnh chế độ đều tuỳ nghi cả, y phục khí giới đều tuỳ tiện cả. Cho nên muốn trị dân thì không nhất định phải theo đạo nào, muốn tiện lợi cho nước thì bất tất phải theo cổ. Bậc thánh nhân dựng nghiệp chẳng bắt chước nhau mà đều thành vương nghiệp; tới đời Hạ, đời Ân suy vi, không thay đổi lễ pháp mà bị diệt. Như vậy thì trái với cổ, chưa chắc đã đáng chê, mà theo cổ chưa đủ để khen. Vả lại y phục kỳ dị mà chí phóng đảng, là trường hợp nước Trâu, nước Lỗ, hai nước đó không có những hành động khác thường; phong tục rắc rối mà lòng dân biến đổi, là trường hợp nước Ngô, nước Việt, hai nước đó không có những dân tài giỏi. Thế cho nên thánh nhân thấy có ích cho thân thể thì dùng làm y phục, thấy tiện cho việc trị dân thì đem làm giáo dục, biết tiến biết lui thì coi là có lễ tiết. Chế định y phục là để sửa dân thường, không phải để xét bậc hiền giả, cho nên thánh nhân thì thông tục mà hiền giả thì tuỳ biến. Ngạn ngữ có câu: “Theo lời trong sách mà đánh xe thì là không hiểu thấu tình ý ngựa; theo thời xưa mà chế định thời này thì là không rõ sự biến đổi của sự tình”. Cho nên cái việc theo phép không đủ để hơn đời, cái học theo cổ không đủ để chế định thời nay. Thôi ngươi đừng phản đối ta nữa.

42     Giản Tử, Tương Tử trong bài này cũng gọi là Giản Chúa, Tương Chúa là hai vua nước Triệu thời trước.

43     Hồ, Địch là các rợ phương bắc.

44     Rợ Hữu Miêu là dòng dõi rợ Tam Miêu. Rợ Hữu Miêu không theo mệnh lệnh của vua Thuấn. Vua Thuấn sai ông Vũ đánh ba tuần mà Hữu Miêu vẫn chưa chịu quy phục. Vua Thuấn sai thu binh về, mở mang văn đức, cho múa mộc và quạt vả ở hai bên thềm, bảy tuần sau chúa Hữu Miêu quy phục.

45     Theo sách Hậu Hán thư, Đông Di truyện, nước đó ở phía nam Trung Quốc, từ Chu Nho Quốc (?) đi thuyền về phía đông nam một năm mới tới. Sách Hoài Nam Tử chép rằng vua Vũ khi vô nước đó thì cởi bỏ hết y phục, khi ra khỏi nước đó thì lại bận y phục lại, như vậy để theo phong tục thổ dân.

46     Âu Việt: tức từ miền từ Quảng Đông xuống tới Bắc Việt.

47     Sông Hà, sông Bạc Lạc: Có sách chấm câu là: có sông Hà, sông Bạc, sông Lạc; lại có sách chấm câu là: sông Hà Bạc, sông Lạc. Từ Hải không có Bạc Lạc, Bạc Thủy, Hà Bạc; chỉ có Lạc Thuỷ, nhưng lại ở Thiểm Tây. Chưa rõ ra sao.

48     Sự kiện này cũng chưa tra ra được.

49     Quân tử: ở đây chỉ nhà cầm quyền.


TRIỆU III

1. TRIỆU XA GIẢNG TẠI SAO PHẢI TĂNG BINH LỰC

(Triệu Huệ Văn Vương)


Năm thứ ba mươi đời Triệu Huệ Văn Vương 50 (con Vũ Linh Vương), tướng quốc Đô Bình Quân Điền Đan 51 hỏi Triệu Xa:

- Không phải là tôi không khen binh pháp của tướng quân, chỉ có một điều không phục là tướng quân dùng nhiều quân quá. Dùng nhiều quân quá thì dân không thể làm ruộng được, lương thực xâu thuế không đủ cung cấp; như vậy là cái lẽ ngồi đấy mà tự phá mình, Đan tôi không làm vậy. Đan nghe nói bực đế vương dùng binh không quá ba vạn quân mà thiên hạ phải hàng phục. Nay tướng quân đòi có mười vạn, hai chục vạn rồi mới chịu dùng, đó là điều Đan tôi không phục.

Mã Phục 52 đáp:

- Ông không những không biết phép dùng binh mà lại còn không rõ thời thế nữa. Cây kiếm Can Tướng 53 nước Ngô dùng thử để chặt thịt thì chặt đứt được đầu bò, đầu ngựa; dùng thử để chặt đồ kim thuộc thì chặt đứt được mâm và chậu; nhưng dằn nó vào cây cột mà bẻ thì nó gẫy làm ba, chém nó vào mỏm đá thì nó bể ra làm trăm mảnh. Nay dùng ba vạn quân mà chống với binh các cường quốc thì không khác gì dằn kiếm vào cột, đập kiếm vào đá. Vả lại cây kiếm Can Tướng nước Ngô khó có, sống nó không dày, mũi nó không nhọn, chỗ gần lưỡi nó không mỏng, mà lưỡi nó không mẻ; có đủ hai cái đó rồi mà thiếu cái vòng, cái chuôi, cái đốc, cái dây, thiếu những tiện lợi đó thì cầm kiếm mà đâm, đâm chưa vô sâu mà tay mình đã đứt. Ông không có hai chục vạn quân thì cũng như kiếm không có cái vòng, cái chuôi, cái đốc, cái dây, thiếu tất cả các tiện lợi; mà đem ba vạn quân đánh thiên hạ thì làm sao thành công được?

Vả lại xưa kia, khoảng trời đất trong bốn bể chia làm vạn nước; thành tuy lớn mà cao không quá ba trăm trượng, người tuy nhiều mà không quá ba ngàn nóc nhà. Như vậy mà gom ba vạn binh để đánh thì có gì là mà khó? Nay vạn nước hồi xưa gom lại còn bảy nước, nước nào cũng có mười vạn binh, ông đem ba vạn quân mà chống thì mất ngày giờ cầm cự nhau hằng mấy năm, rồi sẽ lâm vào cảnh nước Tề thôi 54 . Tề đem hai chục vạn quân dẹp nước Kinh, năm năm mới xong; Triệu đem hai chục vạn quân đánh Trung Sơn, năm năm mới về. Nay Tề và Hàn thế lực ngang nhau, vậy mà khi chiến tranh còn phải đem toàn lực ra đánh thành, vây thành, chứ đâu dám nói rằng: ta đem ba vạn quân ra cứu viện! Nay thành cao ngàn trượng, những ấp vạn nóc nhà ngó thấy nhau 55 , mà chỉ đem ba vạn quân vây một cái thành cao ngàn trượng, bất quá chỉ vây được một góc; còn đánh nhau ở giữa đồng thì binh không đủ dùng. Ông tính dùng binh đó để đánh đâu đây?

Đô Bình Quân bùi ngùi thở dài, đáp:

- Đan tôi kiến thức không bằng ông.

50     Triệu Huệ Văn Vương, còn gọi là Triệu Vương (298 tr.T.L-266 tr.T.L), tên là Hà.

51     Đô Bình Quân: là tước phong cho Điền Đan.

52     Mã Phục: là tước phong cho Triệu Xa.

53     Vợ chồng Can Tướng là người nước Ngô, chế được đôi kiếm rất tốt, cây “dương” gọi là Can Tướng, cây “âm” gọi là Mạc Da.

54     Ám chỉ việc Tề đem mười vạn quân đánh nước Kinh. Có sách lại bảo ám chỉ việc Tề bị Yên Chiêu Vương đánh thua.

55     Ý nói ấp nọ gần ấp kia, vì dân đã đông đúc.


9. VUA TRIỆU DO DỰ KHÔNG BIẾT NÊN CẮT ĐẤT CHO TẦN HAY KHÔNG

(Tần công Triệu ư Trường Bình)


Tần đánh Triệu ở Trường Bình, đại thắng, kéo binh về rồi sai người qua Triệu đòi dâng sáu thành để giảng hoà. Vua Triệu (Hiếu Thành Vương) còn do dự, thì Lâu Hoãn vừa ở Tần qua. Vua Triệu bàn tính với Lâu Hoãn:

- Cho Tần sáu thành thì sẽ ra sao? Mà không cho thì sẽ ra sao?

Lâu Hoãn nhúng nhường đáp:

- Điều đó tôi không thể biết được.

- Nhưng ông cứ thử cho ý kiến đi.

- Nhà vua biết chuyện của Công Phủ Văn Bá không? Công Phủ Văn Bá làm quan ở Lỗ, đau rồi chết, mười sáu người đàn bà tự sát ở trong phòng để chết theo; bà mẹ hay chuyện đó, không hề khóc. Người vú nuôi bảo: “Người đâu con chết mà không khóc”. Bà mẹ đáp: “Khổng Tử là người hiền, bị đuổi ở Lỗ, thằng đó không đi theo Khổng Tử, nay nó chết mà mười sáu người đàn bà chết theo nó, thế là nó bạc bẽo với bề trên mà hậu hĩnh với đàn bà”. Vậy lời đó xuất từ miệng người mẹ thì mẹ là hiền, nếu xuất từ miệng người vợ thì người vợ không khỏi mang tiếng là ghen tuông. Cũng là một lời, người nói mà khác thì lòng người cũng khác. Nay tôi mới ở Tần qua, mà bảo không nên cắt đất cho Tần thì kế hoạch đó hỏng, mà bảo là nên cắt đất thì sợ nhà vua ngờ tôi là vị Tần, cho nên tôi không dám đáp. Tôi mà vì nhà vua mưu tính thì không gì bằng cho đi.

- Phải.

Ngu Khanh hay tin, vô yết kiến vua, vua kể lại lời của Lâu Hoãn. Ngu Khanh bảo:

- Đó là mượn cớ mà nói.

(Tần đã giải vây cho Hàm Đan, vua Triệu vô triều, sai Triệu Thích hứa thờ Tần và cắt đất sáu huyện để cầu hoà) 56 .

Vua hỏi:

- Sao vậy?

- Tần đánh Triệu, nhà vua cho rằng vì mệt mỏi mà rút quân về, hay còn dư sức để tiến, nhưng vì quí mến nhà vua mà không tiếp tục đánh?

- Tần đánh ta, không còn dư sức, tất là vì mệt mỏi mà rút quân về.

- Tần dùng sức công phá mà không chiếm được, mệt mỏi mà phải về; nay nhà vua lại đem cái thành họ chiếm không nổi mà tặng họ, thế là giúp cho Tần mạnh mà đánh lại mình. Sang năm Tần sẽ tấn công nhà vua nữa, lúc đó vô phương cứu.

Vua lại kể lại lời của Ngu Khanh cho Lâu Hoãn hay. Lâu Hoãn bảo:

- Ngu Khanh biết rõ hết lực lượng của Tần không?

Nếu quả thực biết lực lượng của Tần không đủ thì dẫu chỉ là một hòn đất, cũng không cho. Đợi sang năm Tần lại tấn công, lúc đó nhà vua có thể không cắt đất trong nước để cầu hoà không?

Vua hỏi:

- Nghe lời ông mà cắt đất cho Tần, ông có thể cam đoan rằng sang năm Tần không tấn công ta nữa không?

Lâu Hoãn đáp:

- Điều đó tôi không dám cam đoan. Xưa kia, Tam Tấn giao thiệp với Tần, hai bên rất thân thiện. Nay Tần phóng thích Hàn, Nguỵ mà chỉ đánh nhà vua thì nhất định là nhà vua không thờ Tần như Hàn, Nguỵ thờ. Muốn giải trừ cái hoạ vì trái ý Tần mà bị Tần đánh, thì mở cửa ải, lưu thông hoá tệ, cùng thân thiện với Tần như Hàn, Nguỵ. Sang năm, nếu nhà vua riêng không được Tần vừa lòng thì tất do nhà vua thờ Tần không bằng Hàn, Nguỵ thờ Tần. Điều đó, tôi không dám cam đoan.

Vua đem lời Lâu Hoãn kể lại cho Ngu Khanh. Khanh bảo:

- Lâu Hoãn bảo: “Không cầu hoà thì sang năm Tần lại đánh và lúc đó nhà vua có thể không cắt đất mà cầu hoà được không?”. Mà nay cầu hoà thì Lâu Hoãn lại không cam đoan rằng sang năm Tần sẽ không đánh. Như vậy, cắt đất có ích lợi gì? Sang năm lại bị đánh, lại phải cắt đất mình giữ không được để cầu hoà, đó là một cách tự tử, tốt hơn là không cầu hoà. Tuy Tần giỏi đánh nhưng không chiếm được sáu thành; Triệu tuy không giữ được nhưng không đến nổi mất cả sáu thành. Tần mệt mỏi mà rút quân về, tất phải giải binh; ta dùng năm thành mà thu lòng thiên hạ 57 , để đánh Tần vì mệt mỏi mà giải binh, như vậy ta có mất thành cho thiên hạ nhưng lại được bồi thường lại ở Tần, mà còn có lợi. So với cách ngồi yên cắt đất, tự làm cho mình yếu đi để cho Tần mạnh lên, thì cách nào hơn?

Lâu Hoãn bảo: “Tần thân thiện với Hàn, Nguỵ mà đánh Triệu, nguyên do tất phải là vì nhà vua thờ Tần không bằng Hàn, Nguỵ thờ Tần”. Kế ấy khiến cho nhà vua mỗi năm đem sáu thành dâng Tần, như vậy là ngồi đó mà trông thấy đất đai mất lần cho tới hết! Sang năm Tần lại đòi cắt đất, nhà vua sẽ cho không? Không cho thì là mất toi công trước 58 mà lại gây hoạ với Tần; cho thì còn đất đâu mà cho? Tục ngữ có câu: “Kẻ mạnh thì giỏi tấn công, kẻ yếu thì không biết tự vệ”. Nay ngồi yên tuân lệnh Tần, Tần không làm mệt binh sĩ mà được nhiều đất, như vậy là làm cho Tần thêm mạnh mà Triệu thêm yếu. Tần đã mạnh lại làm cho nó mạnh thêm, Triệu đã yếu lại còn cắt đất cho nó yếu thêm. Cứ như vậy, không biết tới đâu mà ngừng. Vả lại Tần là nước sài lang, không có lòng lễ nghĩa, đòi cắt đất hoài, mà đất của nhà vua thì có hạn. Đem số đất có hạn để cung cấp lòng yêu sách vô cùng, nước Triệu thế tất bị diệt vong mất. Cho nên tôi bảo lời của Lâu Hoãn là mượn cớ mà nói, nhà vua nhất định đừng cắt đất cho Tần.

- Phải.

Lâu Hoãn hay được, vô yết kiến vua, vua lại kể lại lời của Ngu Khanh, Lâu Hoãn bảo:

- Không phải vậy. Ngu Khanh chỉ biết một mà không biết hai. Tần với Triệu gây chiến với nhau, mà thiên hạ đều vui là tại sao? Họ đều nói: “Ta sẽ nương thế kẻ mạnh mà xâm chiếm kẻ yếu” 59 . Nay quân Triệu bị khốn vì quân Tần thì những nước trong thiên hạ mừng kẻ thắng tất đều đứng về phe Tần. Cho nên không gì bằng gấp cắt đất cầu hoà để nghi gián thiên hạ, lấy lòng Tần. Không vậy thì thiên hạ sẽ nhân lúc Tần giận dữ mà Triệu thì khốn đốn, cùng nhau cắt xẻ đất Triệu. Triệu mất rồi thì còn mưu tính đánh Tần sao được nữa? Xin đại vương nghĩ vậy mà quyết đoán đi, đừng bàn gì thêm nữa.

Ngu Khanh hay được, lại vô yết kiến vua, bảo:

- Nguy mất! Lâu Tử làm tay sai cho Tần rồi! Binh Triệu mà bị khốn vì Tần, nay lại cắt đất cầu hoà thì lại càng làm cho thiên hạ thêm nghi, mà có làm vui lòng cho Tần được chỗ nào đâu? Như vậy chẳng phải là tuyên bố với thiên hạ rằng mình yếu ư? Vả lại khi tôi bảo đừng cho đất thì không phải chỉ là không cho đất mà thôi. Tần đòi sáu thành của nhà vua, nhà vua đem năm thành hối lộ nước Tề, Tề với Tần vốn thâm thù nhau, nay Tề được năm thành của nhà vua sẽ đem toàn lực qua phía tây mà đánh Tần. Tề sẽ nghe liền, không đợi nhà vua nói hết lời nữa. Như vậy nhà vua mất đất cho Tề mà được bù lại ở Tần, làm một việc mà kết thân được với ba nước 60 mà lại cùng với Tần đổi lẫn tình thế của nhau 61 .

Vua Triệu đáp:

- Phải.

Rồi sai Ngu Khanh qua phía đông yết kiến vua Tề, bàn mưu đánh Tần. Ngu Khanh đi chưa về thì Tần đã sai sứ tới Triệu. Lâu Hoãn hay tin vội bỏ trốn.

56     Câu này có vẻ như dư hoặc đặt không đúng chỗ (để đầu truyện thì phải hơn), nên chúng tôi cho vào trong ngoặc.

57     Ý nói đem năm thành đó tặng cho nước khác để nước đó cùng với mình đánh Tần.

58     Ý nói trước cắt đấng để được lòng Tần, nay Tần đòi nữa mà không cho thì sẽ mất lòng Tần, mà trước kia cắt đất hoá ra chẳng có lợi gì cả.

59     Kẻ mạnh đây chỉ Tần.

60     Tức Tề, Hàn, Nguỵ.

61     Ý nói Tần đương mạnh sẽ hoá yếu còn Triệu đương yếu sẽ hoá mạnh.


12. LỖ TRỌNG LIÊN KHÔNG CHỊU TÔN VUA TẦN LÀM ĐẾ

(Tần vi Triệu chi Hàm Đan)



Tần vây thành Hàm Đan của Triệu. Vua Nguỵ là An Hi Vương sai tướng là Tấn Bỉ cứu Triệu. Tấn Bỉ sợ Tần, đóng quân ở Thanh Âm, không tiến nữa. Vua Triệu sai một khách tướng 62 là Tân Viên Diễn lén vào Hàm Đan, nhờ Bình Nguyên Quân tâu với vua Triệu:

- Tần sở dĩ gấp vây Triệu là vì trước kia tranh hùng với Tề Mẫn Vương để lên ngôi đế, sau Tần bỏ đế hiệu cũng là tại Tề 63 . Nay Tề yếu hơn hồi Mẫn Vương, chỉ có Tần là xưng hùng trong thiên hạ. Tần đánh Triệu không nhất định là tham thành Hàm Đan đâu mà thâm ý là muốn làm hoàng đế. Nếu Triệu sai sứ sang tôn Tần làm đế, Tần tất mừng mà lui binh.

Bình Nguyên Quân âm thầm do dự, chưa quyết định ra sao. Lúc đó Lỗ Trọng Liên vừa qua Triệu, gặp lúc quân Tần vây Triệu, nghe nói tướng Nguỵ thuyết Triệu tôn Tần làm hoàng đế, bèn vô yết kiến Bình Nguyên Quân, hỏi:

- Sự thể tính ra sao?

Bình Nguyên Quân đáp:

- Thắng tôi đâu dám bàn về việc ấy! Cả trăm vạn quân Triệu thua trận ở ngoài, ngày nay Tần lại vô trong vây Hàm Đan, không có cách nào triệt họ được. Vua Nguỵ sai tướng là Tân Viên Diễn bảo Triệu tôn Tần làm hoàng đế, người đó hiện còn ở đây, Thắng tôi đâu dám bàn về việc ấy!

Lỗ Trọng Liên bảo:

- Trước kia tôi cho ông là một vị công tử hiền năng trong thiên hạ, bây giờ tôi mới biết rằng ông không phải là một vị công tử hiền năng trong thiên hạ. Ông khách nước Lương là Tân Viên Diễn đó ở đâu? Tôi xin thay ông mà trách ông ta và bảo ông ta về nước đi.

- Thắng tôi xin mời ông ta lại yết kiến tiên sinh.

Nói xong Bình Nguyên Quân đi kiếm Tân Viên Diễn, bảo:

- Nước phía đông 64 có ông Lỗ Trọng Liên, ông ấy có mặt tại đây, Thắng tôi xin giới thiệu với tướng quân để hai người hội kiến.

Tân Viên Diễn bảo:

- Tôi nghe danh ông Lỗ Trọng Liên là bực cao sĩ nước Tề; Diễn là bề tôi, vua sai đi có nhiệm vụ riêng, nên tôi không muốn gặp ông Lỗ Trọng Liên.

Bình Nguyên Quân đáp:

- Thắng tôi đã lỡ tiết lộ việc đó rồi.

Tân Viên Diễn bèn nhận lời.

Lỗ Trọng Liên gặp Tân Viên Diễn mà không nói gì cả. Tân Viên Diễn hỏi:

- Theo tôi thấy, những ai vô trong cái thành bị vây này cũng là muốn cầu cạnh ông Bình Nguyên Quân một việc gì. Nay tôi thấy mặt ngọc của tiên sinh thì ra không phải có điều gì muốn cầu cạnh ông Bình Nguyên Quân hết; thế thì sao tiên sinh ở lâu trong cái thành bị vây này mà không đi?

Lỗ Trọng Liên đáp:

- Người đời đều cho rằng Bào Tiêu không khoan dung với mình mà đến nỗi chết, lời đó sai. Người thường không biết, cho rằng ông ấy chết chỉ vì cái thân của ông ấy (sự thực là ông ấy có hoài bảo khác)  65 . Tần kia là nước bỏ lễ nghĩa, trọng cái công chặt đầu người 66 , dùng thủ đoạn mà sai khiến tướng sĩ, dùng chính sách nô lệ mà sai khiến dân chúng; nếu nó càn rỡ xưng đế, thậm chí thống trị thiên hạ 67 , thì Liên tôi gieo mình xuống biển đông mà chết thôi, chứ không cam tâm làm dân của nó. Tôi sở dĩ lại yết kiến tướng quân là muốn giúp Triệu đấy.

- Tiên sinh giúp cách nào?

- Tôi sẽ khuyên Ngụy và Yên giúp Triệu, Tề và Sở vốn sẵn lòng giúp Triệu rồi.

- Nói về nước Yên thì tôi xin đồng ý với tiên sinh 68 , còn nói về nước Lương thì tôi là người Lương đây, tiên sinh làm cách nào cho Lương giúp Triệu?

- Là vì nước Lương chưa thấy cái hại Tần xưng đế đấy, nếu Lương thấy được cái hại Tần xưng đế thì tất sẽ giúp Triệu.

- Tần xưng đế thì hại ra sao?

- Xưa Tề Uy Vương từng làm điều nhân nghĩa, thống lĩnh chư hầu lại triều kiến vua Chu. Thời đó nước Chu nghèo yếu, chư hầu không chịu triều kiến, chỉ có một mình Tề lại triều kiến. Hơn một năm sau, vua Chu Liệt Vương băng. Các chư hầu đều tới điếu tang, riêng Tề là tới trễ, vua Chu An Vương 69 giận, mắng Tề rằng: “Thiên tử băng cũng như trời sụp đất lở, vị thiên tử mới nối ngôi phải nằm trên chiếu cỏ, ở nhà lá 70 ; ngươi, Điền Anh nước Tề, là bề tôi ở phía đông, tới trễ, đáng tội chết chém!” Tề Uy Vương cũng nổi giận mắng lại: “Hừ! hừ! Đồ con cái nữ tì kia!”. Vì vậy Chu An Vương bị thiên hạ cười chê. Thành thử hồi Chu Liệt Vương còn sống thì Tề Uy Vương lại triều kiến, khi Chu Liệt Vương mất thì lại chửi rủa Chu An Vương, là vì nhịn không được thói khắt khe của Chu An Vương. Các vị thiên tử vốn có thói đó, không có gì là lạ 71 .

Tân Viên Diễn bảo:

- Tiên sinh không lẽ nào không thấy bọn đầy tớ kia! Mười người theo hầu một kẻ. Nào có phải vì mười người đó sức không hơn, trí không bằng kẻ kia. Vì sợ đấy!

Lỗ Trọng Liên đáp:

- Vậy thì Lương đối với Tần như đầy tớ đối với chủ sao?

- Chính vậy.

- Nếu vậy thì tôi sẽ khiến vua Tần đem vua Lương mà nấu nướng, làm mắm cho rồi!

Tân Viên Diễn tỏ vẻ không vui, than rằng:

- Ôi! Tiên sinh sao nói quá như vậy! Tiên sinh làm sao có thể khiến vua Tần đem vua Lương nấu nướng, làm mắm được?

Lỗ Trọng Liên đáp:

- Có chứng cớ đấy, đợi tôi kể cho mà nghe! Xưa kia, Quỷ Hầu, Ngạc Hầu 72 , Văn Vương làm chức tam công 73 cho vua Trụ. Quỷ Hầu có một người con gái đẹp, đem dâng cho vua Trụ, vua Trụ không ưa nàng, đem Quỷ Hầu làm mắm, Ngạc Hầu vội biện hộ và can vua Trụ, mà bị vua Trụ sai xẻ thịt làm khô, Văn Vương hay tin, buồn rầu than thở, nên bị giam vào ngục Dữu Lí trăm ngày, suýt bị tội chết nữa. Thế thì vì đâu tôn người ta làm đế vương mà rồi bị người ta đem ra làm mắm, làm khô thịt?

Khi Tề Mẫn Vương muốn qua Lỗ, một người ở Di Duy 74 cầm roi ngựa theo hầu, hỏi người nước Lỗ: “Các ông dự bị gì để đãi vua nước ta”. Người nước Lỗ đáp: “Chúng tôi sẽ làm lễ mười bò, dê, lợn để đãi vua nước ông”. Người ở Di Duy bảo: “Như vậy là ông theo cái lễ nào mà đãi vua nước ta vậy? Vua nước ta là thiên tử, thiên tử đi tuần thú thì chư hầu phải rời chính thất của mình, nộp khoá, chìa khoá, vén áo, ôm ghế 75 , đứng ở dưới thềm, hầu cơm thiên tử, đợi thiên tử ăn xong rồi mới lui mà thính triều 76 “. Người nước Lỗ nghe vậy, liệng chìa khoá đi, không chịu nộp. Tề Mẫn Vương không vô được nước Lỗ, định qua nước Tiết, phải mượn đường nước Trâu. Lúc đó vua nước Trâu mới băng. Mẫn Vương tính lại điếu tang. Người ở Di Duy nói với vua kế vị nước Trâu: “Thiên tử tới điếu tang thì chủ nhân 77 phải quay lưng vào quan tài, đem linh vị đặt ở phía nam mà hướng về phía bắc, rồi sau thiên tử mới hướng về phía nam mà điếu 78 “. Quần thần nước Trâu bảo: “Nếu phải như vậy thì chúng tôi xin dùng gươm tự sát”. Thế là Mẫn Vương không dám vô nước Trâu. Các bề tôi của Trâu và Lỗ, hồi vua của họ còn sống, không được phụng sự cung dưỡng vua, khi vua của họ mất, không được làm lễ phạn hàm 79 mà Tề bắt họ phải dùng cái lễ thiên tử đãi vua Tề, họ còn không chịu thay 80 . Tần có vạn cỗ xe, Lương cũng có vạn cỗ xe, đều là những nước vạn thặng, đều xưng vương. Lương mới thấy Tần thắng một trận mà đã muốn phục tòng, tôn Tần làm đế, thế thì ra các vị đại thần Tam Tấn không bằng bọn nô tì của Trâu, Lỗ ư?

Vả lại Tần không bỏ cái dã tâm, một ngày kia mà xưng đế thì thay đổi hết các vị đại thần của các nước chư hầu. Họ sẽ triệt hết những người mà họ cho là bất tiếu, bổ nhiệm những kẻ họ cho là hiền năng, triệt hết những người họ ghét mà bổ nhiệm những kẻ họ yêu; họ lại sai con gái và hạng tì thiếp sàm nịnh, làm phi tần các vua chư hầu, vô ở trong cung nước Lương thì vua Lương làm sao mà ở yên được? Và tướng quân làm sao mà còn được sủng ái như trước nữa.

Tân Viên Diễn nghe xong, đứng dậy, vái hai vái, tạ lỗi:

- Trước tôi cho tiên sinh là hạng phàm nhân, nay tôi mới biết rằng tiên sinh là bậc sĩ trong thiên hạ! Tôi xin về đây, không dám bàn về việc tôn Tần làm đế nữa.

Tướng Tần hay tin đó, bèn lui binh năm chục dặm. Vừa may gặp lúc công tử nước Nguỵ là Vô Kỵ 81 đoạt được binh của Tấn Bỉ 82 , tới cứu Triệu, đánh Tần, Tần phải rút quân về.

Lúc đó, Bình Nguyên Quân muốn phong Lỗ Trọng Liên, Lỗ Trọng Liên ba lần từ chối, tới cùng không chịu nhận. Bình Nguyên Quân bèn bày rượu mời, đương lúc vui chén, đứng dậy lấy ngàn vàng tặng Lỗ Trọng Liên, Lỗ Trọng Liên cười đáp:

- Kẻ sĩ sở dĩ đáng quí trong thiên hạ là vì giải trừ được hoạn nạn, cởi bỏ được mối rối loạn mà không chịu nhận một chút báo đáp nào cả. Nếu nhận sự báo đáp thì thành con buôn rồi, Lỗ Trọng Liên tôi không nỡ làm như vậy.

Rồi từ biệt Bình Nguyên Quân, tới chết, không ai còn được thấy ông nữa.

62     Khách tướng: là một người ở nước khác, lại nước Nguỵ, được vua Nguỵ dùng làm tướng lãnh. Chữ khách đó cũng như chữ khách trong khách khanh. Nước Lương tức nước Nguỵ. Thời Nguỵ Huệ Vương, đổi tên nước là Lương.

63     Tô Đại thuyết Tề Mẫn Vương bỏ đế hiệu, vì vậy Tần cũng phải bỏ đế hiệu.

64     Tề ở phía đông, cho nên gọi như vậy.

65     Bào Tiêu: là một ẩn sĩ đời Chu, chán đời, tự tử. Lỗ Trọng Liên đây muốn nói rằng: mình không rời thành bị vây này là vì không nghĩ tới thân mình mà có hoài bảo khác. Diệp Ngọc Lân và Crump đều dịch là: ngày nay người ta không hiểu tôi mà cho rằng tôi hành động là vì bản thân tôi.

66     Theo phép luật của Tần, ai có công chém được đầu giặc thì được thăng một cấp.

67     Crump dịch là: nếu kẻ càn rỡ đó được tôn làm đế mà những hành động quả quyết của hắn được làm mực thước trong thiên hạ.

68     Crump dịch là: tôi đã có thể xin liên kết được rồi.

69     Tức con Chu Liệt Vương.

70     Hồi đó, tục để đại tang như vậy.

71     Trong đoạn này, Lỗ Trọng Liên muốn cho Tân Viên Diễn thấy rằng Tần mà làm thiên tử thì sẽ đối xử với chư hầu cũng khắc khe, vênh váo như vậy.

72     Quỷ Hầu, Ngạc Hầu: đều là chư hầu của Chu.

73     Tam công: ba chức quan lớn nhất thời đó: thái sư, thái phó, thái bảo.

74     Di Duy: là tên đất, nay ở Sơn Đông.

75     Ý nói phải hầu hạ như đầy tớ hầu hạ chủ.

76     Thính triều: là vô triều nghe các quan tâu mọi việc.

77     Chỉ vua kế vị.

78     Theo nghi lễ thời đó, thiên tử trong các buổi lễ, đều ngồi quay mặt về phía nam, chư hầu quay mặt về phía bắc.

79     Lễ phạn hàm: khi khâm liệm người chết, người ta cạy miệng ra bỏ ít hột gạo và vài viên ngọc vào. Tục đó, đến gần đây, người ta còn giữ.

80     Ý nói các bề tôi của Trâu và Lỗ đó, tình đối với vua không thực là thân thiết, không nhất thiết là những cận thần, chỉ như hạng tôi tớ của vua, mà còn biết giữ thể diện cho vua, cho nước như vậy, huống hồ là vua Lương mà lại chịu nhục với vua Tần ư?

81     Vô Kỵ: tức Tín Lăng Quân, con vua Nguỵ.

82     Tấn Bỉ: sợ quân Tần, không dám tiến, Vô Kỵ giết Tấn Bỉ, chiếm lấy quân đem đánh Tần.


15. COI QUỐC GIA KHÔNG BẰNG MỘT THƯỚC LỤA

(Kiến Tín Quân quí ư Triệu)


Kiến Tín Quân được vua Triệu (Hiếu Thành Vương) sủng ái. Công tử Nguỵ Mâu 83 qua Triệu, vua Triệu ra đón rồi trở về chỗ cũ ngồi, trước mặt có thước lụa mà ông bảo thợ dùng làm mão. Người thợ làm mão thấy khách tới bèn lui ra.

Vua Triệu bảo Nguỵ Mâu:

- Công tử ngồi xe chậm 84 tới thăm, quả nhân lấy làm hân hạnh, mong công tử chỉ cho cách trị nước.

Nguỵ Mâu đáp:

- Nếu đại vương biết quí nước của đại vương như thước lụa này thì nước của đại vương tất rất thịnh trị!

Vua Triệu không vui, vẻ mặt bất bình, bảo:

- Tiên vương không biết rằng quả nhân bất tiếu nên mới giao xã tắc cho quả nhân, nhưng quả nhân đâu dám khinh nước Triệu đến vậy!

Nguỵ Mâu đáp:

- Xin đại vương đừng giận, để tôi xin giảng. Đại vương có thước lụa này sao không ra lệnh quan lang trung 85 đây cắt làm chiếc mão?

- Quan lang trung đâu biết làm mão.

- Làm mão mà hỏng thì có hại gì cho nước đại vương đâu, vậy mà đại vương phải đợi có thợ rồi mới sai làm. Còn việc nước thì cơ hồ như khác: xã tắc 86 hương tàn khói lạnh 87 , tiên vương không được cúng tế 88 vì đại vương không giao việc nước cho người tài giỏi, lại giao cho kẻ trẻ và đẹp 89 . Vả lại, tiên đế của đại vương cưỡi đầu tê mà đánh xe ngựa chiến đấu với Tần, Tần phải tránh, không dám đương đầu. Nay đại vương lông bông ngồi xe 90 Kiến Tín để chiến đấu với cường Tần, tôi e rằng Tần sẽ làm tan nát hông xe của đại vương mất.

83     Công tử nước Nguỵ tên là Mâu.

84     Nguyên văn: hậu xa là xe ở sau, nghĩa là xe đi chậm, sau những xe khác.

85     Nguyên văn: tiền lang trung nghĩa là quan lang trung ở trước mặt

86     Xã: là nền tế thần đất, tắc là nền tế thần nông.

87     Nguyên văn: hư lệ: là trống rỗng, sụp đổ.

88     Nguyên văn: huyết thực là ăn huyết; hồi xưa giết các con bò, dê, lợn… lấy huyết tươi để cúng.

89     Chỉ Kiến Tín Quân.

90     Vì đã chơi chữ như trên, Nguỵ Mâu ở đây dùng chữ tiễn là ngồi chiếc xe của vua. Ngồi xe Kiến Tín là ngồi xe do Kiến Tín đánh.


16. NẰM MỘNG THẤY VUA TÁO

(Vệ Linh Công cận Ung Thư)


Vệ Linh Công gần gũi bọn Ung Thư, Di Tử Hà 91 . Hai người đó chuyên quyền mà che lấp kẻ tả hữu của vua. Phục Đồ Trinh 92 nói với vua:

- Đêm qua tôi nằm mộng thấy vua.

Vua hỏi:

- Mộng ra sao?

- Mộng thấy vua Táo.

Vua giận, hằm hằm bảo:

- Ta nghe nói mộng thấy mặt trời thì là mộng thấy vua; nay ngươi nói mộng thấy Táo Quân mà lại bảo là mộng thấy vua. Giảng được thì tha cho, không giảng được thì bị tội chết!

Đáp:

- Mặt trời thì chiếu khắp thiên hạ, không vật gì che nổi; còn Táo Quân thì không vậy, có người đứng trước che khuất thì người đứng sau không sao thấy được. Nay tôi ngờ rằng có người che khuất đại vương, cho nên nằm mộng thấy vua Táo.

Vua bảo:

- Được!

Rồi đuổi bọn Ung Thư, Di Tử Hà mà dùng Tư Không Cẩu.

91     Ung Thư là sủng thần của Vệ Linh Công, Hán Thư chép là Ung Cử. Di Tử Hà là một tên kép thời đó, rất đẹp trai, cũng được Vệ Linh Công yêu.

92     Phục Đồ Trinh: là người nước Vệ.


TRIỆU IV

1. TỀ THUYẾT TRIỆU NÊN THÂN THIỆN VỚI TỀ

(Vi Tề hiến thư Triệu Vương)


Có người thay vua Tề dâng thư lên vua Triệu (Hiếu Thành Vương), bảo vua Triệu:

- Tôi chỉ được yết kiến một lần là có thể khiến cho nhà vua ngồi đó mà hưởng được danh hiệu và đất đai trong thiên hạ 93 , tôi trộm lấy làm lạ rằng sao mà nhà vua không thử cho tôi yết kiến, để cho tôi phải khốn cùng. Quần thần tất có nhiều người cho rằng tôi bất tài, cho nên nhà vua mới không cho tôi yết kiến. Những kẻ cho là bất tài, nguyên do không có gì lạ. Họ muốn dùng binh đội của nhà vua mà thực hiện lợi riêng của họ. Nếu không vậy thì là trong giao tình có chỗ thiên lệch. Nếu không vậy nữa thì là trí lực của họ không đủ. Nếu không vậy nữa thì là họ muốn đem cái trọng trách trong thiên hạ ra doạ nhà vua để nhà vua làm theo ý họ. Tôi cho rằng nước Tề chịu theo thờ nhà vua thì nhà vua có thể diệt được Yên, có thể diệt được Hàn, Nguỵ, có thể tấn công Tần, làm cho Tần cô lập. Tôi cho rằng Tề mà tặng nhà vua cái danh chí tôn thì còn nước nào dám không tặng nhà vua cái danh chí tôn? Tôi cho rằng Tề mà tặng nhà vua đất đai thì còn nước nào dám không tặng nhà vua đất đai? Tôi cho rằng Tề mà thay nhà vua cầu danh 94 với Yên và Hàn, Nguỵ thì nước nào mà dám chối từ? Cái tài của tôi coi việc trước cũng đủ thấy rồi. Tề có tôn trọng nhà vua rồi thì thiên hạ mới đều tôn trọng nhà vua; không có Tề thì thiên hạ đều khinh nhà vua. Tần mạnh như vậy, vì không có Tề giúp nên mới tôn trọng nhà vua; Yên, Nguỵ vì không có Tề giúp nên mới tôn trọng nhà vua. Nay nếu nhà vua không có Tề giúp thì làm sao mà không mất lòng tôn trọng của thiên hạ cho được? Cho nên những kẻ khuyên nhà vua nên tuyệt giao với Tề, nếu không phải là trí lực bất túc thì là có lòng bất trung. Nếu không phải vậy thì là muốn dùng binh đội của nhà vua mà thực hiện lợi riêng của họ. Nếu không phải vậy nữa thì là họ muốn đem cái trọng trách trong thiên hạ ra mà doạ nhà vua để nhà vua làm theo ý họ. Nếu không phải vậy nữa thì là chức vị của họ cao mà tài năng của họ thấp. Xin nhà vua suy nghĩ kỹ về cái lợi hại không được Tề giúp.

93     Ý nói là bá hay đế, đất đai các chư hầu thuộc về mình hết.

94     Có lẽ muốn nói: Tề có thể bảo Yên, Nguỵ, Hàn tôn Triệu làm bá hay đế.


6. PHẠM TOẠ SUÝT BỊ NGU KHANH HÃM HẠI

(Ngu Khanh thỉnh Triệu Vương)


Ngu Khanh hỏi Triệu Vương:

- Lòng con người là muốn được người triều phục mình hay là muốn triều phục người?

Vua Triệu đáp:

- Ai cũng muốn được người khác triều phục mình chứ có lý gì lại muốn triều phục người.

Ngu Khanh bảo:

- Nguỵ làm minh chủ các nước hợp tung mà người chống đối là Phạm Toạ 95 . Nay nhà vua đem trăm dặm đất hoặc một ấp vạn nóc nhà dâng vua Ngụy để vua Nguỵ giết Phạm Toạ, Phạm Toạ chết rồi thì chức minh chủ các nước hợp tung sẽ dời về Triệu.

- Phải.

Rồi sai người đem trăm dặm đất dâng vua Nguỵ để xin giết Phạm Toạ. Vua Nguỵ bằng lòng, sai quan tư đồ giam Phạm Toạ nhưng chưa giết.

Phạm Toạ dâng thư lên vua Nguỵ, tâu:

- Tôi nghe vua Triệu dâng nhà vua trăm dặm đất, quả là lợi lớn, tôi xin trộm vì đại vương mừng về việc đó! Nhưng có điều này là trăm dặm đất đã không thể được mà kẻ bị giết cũng không sống lại được, mà đại vương tất bị thiên hạ chê cười. Tôi trộm nghĩ rằng dùng kẻ chết để cầu lợi thì không bằng dùng kẻ sống để cầu lợi.

Rồi gởi thư cho vị tướng quốc sau 96 là Tín Lăng Quân. Thư rằng:

- “Triệu và Nguỵ là hai nước ngang sức nhau. Vua Triệu gởi một bức thư ngắn tới 97 . Vua Nguỵ khinh suất định giết kẻ vô tội là Toạ tôi, Toạ tuy bất tiếu nhưng đã từng làm tướng quốc cho Nguỵ, đã từng vì Nguỵ mà mang tội với Triệu. Trong nước mà không biết dùng bề tôi thì ở ngoài nước, tuy có được đất cũng không giữ được. Ngày nay, người giữ được nước Nguỵ thì không ai bằng ông. Sau khi nhà vua nghe lời Triệu mà giết Toạ rồi, cường Tần tất đánh lén Triệu 98 , phản đối sự Triệu cắt đất cho Nguỵ thì ông sẽ dùng kế gì mà ngăn Tần? Đó là nỗi lo của ông đấy”.

Tín Lăng Quân bảo: “Phải”. Rồi vội vô tâu với vua phóng thích Phạm Toạ.

95     Các bản đều chép: “nhi vi giả Phạm Toạ dã” và chúng tôi dịch đúng ra như vậy, nhưng thú thực không hiểu rõ ý ra sao. Phạm Toạ chống đối ai? Chống đối cái gì? Có sách (Bạch thoại Chiến Quốc Sách độc bảncủa nhà Quảng Ích thư cục – 1947) dịch ra bạch thoại là: chống đối nước Nguỵ, nghe không xuôi vì Phạm Toạ là người nước Nguỵ. Hay là chống đối chính sách hợp tung? Nhưng dù Phạm Toạ chống đối chính sách hợp tung thì giết Phạm Toạ rồi, vua Nguỵ vẫn có thể làm minh chủ các nước hợp tung, chứ sao chức đó lại dời về Triệu được? Hay Phạm Toạ chống Triệu?

96     Có lẽ là Tín Lăng Quân thay Phạm Toạ mà làm tướng quốc cho Nguỵ.

97     Nguyên văn: bức thư “dài một thước, một tấc”. Hồi đó chắc còn viết trên thanh tre.

98     Chỗ này cũng tối nghĩa. Nhiều bản chép: “Cường Tần tập Triệu chi dục”. (Dịch từng chữ: Cường Tần đánh lén cái ý muốn của Triệu) và có bản chú thích rằng chữ “dục” (ý muốn) đó nghĩa như chữ “tục” tức pháp chế cũ của Triệu. Chúng tôi đành theo hạ văn (phản đối sự Triệu cắt đất cho Nguỵ thì ông dùng kế gì để ngăn Tần?) mà đoán ý tạm dịch ra như vậy.


12. PHÙNG KỴ YẾT KIẾN VUA TRIỆU

(Phùng Kỵ thỉnh kiến Triệu Vương)


Phùng Kỵ xin yết kiến vua Triệu (Hiếu Thành Vương), người hầu cho vô. Phùng Kỵ chắp tay, cuối đầu, muốn nói mà không dám. Vua hỏi tại sao. Đáp:

- Khách (của Phục Tử) dẫn người vào yết kiến Phục Tử, khi người đó ra rồi, khách hỏi Phục Tử người đó có lỗi gì không. Phục Tử đáp:

“- Khách của ông chỉ có ba lỗi: ngó tôi mà cười, như vậy là nhờn; đàm luận mà không tâng bốc, như vậy là bội nghịch; giao tình còn sơ mà lời thâm thiết, như vậy là loạn.

“Khách đáp:

“- Không phải vậy. Ngó người mà cười là có hoà khí; nói mà không thưa bẩm là lời bình thường, tự nhiên; giao tình còn sơ mà lời thâm thiết là có lòng trung. Xưa kia, vua Nghiêu gặp ông Thuấn ở chỗ nhà cỏ mái tranh, trải chiếu trên đất ruộng ở dưới bóng cây dâu, ngồi nói chuyện, tới khi bóng dâu ngả thì đã giao thiên hạ cho ông Thuấn rồi. Ông Y Doãn 99 phải bưng đỉnh, mâm để gặp vua Thang, lúc đó tên tuổi ông chưa ai biết mà ông được phong chức tam công. Nếu cứ giao tình còn sơ, không được nói lời thâm thiết thì ông Thuấn đâu được vua Nghiêu truyền cho thiên hạ mà ông Y Doãn đâu được phong chức tam công”.

Vua Triệu khen:

- Rất đúng.

Phùng Kỵ hỏi:

- Thế bây giờ kẻ ngoại thần 100 này, giao tình còn sơ muốn bàn việc thâm thiết, được không?

Vua đáp:

- Xin được nghe lời dạy bảo.

Như vậy rồi, Phùng Kỵ bèn đàm luận.

99     Y Doãn muốn gặp vua Thang, nhưng không có cách nào xin yết kiến được, phải làm chức đầu bếp cho họ Tần, rồi mượn việc nấu nướng, gia vị mà khuyên vua Thang về cách trị nước.

100   Bề tôi nước này tự xưng với vua nước khác là ngoại thần.


13. LỰA NGỰA VÀ LỰA TƯỚNG QUỐC

(Khách kiến Triệu Vương)


Có người khách (tức người ngoại quốc) vô yết kiến vua Triệu, hỏi vua Triệu:

- Tôi nghe nói nhà vua muốn sai người đi mua ngựa, có chăng?

Vua đáp:

- Có.

- Sao tới bây giờ vẫn chưa sai người ta đi?

- Chưa tìm được người biết coi tướng ngựa.

- Thế sao nhà vua không sai Kiến Tín Quân đi?

- Kiến Tín Quân bận việc nước, vả lại không biết coi tướng ngựa.

- Thế sao nhà vua không sai bà Kỉ Cơ 101 đi?

- Kỉ Cơ là đàn bà, không biết coi tướng ngựa.

- Mua được ngựa tốt có ích gì cho nước không?

- Không ích gì cho nước.

- Mua phải ngựa xấu thì có hại gì cho nước không?

- Không hại gì cho nước.

- Vậy thì mua được ngựa tốt hoặc mua phải ngựa xấu cũng vậy thôi, không ích mà cũng không hại cho nước. Thế mà nhà vua muốn mua ngựa phải đợi được người giỏi coi tướng ngựa rồi mới sai đi. Nay trị thiên hạ, hành động mà thất đáng thì quốc gia nguy tan, xã tắc tro tàn khói lạnh 102 , mà nhà vua không đợi tìm được người giỏi, đem giao phó cho Kiến Tín Quân là sao vậy?

Vua Triệu chưa biết đáp sao thì khách đã hỏi tiếp:

- Yên Quách có phép gọi là “tang ung” 103 , nhà vua có biết không?

Vua đáp:

- Chưa hề nghe nói.

Bảo:

- “Tang ung” trỏ những bề tôi thân cận, sủng ái và những phu nhân, những con gái trẻ đẹp được vua yêu. Bọn đó đều khéo nhân cái lúc nhà vua say mê mà xin nhà vua điều họ muốn. Bọn họ mà đắc sủng ở trong thì đại thần làm trái phép ở ngoài. Cho nên mặt trời mặt trăng 104 sáng rỡ ở ngoài đấy mà ở trong có bệnh; cẩn thận đề phòng cái mình ghét mà bị tai hoạ về cái mình yêu.

101   Kỉ Cơ là một phi Tần được vua Triệu sủng ái.

102   Nguyên văn: thần xã tắc không được cúng tế nữa. Thần xã tắc là thần đất và thần lúa. Ý nói mất nước.

103   Tang ung nghĩa là cây dâu bị sâu đục. Yên Quách, cũng gọi là Quách Yển, Cô Yển hoặc Bốc Yển, một vị quan coi việc bói ở nước Triệu.

104   Người ta thường ví vua như mặt trời. Câu này ám chỉ vua Triệu.


14. LƯỢNG NGHỊ ĐI SỨ TẦN

(Tần công Nguỵ, thủ Ninh Ấp)


Tần đánh Nguỵ, chiếm Ninh Ấp 105 , các nước chư hầu đều chúc mừng Tần. Vua Triệu sai sứ tới mừng, sứ ba lần đi về mà không được tiếp. Vua Triệu lo, bảo kẻ tả hữu:

- Tần mạnh mà lại được đất Ninh Ấp để khống chế Tề, Triệu. Các nước chư hầu đều chúc mừng. Ta sai người qua mừng mà riêng sứ của ta không được tiếp. Như vậy tất Tần đem quân đánh ta, biết làm sao bây giờ.

Kẻ tả hữu đáp:

- Sứ giả tới ba lần mà không được tiếp thì nhất định là vì người sai đi đó không khéo nói. Lượng Nghị là bậc biện sĩ, đại vương sao không thử dùng ông ta.

Thế là Lượng Nghị nhận mệnh ra đi. Tới Tần, dâng thư lên vua Tần (Chiêu Vương), thưa:

- Đại vương mở rộng đất tới Ninh Ấp, chư hầu đều chúc mừng; vua tệ quốc cũng trộm tự mừng, không dám thờ ơ, nên sai bầy tôi đem lễ vật lại, ba lần tới triều đình đại vương mà không được yết kiến. Nếu sứ giả vô tội thì xin đại vương đừng làm mất cái vui của họ, nếu sứ giả có tội thì xin đại vương cho biết.

Vua Tần sai người hồi đáp:

- Ta sai bảo Triệu điều gì, bất kỳ là lớn nhỏ, phải nghe lời ta thì ta mới nhận thư và lễ vật, nếu không theo lời ta thì sứ giả về đi!

Lượng Nghị đáp:

- Hạ thần tới đây vốn là xin được vâng ý đại quốc, đâu có dám không theo; nếu đại vương có ban lệnh gì thì hạ thần xin phụng mệnh mà về phía tây 106 , không dám trì nghỉ.

Vua Tần bèn tiếp sứ giả, bảo:

- Triệu Báo 107 và Bình Nguyên Quân mấy lần khinh lờn quả nhân. Nếu vua Triệu giết hai người đó thì êm; nếu không giết thì quả nhân xin thống lĩnh chư hầu mà đợi lệnh vua Triệu ở dưới chân thành Hàm Đan.

Lượng Nghị đáp:

- Triệu Báo và Bình Nguyên Quân là em ruột cùng mẹ của vua tệ quốc, cũng như Diệp Dương Quân và Kinh Dương Quân đối với đại vương vậy. Đại vương có tiếng là dùng hiếu mà trị thiên hạ, y phục thứ nào thích hợp với thân thể, món ăn thứ nào hợp với khẩu vị, đều chia sớt cho Diệp Dương Quân và Kinh Dương Quân. Xe ngựa, y phục của Diệp Dương Quân và Kinh Dương Quân đều là một thứ với xe ngựa, y phục của đại vương. Hạ thần nghe nói rằng “thấy có ổ chim bị phá, trứng chim bị đập bể thì phượng hoàng không bay ra; thấy có loài thú bị mổ thai, loài thú con bị thiêu đốt thì kỳ lân không hiện”; nay đại vương bảo hạ thần nhận mệnh đại vương về báo với tệ quốc thì vua tệ quốc sợ sệt, không dám không thi hành, nhưng như vậy chẳng làm thương tâm Diệp Dương Quân và Kinh Dương Quân ư?

Vua Tần bảo:

- Phải. Vậy thì đừng cho hai kẻ đó tham chính.

Lượng Nghị đáp:

- Vua tệ quốc có em ruột cùng mẹ mà không biết dạy dỗ để đắc tội với đại quốc, xin biếm truất hai ông đó, không tham chính nữa để hợp ý đại quốc.

Vua Tần hoan hỉ, nhận lễ vật và hậu đãi sứ giả.

105   Ninh Ấp: nay thuộc tỉnh Hà Nam.

106   Về phía tây (tây hành) nghĩa là làm sao, chúng tôi không hiểu.

107   Triệu Báo tức là Bình Dương Quân.


18. XÚC CHIỆP THUYẾT THÁI HẬU NƯỚC TRIỆU

(Triệu thái hậu tân dụng sự)


Thái hậu nước Triệu mới cầm quyền, Tần đem quân tấn công liền. Triệu cầu cứu với Tề, Tề đáp: “Phải đưa Trường An Quân 108 qua đây làm con tin rồi mới xuất quân cứu viện”. Thái hậu không chịu, các quan đại thần cố khuyên. Thái hậu nói thẳng với kẻ tả hữu: “Ai còn nói đến chuyện đưa Trường An Quân đi làm con tin thì già này tất nhổ vào mặt!”.

Quan Tả sư là Xúc Chiệp 109 , xin vào yết kiến, thái hậu có vẻ giận mà tiếp. Xúc Chiệp tiến vô, chậm chạp bước, tới trước mặt thái hậu rồi tự tạ tội rằng:

- Lão thần có bệnh ở chân cho nên không bước nhanh được. Trộm phép thái hậu tự thứ cho tội đó. Sợ ngọc thể không biết có sao không, nên hôm nay xin vào hầu 110 .

Thái hậu đáp:

- Già này nhờ xe mới đi được.

- Mỗi ngày ăn uống không giảm chứ?

- Chỉ nhờ cháo thôi.

- Lão thần gần đây không muốn ăn, phải gắng sức đi bộ mỗi ngày ba bốn dặm mới hơi thèm ăn, nhờ vậy thân thể được điều hòa.

- Già này không gắng được như vậy.

Sắc mặt Thái hậu đã hơi nguôi. Quan Tả sư nói:

- Đứa con hèn của lão thần là Thu Kì còn nhỏ lắm mà chẳng có tài năng gì cả, nhưng thần suy yếu, nên yêu dấu nó, xin thái hậu cho nó sung vào đoàn thị vệ 111 cho đủ số 112 để nó bảo vệ vương cung, thần sợ sệt mà tâu thái hậu.

- Xin vâng. Tuổi nó bao nhiêu?

- Mười lăm. Tuy nó còn nhỏ, nhưng trong lúc thân thể chưa bị vùi lấp xuống hố, rãnh 113 lão thần xin đem nó phó thác thái hậu.

- Bậc trượng phu mà cũng yêu thương con nhỏ sao?

- Còn hơn đàn bà nữa.

- Hơn cả đàn bà? Lạ nhỉ! 114

- Lão thần trộm nghĩ bà lão 115 yêu Yên hậu 116 hơn yêu Trường An Quân.

- Ông lầm rồi. Kém xa Trường An Quân.

- Cha mẹ yêu con thì tính kế lâu dài cho con. Bà lão lúc tiễn chân Yên hậu, níu lấy gót mà khóc, nghĩ thương cho cảnh xa xôi, thực là xót xa vô cùng. Khi Yên hậu đã đi rồi, không phải là không nhớ, vì lúc tế tự bà lão đều có cầu chúc cho Yên hậu, cầu rằng: “Xin cho đừng trở về”. Như vậy há chẳng phải là lo tính chuyện lâu dài, mong cho Yên hậu có con cháu nối nhau làm vua ở Yên sao?

- Phải.

- Nay xét trở lui lại ba đời trước, từ hồi nước Triệu thành nước Triệu, con cháu các vị vua Triệu được phong hầu mà kế tiếp nhau giữ ngôi tới nay còn ai không?

- Không còn.

- Chẳng riêng gì nước Triệu, các nước chư hầu khác cũng vậy, tới nay còn ai không?

- Già này không nghe nói.

- Như vậy mà xét, họa gần thì xảy ngay trong đời mình, họa xa thì xảy ra trong đời con cháu. Có phải là tại con cháu các bậc vua chúa đều bất tiếu cả đâu; chỉ tại ngôi cao mà không có công, bổng lộc hậu mà không phải khó nhọc, lại ôm vàng ngọc quá nhiều đấy thôi. Nay bà lão tôn quí cái vị của Trường An Quân, phong cho những đất phì nhiêu, lại cấp cho nhiều vàng ngọc mà không bảo Trường An Quân nhân lúc này lập chút công với nước, thì rồi một ngày kia, gò núi sụp đổ, 117 Trường An Quân biết lấy gì mà gởi thân mình ở nước Triệu? Lão thần cho rằng bà lão tính kế cho Trường An Quân quả là ngắn ngủi, vì vậy mà bảo yêu Trường An Quân không bằng yêu Yên hậu.

Thái hậu đáp:

- Phải. Tùy ý ông tính sao cho nó thì tính.

Thế là sửa soạn trăm cỗ xe, đưa Trường An Quân qua làm con tin ở nước Tề, Tề mới xuất quân cứu Triệu.

Tử Nghi 118 nghe chuyện đó, nói: “Con bậc vua chúa, tình thân như cốt nhục kia, mà không thể cậy vào cái tước quí không công lao mà được, cậy vào cái bổng lộc không khó nhọc mà được, để giữ nổi những đồ vàng ngọc quí báu, huống chi là kẻ bề tôi!”.


108   Trường An Quân là con nhỏ của Triệu thái hậu, và là em của Hiếu Thành Vương. Triệu thái hậu là vợ của Huệ Văn Vương nước Triệu; khi chồng mất bà lên cầm quyền vì con còn nhỏ. Tần nhân dịp đó tấn công. Trường An là tên hiệu thái hậu phong cho.

109   Xúc Chiệp là một vị lão thần của Triệu.

110   Chữ «», Cổ Văn Quan chỉ chú thích là: “Như chữ khích «»: là kẽ tường, chỗ hở: Xúc Chiệp không dám nói thẳng tên bệnh ra nên nói bóng như vậy”. – Cổ văn bình chú giải nghĩa: “Đọc là khước «», nghĩa là chân không đi được. Xúc Chiệp cùng bệnh già với thái hậu, nay đau chân, e rằng thái hậu cũng đau, nên vào thăm”.

111   Nguyên văn là hắc y: nhung phục đen, dùng để chỉ chức thị vệ.

112   Lời nói nhũn: có ý bảo con trai mình không đáng được chức đó, vô làm cho đủ số lính thị vệ, chứ không được việc gì cả.

113   Ý nói: vùi xuống huyệt.

114   Theo Cổ văn bình chú thì câu này nghĩa là: đàn bà yêu con khác đàn ông và hơn đàn ông nhiều.

115   Ta nhận thấy: giọng lúc này thân mật lắm rồi.

116   Con gái của Triệu thái hậu, gả cho vua Yên.

117   Ý nói: khi thái hậu trăm tuổi rồi.

118   Tử Nghi: là một người hiền của nước Triệu.

--------------------------------

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét