TRUNG SƠN SÁCH
Trung Sơn là nước của
một giống người Bạch Địch (một rợ ở phương bắc), đất nay thuộc tỉnh Trực Lệ).
Năm 20 đời Chu Noản Vương (295 trước T.L.) bị nước Triệu diệt.
2. TRƯƠNG ĐĂNG DÙNG
MƯU GẠT TỀ
(Tê thủ lập ngũ
vương)
Tê thủ lập vua năm nước 1 làm vương, mà vua Trung Sơn được lập sau
cùng. Vua Tề bảo vua Triệu và vua Nguỵ:
- Quả nhân xấu hổ phải
cùng nhận tước vương với vua Trung Sơn, xin cùng với quí quốc đánh vua Trung
Sơn để phế cái tước vương của hắn.
Vua Trung Sơn nghe
tin, hoảng sợ, vời Trương Đăng 2 lại bảo:
- Quả nhân mới nhận
tước vương mà vua Tề bảo vua Triệu và vua Nguỵ rằng xấu hổ vì cùng nhận vương với
quả nhân, nên muốn đánh quả nhân. Quả nhân sợ nước sẽ bị diệt, không ham gì làm
vương; ngoài ông ra thì không ai cứu được quả nhân.
Đăng đáp:
- Nhà vua cấp cho tôi
nhiều xe và tiền, tôi xin đi yết kiến Điền Anh 3 .
Vua Trung Sơn bèn sai
Trương Đăng qua Tề. Trương Đăng yết kiến Điền Anh, bảo:
- Tôi nghe nói nhà
vua muốn phế tước vương của vua Trung Sơn, sẽ cùng với Triệu và Nguỵ đánh Trung
Sơn, kế đó lầm rồi! Trung Sơn là nước nhỏ mà ba nước lớn cùng đánh thì dù là điều
quan trọng hơn sự bỏ tước vương, vua Trung Sơn cũng phải nghe. Vua Trung Sơn hoảng
sợ, tất bỏ tước vương mà xin phụ thuộc Triệu, Nguỵ, như vậy là nhà vua đuổi dê
cho Triệu, Nguỵ bắt về ăn thịt, không phải là cái lợi cho Tề. Sao bằng bảo
Trung Sơn bỏ tước vương đi mà qui phục Tề?
Điền Anh hỏi:
- Muốn vậy thì phải
làm sao bây giờ?
Trương Đăng đáp:
- Nay nhà vua vời vua
Trung Sơn lại, cùng hội kiến, hứa cho xưng vương, như vậy vua Trung Sơn tất mừng
mà tuyệt giao với Triệu và Nguỵ, Triệu và Nguỵ tất giận mà đánh Trung Sơn.
Trung Sơn gặp cơn nguy cấp, lại biết rằng nhà vua xấu hổ vì cùng mang tước
vương với vua Trung Sơn, thì tất hoảng sợ, bỏ phắt tước vương để phụng sự Tề.
Vua Trung Sơn vốn lo mất nước, nay nhà vua phế được tước vương lại chiếm được
Trung Sơn, kế đó hay hơn kế đuổi dê cho Triệu và Nguỵ.
Điền Anh bảo:
- Vâng.
- Không nên. Tôi nghe
nói: dục vọng giống nhau thì ghét lẫn nhau, lo lắng như nhau thì thân thiết với
nhau. Nay năm nước đều được lập vương, riêng có Tề 5 không chịu cùng nhận tước vương với Trung
Sơn, như vậy là dục vọng đều giống nhau ở chỗ xưng vương, mà lo lắng thì ở chỗ
ngại Tề can thiệp. Nay nếu vời vua Trung Sơn lại hội kiến, hứa cho ông ta xưng
vương, như vậy là cướp đoạt của năm nước 6 mà làm lợi cho Tề, dung nạp Trung Sơn mà
cách tuyệt với bốn nước kia, bốn nước kia 7 tất sợ, hứa trước cho Trung Sơn xưng vương
mà cố ý thân cận với Trung Sơn; thế là nhà vua thân thiết với Trung Sơn mà mất
bốn nước kia. Vả lại Trương Đăng là người khéo dùng âm mưu giúp cho Trung Sơn từ
lâu rồi, khó tin được lời ông ta mà cho rằng kế đó có lợi cho Tề.
Điền Anh không nghe,
quả nhiên mời vua Trung Sơn lại, hứa cho xưng vương. Trương Đăng bèn bảo vua
Triệu và vua Nguỵ:
- Tề muốn đánh Hà
Đông.
- Sao biết?
- Tề rất xấu hổ là phải
mang tước vương cung với Trung Sơn. Nay vời vua Trung Sơn qua hội kiến, hứa cho
xưng vương, như vậy tất là có ý muốn dùng quân của Trung Sơn. Quí quốc nên cho
Trung Sơn xưng vương trước đi, để ngăn cản sự hội ngộ của Tề và Trung Sơn.
Triệu và Nguỵ bằng
lòng, quả nhiên cho vua Trung Sơn tước vương và thân thiện với Trung Sơn; quả
nhiên Trung Sơn tuyệt giao với Tề mà phục tòng Triệu, Nguỵ.
1 Năm
nước đó là Tề, Triệu, Ngụy, Yên và Trung Sơn.
2 Trương
Đăng: là một bề tôi của vua Trung Sơn.
3 Điền
Anh: tức Tiết Công, hiệu là Tĩnh Quách Quân.
4 Trương
Sửu: là bề tôi của vua Tề.
5 Nguyên
văn: “phụ hải”, trỏ nước Tề, vì Tề ở gần bể (phụ là cậy vào, dựa vào).
6 Năm
nước hay bốn nước?
7 Bốn
nước hay ba nước?
4. CÔNG TÔN HOẰNG NÓI
THỰC MÀ BỊ NGHI
(Tư Mã Hi sứ Triệu)
Tư Mã Hi đi sứ qua
Triệu, nhờ Triệu nói giúp để mình được làm tướng quốc nước Trung Sơn. Công Tôn
Hoằng ngầm biết được. Vua Trung Sơn đi ra khỏi cung, Tư Mã Hi đánh xe, Công Tôn
Hoằng 8 ngồi chung xe với vua. Hoằng hỏi:
- Làm bề tôi mà mượn
cái uy thế của một ngoại quốc cường thịnh để xin giùm cho mình được làm tướng
quốc, nhà vua cho hạng người đó ra sao?
Vua Trung Sơn đáp:
- Ta sẽ ăn thịt kẻ đó
cho kỳ hết, không nhường cho ai.
Tư Mã Hi dập đầu xuống
cây đòn dựa ở trước xe, bảo:
- Kẻ hạ thần tự biết
là sắp chết đến nơi!
Vua hỏi:
- Sao vậy?
- Thần đáng tội chết.
Vua bảo:
- Cho xe chạy đi, ta
hiểu rồi!
Ít lâu sau, sứ giả nước
Triệu tới, xin vua Trung Sơn cho Tư Mã Hi làm tướng quốc, vua Trung Sơn ngờ rằng
Công Tôn Hoằng bày mưu hại Tư Mã Hi, Công Tôn Hoằng phải chạy trốn ra nước
ngoài.
8 Tư
Mã Hi và Công Tôn Hoằng: đều là bề tôi Trung Sơn.
5. ĐIỀN GIẢN GIÚP TƯ
MÃ HI
(Tư Mã Hi tam tướng
Trung Sơn)
Tư Mã Hi ba lần làm
tướng quốc nước Trung Sơn; nàng Âm Giản 9 ghét ông ta. Điền Giản bảo Tư Mã Hi:
- Sứ giả nước Triệu tới
dò xét tình hình Trung Sơn, sao ông không bảo họ rằng nàng Âm Giản rất đẹp. Vua
Triệu biết được, tất xin cho được nàng, vua mình mà cho thì ông không còn lo gì
ở phía trong nữa 10 , còn như vua mình không cho vua Triệu
thì ông nhân đó khuyên vua lập nàng Âm Giản làm chính cung, nàng sẽ mang ơn ông
vô cùng.
Tư Mã Hi làm theo kế
đó, quả nhiên vua Triệu xin nàng Âm Giản, vua Trung Sơn không cho. Tư Mã Hi bảo
vua:
- Nhà vua từ chối vua
Triệu, vua Triệu tất cả giận, mà cả giận thì nhà vua tất nguy. Nhưng nếu lập
nàng Âm Giản làm chánh cung thì không có lý gì vua Triệu xin vợ của người không
được mà rồi oán người.
Điền Giản tự khoe rằng:
làm theo như vậy có thể khiến cho sứ thần của Triệu (vô tình) giúp Tư Mã
Hi 11 , lại có lợi cho Âm Giản, lại làm cho vua
Triệu không xin nàng Âm Giản nữa.
9 Âm
Giản: là một cung phi của vua Trung Sơn, được vua Trung Sơn rất sủng ái vì nàng
rất đẹp.
10 Nghĩa
là khỏi lo bị Âm Giản hại.
11 Nguyên
văn: Điền Giản tự vị thủ sứ, khả dĩ vị Tư Mã Hi… Diệp Ngọc Lân không dịch hai
chữ thủ sứ; Hứa Khiếu Thiên giảng hai chữ đó là nhiệm dụng được sứ thần của Triệu;
chúng tôi phỏng theo Crump.
6. TƯ MÃ HI NGẦM GIÚP
ÂM CƠ
(Âm Cơ dữ Giang Cơ
tranh vi hậu)
Âm Cơ và Giang
Cơ 12 tranh nhau ngôi vương hậu. Tư Mã Hi bảo
thân phụ 13 Âm Cơ:
- Việc mà thành 14 thì ông được phong đất và được trị dân,
không thành thì sợ tới thân ông cũng không bảo toàn được. Muốn thành công, sao
không lại kiếm tôi?
Thân phụ nàng Âm Cơ
cúi đầu đáp:
- Đúng như lời ông
nói; việc này phải tính sao?
Tư Mã Hi bèn dâng thư
lên vua Trung Sơn. Thư rằng:
- Kẻ hạ thần có một kế
làm cho Triệu yếu đi mà Trung Sơn mạnh lên.
Vua Trung Sơn mừng,
cho vào yết kiến, bảo:
- Cho nghe kế làm sao
cho Triệu yếu đi mà Trung Sơn mạnh lên?
Tư Mã Hi đáp:
- Kẻ hạ thần xin qua
Triệu, xem xét địa thế hiểm trở ra sao, nhân dân giàu nghèo ra sao, vua tôi hiền
hay bất tiếu ra sao, tuỳ tình hình, mà bày mưu 15 , chưa thể bày tỏ trước với nhà vua được.
Vua Trung Sơn bèn sai
Tư Mã Hi qua Triệu. Tư Mã Hi yết kiến vua Triệu, nói:
- Tôi nghe tiếng Triệu
là nơi có nhiều con gái rất đẹp và hát hay. Nay tôi tới Triệu, vô kinh đô, xem
xét phong tục, dong mạo, nhan sắc của nhân dân, tuyệt nhiên không thấy một người
đàn bà nào đẹp. Tôi đã đi nhiều nơi, chu du khắp xứ, không đâu không tới, chưa
từng thấy người đàn bà nào đẹp như nàng Âm Cơ ở nước Trung Sơn. Người nào không
biết nàng tất cho nàng là tiên nữ, đẹp không sao tả nổi: từ dong mạo đến nhan sắc
ăn đứt hạng tuyệt thế giai nhân rồi. Đến như lông mày, sống mũi, gò má, đầu,
trán, đều đáng bậc vương hậu của đế vương, chứ không phải là hạng cung phi của
vua chư hầu.
Vua Triệu xao xuyến
trong lòng, mừng rỡ, hỏi:
- Ta muốn xin nàng,
ông nghĩ sao?
Tư Mã Hi đáp:
- Tôi trộm thấy nàng
tuyệt đẹp nên buộc miệng khen như vậy; còn như cái việc đại vương muốn xin nàng
thì tôi không dám bàn tới. Xin đại vương đừng tiết lậu chuyện đó ra nhé.
Tư Mã Hi từ biệt rồi
về nước, báo cáo với vua Trung Sơn:
- Vua Triệu không phải
là bậc hiền vương, không trọng đạo đức mà chỉ thích thanh sắc, không ưa nhân
nghĩa mà chỉ thích dũng lực. Hạ thần nghe nói ông ta muốn hỏi xin một nàng nào
đó tên là Âm Cơ.
Vua Trung Sơn nổi giận,
không vui.
Tư Mã Hi bảo:
- Triệu là một cường
quốc, hễ đòi thì tất được, đại vương không cho thì xã tắc lâm nguy, cho thì bị
chư hầu chê cười.
Vua Trung Sơn hỏi:
- Vậy làm sao bây giờ?
Tư Mã Hi đáp:
- Đại vương lập nàng
làm vương hậu đi để làm tuyệt ý muốn của vua Triệu. Thế gian không ai đi hỏi
xin vương hậu của một nước khác, dù có hỏi xin thì nước láng giềng cũng không
bao giờ cho.
Vua Trung Sơn bèn lập
Âm Cơ làm vương hậu, Triệu không hỏi xin nàng nữa.
12 Âm
Cơ và Giang Cơ: đều là hai cung phi đẹp của vua Trung Sơn.
13 Nguyên
văn: “Âm Cơ công”, Hứa Khiếu Thiên chú thích: “công” trỏ người cha. Diệp Ngọc
Lân bỏ chữ công đó mà không dịch, cho rằng Tư Mã Hi nói thẳng với nàng Âm Cơ.
Diệp sai.
14 Nghĩa
là nếu con gái ông được làm vương hậu.
15 Nguyên
văn: “thương địch vi tư” «商敵爲資».
Hứa Khiếu Thiên chú thích là: so sánh địch với mình rồi có thể được sự giúp đỡ
của Triệu (hoà tha tỉ giảo, tài khả dĩ đắc Triệu quốc bang trợ). Chúng tôi theo
bản dịch của Diệp Ngọc Lân.
7. TRỌNG KẺ HIỀN THÌ
NGUY CHO NƯỚC
(Chủ phụ dục phạt
Trung Sơn)
Chủ phụ (tức Triệu Vũ
Linh Vương) muốn đánh Trung Sơn, sai Lí Tì dò xét tình hình Trung Sơn. Lí Tì
(dò xét rồi về) đáp:
- Nên đánh. Nếu nhà
vua không đánh, sợ thiên hạ đánh trước mất.
- Vì lẽ gì (mà nên
đánh)?
- Vua Trung Sơn
nghiêng lọng ngừng xe 16 , vời bảy chục hiền sĩ từ hang cùng ngõ hẻm
về triều.
- Như vậy là hiền
quân, sao lại nên đánh?
- Không phải vậy. Đề
cử kẻ sĩ thì dân vụ danh mà bỏ cái gốc (tức cái thực); vời kẻ hiền về triều thì
kẻ cày ruộng sẽ làm biếng, mà chiến sĩ sẽ hèn yếu. Như vậy mà không mất thì là
việc chưa từng thấy.
16 Dịch
đúng nguyên văn: khuynh cái dữ xa. Hồi xưa gặp nhau thì người ta ngừng xe lại,
nghiêng lọng để chào hỏi. Đây có nghĩa là tỏ ý kính trọng kẻ sĩ.
8. ÂN VÀ OÁN
(Trung Sơn Quân hưởng
đô sĩ đại phu)
Vua Trung Sơn thiết yến
đãi các quan đại phu ở đô ấp. Tư Mã Hi được dự nhưng không được chia món canh
thịt dê, nên nổi giận, bỏ trốn qua Sở, thuyết vua Sở đánh Trung Sơn, vua Trung
Sơn phải bôn đào. (Trong lúc bôn đào) thấy có hai người cầm cây qua theo phía
sau, vua Trung Sơn quay lại hỏi:
- Các anh theo ta làm
gì?
Hai người đó đáp:
- Cha chúng tôi có lần
đói gần chết, nhà vua cấp cho một vò thức ăn. Khi sắp mất, cha chúng tôi bảo:
“Nếu vua Trung Sơn gặp nạn thì các con phải đem cái chết ra mà đền đáp”. Vì vậy
chúng tôi lại đây để xin chết vì nhà vua.
Vua Trung Sơn bùi
ngùi, ngửa mặt lên trời thở dài, bảo:
- Thi ân cho người
thì không cần nhiều hay ít, mà cần đúng lúc người ta gặp tai ách; gây oán cho
người thì không kể là lớn hay nhỏ, ngại nhất là làm thương tổn tấm lòng (tự ái)
của người ta. Ta vì một chén canh thịt dê mà mất nước, và vì một vò thức ăn mà
được hai bậc nghĩa sĩ.
10. BẠCH KHỞI KHUYÊN
CHIÊU VƯƠNG ĐỪNG ĐÁNH TRIỆU
(Chiêu Vương ký tức
dân)
Vua (Tần) Chiêu
Vương 17 đã cho dân nghỉ ngơi và chỉnh đốn binh
sĩ, lại muốn đánh Triệu. Vũ An Quân 18 bảo:
- Không nên.
Vua bảo:
- Năm trước nước
nghèo dân đói, ông không lượng sức bách tính, xin được thêm quân sĩ, lương thực
để diệt Triệu. Nay quả nhân đã cho dân nghỉ ngơi để nuôi binh sĩ, súc tích
lương thực, lương của tam quân gấp mấy hồi trước, mà ông lại bảo rằng “không
nên” là nghĩa làm sao?
Vũ An Quân đáp:
- Trận Trường Bình,
quân Tần đại thắng, quân Triệu đại bại; người Tần hoan hỉ, người Triệu sợ sệt.
Dân Tần chết thì được hậu táng, bị thương thì được hậu dưỡng, kẻ khó nhọc thì
được hậu đãi, cung cấp thức ăn thức uống đầy đủ, rất tốn hao tiền bạc 19 . Dân Triệu chết thì không được thu táng,
bị thương thì không được săn sóc, họ khóc lóc thương cảm lẫn nhau, gắng gượng
cùng chịu cực với nhau, cày ruộng, làm việc vất vả để kiếm tiền.
Nay đại vương xuất
quân tuy nhiều gấp mấy ngày trước nhưng theo tôi đoán thì Triệu phòng bị kỹ
cũng gấp mười ngày trước. Từ trận Trường Bình tới nay, vua tôi nước Triệu lo lắng,
sáng sớm họp triều, chiếu tối mới về, (trong sự ngoại giao) ngôn luận nhũn nhặn
mà lễ vật hậu hĩnh, bôn tẩu bốn phương để kết thân với Yên, Nguỵ, liên hiệp với
Tề, Sở, suy tính, khép nép, chỉ lo việc đề phòng Tần. Nước họ ở trong thì vững
mạnh mà ở ngoài thì ngoại giao thành công. Đương lúc này chưa nên đánh Triệu.
Vua Chiêu Vương bảo:
- Quả nhân đã phát
quân rồi.
Rồi sai quan đại phu
Vương Lăng ở trong quân doanh 20 cầm quân đánh Triệu. Lăng chiến đấu thất
lợi, mất chức trong quân doanh. Vua Chiêu Vương muốn sai Vũ An Quân, Vũ An Quân
cáo bệnh không đi, vua bèn sai Ưng Hầu lại thăm Vũ An Quân, trách rằng:
- Đất Sở vuông năm
ngàn dặm, kẻ cầm kích có tới trăm vạn; trước kia ông thống suất có vài vạn quân
mà vô đất Sở, hạ được thành Yên, thành Dĩnh, đốt tôn miếu của Sở, phía đông tiến
tới Cảnh Lăng, dân ở Sở chấn động hoảng sợ, tản cư qua phía đông 21 mà không dám đi về phía tây. Hàn, Nguỵ
cùng hưng binh, quân số rất đông, hơn gấp đôi quân số của ông, mà ông chiến đấu
với họ ở Y Khuyết, đại phá quân hai nước đó, máu chảy trôi cả hai cái mộc lớn,
chặt hai mươi bốn vạn đầu người, vì vậy mà Hàn và Nguỵ đến nay còn phải xưng là
nước phiên thuộc ở phía đông. Công đó của ông, thiên hạ không ai không biết.
Nay quân Triệu đã chết ở Trường Bình mười phần đến bảy tám, nước Triệu đã hư
nhược, cho nên quả nhân phát đại quân, đông gấp mấy quân Triệu, muốn sai ông cầm
quân để diệt Triệu. Ông đã từng dùng số ít đánh số đông mà thắng được như thần,
huống hồ nay dùng mạnh đánh yếu, dùng số nhiều đánh số ít.
Vũ An Quân đáp:
- Thời đó, vua Sở
(Khoảnh Tương Vương) cậy nước lớn, không nghĩ đến nhân chính, mà quần thần ganh
ghét nhau, kiếm cách tâng công, gièm pha nhau để được tin dùng, kẻ lương thần bị
gạt bỏ, trăm họ oán ghét, thành trì không tu bổ; đã không có lương thần lại
không có kẻ đề phòng, giữ thành, cho nên Khởi tôi mới kéo binh vô sâu nước họ
được, chiếm thêm nhiều thành ấp, phá cầu, đốt thuyền, để quân sĩ hết đường về
mà quyết tâm thắng địch, rồi cướp bóc ngoài thành, trong đồng để có đủ lương thực
cho quân; đương lúc đó sĩ tốt của Tần coi quân ngũ là gia đình của mình, coi tướng
soái là cha mẹ của mình, không hẹn mà thân thiết với nhau, không tính toán mà
cùng tin nhau, một lòng gắng sức với nhau, chết chứ không chịu quay gót. Người
Sở đánh lẻ loi cho đất của riêng mình, đều nghĩ đến gia đình mình nên lòng hoá
ly tán, không ai có chí chiến đấu, vì vậy mà tôi thành công được.
Trong trận Y Khuyết,
Hàn thế cô, trông cậy vào Nguỵ, không muốn dùng binh trước; Nguỵ lại trông vào
sự tinh nhuệ của quân Hàn, muốn đẩy quân Hàn đi tiên phong. Quân hai nước đó
tranh nhau phần hơn, cho nên tôi mới dùng được kế nghi binh để cầm chân quân
Hàn, rồi dồn hết quân tinh nhuệ để đánh Nguỵ trong lúc bất ngờ. Quân Nguỵ thua
rồi, quân Hàn tự nhiên tan, tôi thừa thắng đuổi theo,vì vậy mà lập được công.
Đó đều là cái lẽ tự nhiên mưu tính, lợi dụng hình thế, chớ có gì là phép thần
đâu!
Tần đã thắng trận
quân Triệu ở Trường Bình, không nhân cái lúc họ chấn động hoảng sợ mà diệt đi,
thấy họ sợ uy mình mà tha cho họ; khiến cho họ được cày bừa súc tích, nuôi nấng
trẻ nhỏ và con côi để dân số tăng lên, sửa sang chỉnh đốn binh giáp để quân lực
mạnh lên, cất thêm thành, đào thêm hào để củng cố thêm lên. Vua của họ chịu
giao phó thân mình để tôn trọng kẻ sĩ cảm tử; đến nỗi kẻ thuộc hạ của Bình
Nguyên Quân đều sai thê thiếp may vá cho quân đội trong hàng ngũ. Bề tôi và dân
chúng họ một lòng, trên dưới chung sức, không khác gì cái thời vua Việt là Câu
Tiễn bị khốn ở Cối Kê. Bây giờ mà đánh Triệu thì Triệu tất cố thủ, khiêu khích
cho họ giao chiến thì họ tất không ra, vây quốc đô của họ thì tất không hạ nổi,
đánh các thành của họ thì chưa chắc đã chiếm được, cướp phá các miền ngoài
thành và đồng ruộng của họ thì tất chẳng được gì. Mình xuất binh mà không thắng
được thì các chư hầu tất sẽ đổi lòng, đem quân từ ngoài vào cứu; tôi chỉ thấy hại
chứ chưa thấy lợi. Vả lại tôi đau, chưa đi được.
Ưng hầu xấu hổ ra về,
thuật lại với Chiêu Vương. Chiêu Vương bảo:
- Không có Bạch Khởi
thì ta không diệt được Triệu chăng?
Rồi lại xuất quân nhiều
hơn nữa, sai Vương Hốt thay Vương lăng, vây Hàm Đan tám chín tháng, quân lính
chết và bị thương nhiều mà không hạ được. Vua Triệu (Hiếu Thành Vương) đem
khinh binh tinh nhuệ đánh cướp phía sau quân Tần, Tần mấy lần bị bất lợi.
Vũ An Quân bảo:
- Không nghe kế của
tôi, nay quả nhiên ra sao!
Chiêu Vương nghe vậy,
nổi giận, bèn lại thăm Vũ An Quân, cố thuyết phục, bảo:
- Ông tuy đau, hãy gượng
vì quả nhân nằm mà chỉ huy quân sĩ. Có công, làm mãn nguyện được quả nhân thì sẽ
được trọng thưởng; còn nếu như ông không chịu đi thì quả nhân hận ông đấy!
Vũ An Quân cúi đầu
đáp:
- Tôi biết rằng đi
tuy không thành công thì cũng tránh được tội; còn như không đi thì tuy chẳng có
tội gì cũng không tránh được bị giết. Nhưng xin đại vương xét kế ngu của tôi:
tha cho Triệu mà nuôi dân mình, để ý tới sự biến động của các nước chư hầu, vua
nước nào sợ sệt thì vỗ về, vua nước nào kiêu ngạo thì đánh, vua nước nào vô đạo
thì diệt, ra lệnh cho chư hầu, như vậy thiên hạ có thể yên được. Hà tất phải
coi việc diệt Triệu là phải làm trước hết. Như vậy là “chịu khuất một kẻ bề tôi
mà thắng được thiên hạ”. Nếu đại vương không xét kế ngu của tôi, cứ nhất định
quyết tâm với Triệu, đến nỗi bắt tội tôi, như vậy là “thắng một kẻ bề tôi mà phải
khuất phục thiên hạ”. Cái nghiêm nghị thắng được một kẻ bề tôi đâu bằng cái uy
thế thắng được thiên hạ 22 . Tôi nghe rằng bực minh quân yêu nước
mình, kẻ trung thần yêu cái danh của mình, nước đã tan rồi thì không còn phục
hưng lại được nữa; người đã chết rồi thì không còn sống lại được nữa. Tôi thà
cúi mình chịu tội chết chém chứ không chịu mang cái nhục làm tướng mà thua địch!
Xin Đại vương xét cho.
Chiêu Vương không đáp
mà đi ra.
17 Chúng
tôi nghĩ bài này không liên quan gì tới Trung Sơn, đặt vào Tần sách mới phải.
18 Tức
Bạch Khởi, danh tướng của Tần, có lần chiếm được 70 thành, được phong làm Vũ An
Quân. Trong trận Trường Bình, quân Triệu đầu hàng hơn 40 vạn. Bạch Khởi sợ họ nổi
loạn, đương đêm lập mưu giết hết.
19 Có
sách chú thích là dồi dào tiền bạc, như vậy e ngược với ý của Vũ An Quân.
20 Có
sách chú thích là năm lần ở trong quân doanh.
21 Tức
qua nước Trần.
22 Ý
nói đại vương nhất định bắt tôi phải nghe lời, nhất định muốn thắng tôi, thì có
tiếng là nghiêm nghị thật, nhưng sao bằng chịu nghe lời tôi mà sau thắng được cả
thiên hạ, thì cái uy thế đó mới lớn.
--------------------------------
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét