Thứ Năm, 29 tháng 12, 2022

CHƯƠNG IX - TỐNG, VỆ SÁCH

 

CHƯƠNG IX

TỐNG, VỆ SÁCH

Nước Tống nay thuộc tỉnh Hà Nam. Đời Thương, một bà thái mẫu của vua Trụ (1154-1123) có một người con tên là Khải (Vi Tử) được phong đất ở đó, đô thành ở Thương Khâu (nay thuộc Hà Nam). Tới đời Tống Vương tên là Yển, Tề, Nguỵ và Sở chiếm Tống, mỗi nước chia một phần, và Tống diệt vong từ đó.

*

Nước Vệ là đất phong của Khang Thúc, em Chu Võ Vương (1134-1115), đô thành là Triệu Ca (nay thuộc tỉnh Hà Nam), đời Vệ Văn Công dời đô qua Sở Khâu (nay cũng thuộc tỉnh Hà Nam), đời Vệ Thành Công lại dời đô qua Đế Khâu (nay thuộc tỉnh Trực Lệ); cuối cùng bị Tần diệt. Nước Vệ nằm trên một phần tỉnh Trực Lệ và một phần tỉnh Hà Nam ngày nay.



TỐNG

1. KINH HỨA HÃO VỚI TỐNG

(Tề công Tống)


Tề đánh Tống, Tống sai Tạng Tử qua cầu với nước Kinh 1 . Vua Kinh rất mừng, cực lực hứa giúp. Tạng Tử lo lắng quay về; người đánh xe hỏi:

- Cầu cứu mà được, mà lại có vẻ lo là tại sao?

Tạng Tử đáp:

- Tống nhỏ mà Tề lớn. Cứu nước nhỏ là Tống để bị nước lớn là Tề ghét, đáng lý vua Kinh phải lo lắng về điều đó, vậy mà vua Kinh rất vui vẻ thì tất là có ý hứa hão để ta kiên nhẫn chống Tề; ta kiên nhẫn chống Tề, Tề sẽ mệt mỏi, suy nhược, thế là có lợi cho Kinh.

Tạng Tử về tới Tống, vua Tề (Tuyên Vương) đánh Tống, chiếm được năm thành; quả nhiên cứu binh của vua Kinh không tới.

1       Nước Kinh tức nước Sở. Vua Kinh ở đây là Sở Uy Vương.


2. MẶC TỬ CAN VUA SỞ ĐỪNG ĐÁNH TỐNG

(Công Thâu Ban vi Sở thiết cơ)


Công Thâu Ban 2 vì Sở chế tạo một cái máy để dự bị đánh Tống. Mặc Tử 3 hay tin, đi một vạn dặm, chân chai rộp lên như cái kén, lại thăm Công Thâu Ban, bảo:

- Tôi ở Tống nghe tiếng ông, muốn lại giúp ông giết vua Tống (Cảnh Công).

Công Thâu Ban đáp:

- Tôi tuyệt nhiên không có ý muốn giết vua Tống.

Mặc Tử bảo:

- Nghe nói ông chế tạo một kiểu thang mây 4 để dự bị đánh Tống. Nước Tống có tội gì? Bản ý của ông đã không phải là giết vua Tống, mà ông lại (chế tạo thang để) đánh nước Tống, như vậy là ông không muốn giết ít mà muốn giết nhiều người. Xin hỏi ông: đánh Tống là có nghĩa gì?

Công Thâu Ban chịu phục lời của Mặc Tử, dẫn Mặc Tử vô yết kiến vua Sở, bảo:

- Nay có một người không thích chiếc xe đẹp đẽ của mình, thấy nhà hàng xóm có chiếc xe tồi tàn mà muốn lấy trộm; không thích những quần áo bằng gấm vóc của mình, thấy nhà hàng xóm có chiếc áo cộc bằng vải thô mà muốn lấy trộm; không thích gạo thơm thịt béo của nhà mình, thấy nhà hàng xóm có tấm cám mà muốn lấy trộm, như vậy là hạng người ra sao?

Vua Sở đáp:

- Nhất định là kẻ đó có tật ăn cắp rồi!

Mặc Tử bảo:

- Nước Kinh đất vuông năm ngàn dặm, nước Tống vuông năm trăm dặm, như vậy không khác gì chiếc xe đẹp đẽ so với chiếc xe tồi tàn; nước Kinh có đất Vân Mộng đầy các loài tê, loài huỷ 5 , hươu nai, có sông Trường Giang và sông Hán Thuỷ đầy ba ba, giải, kỳ đà, là nước phong phú trong thiên hạ, còn Tống là nước không có tới con trĩ, con thỏ, con giếc, như vậy không khác gì gạo thơm thịt béo so với tấm cám; nước Kinh có loại tùng cao, loại tử có vân, loại nam lớn, loại dự, loại chương 6 , còn nước Tống thì không có loại cây lớn, như vậy không khác gì áo quần bằng gấm vóc so với áo cộc bằng vải thô. Tôi cho rằng đại vương sai người đánh Tống thì có khác gì hành động của kẻ tôi vừa mới nói đó không?

Vua Sở đáp:

- Phải lắm! Tôi xin thôi không đánh Tống.

2       Công Thâu Ban: là một người rất thông minh của nước Lỗ. Có sách lại cho rằng Công Thâu Ban là tên hiệu của Lỗ Ban, tổ sư của nghề thợ mộc.

3       Mặc Tử: tức Mặc Địch, triết gia chủ trương thuyết kiêm ái (yêu mọi người như người thân của mình).

4       Tức một kiểu thang rất cao (như đụng mây) do xe chở đi để tấn công các thành thời xưa.

5       Huỷ là con tê cái.

6       Tử, nam, dự, chương đều là những loại cây quí.


5. MUỐN KHỎI MẤT ĐỊA VỊ

(Vị Đại Doãn viết)


Có kẻ bảo Đại Doãn 7 :

- Vua mỗi ngày một lớn, rồi sẽ tự biết điều khiển việc nước, lúc đó ông sẽ không được dùng nữa. Ông nên làm sao cho vua Sở khen vua là có hiếu, như vậy vua sẽ không đoạt quyền của thái hậu mà ông sẽ được dùng hoài ở Tống.

7       Đại Doãn: là một ông quan của Tống. Lúc đó vua Tống còn nhỏ, thái hậu cầm quyền, tin dùng Đại Doãn.


6. TÔ TẦN KHUYÊN TỀ CHO TỐNG CẦU HOÀ

(Tống dữ Sở vi huynh đệ)


Tống với Sở kết thân làm nước anh em; Tề đánh Tống, vua Sở hứa cứu Tống, Tống dựa vào uy thế của Sở mà cầu hoà với Tề, Tề không nghe, Tô Tần thay Tống mà bảo tướng quốc nước Tề:

- Nên cho Tống cầu hoà để biểu thị rằng Tống dựa vào uy thế của Sở để xin hoà với Tề. Như vậy Sở tất giận, sẽ tuyệt giao với Tống mà thần phục Tề; Tề với Sở liên hợp với nhau rồi, lúc đó đánh Tống sẽ dễ.



7. THUẬT BÁCH CHIẾN BÁCH THẮNG

(Nguỵ thái tử tự tướng)


Thái tử nước Nguỵ (tên là Thân) tự cầm quân đánh Tề, đi qua đất Ngoại Hoàng của Tống. Một người ở Ngoại Hoàng tên là Từ Tử bảo thái tử:

- Tôi có thuật bách chiến bách thắng, thái tử chịu nghe tôi không?

Thái tử đáp:

- Xin nghe.

Khách (tức Từ Tử) bảo:

- Tôi sẵn sàng xin gắng sức. Nay thái tử tự cầm quân đánh Tề, như đại thắng, thôn tính được đất Cử, thì giàu bất quá là có nước Nguỵ, sang bất quá là làm vua; nếu không thắng thì vạn đời sau không còn nước Nguỵ 8 . Đó là cái thuật bách chiến bách thắng của tôi.

Thái tử đáp:

- Phải. Tôi nhất định xin nghe lời ông mà đem binh về.

Từ Tử bảo:

- Thái tử tuy muốn đem binh về, mà tôi sợ không về được đâu! Có những chiến sĩ của Nguỵ muốn lợi dụng chiến công của thái tử để thoả mãn ý riêng của họ, bọn họ rất đông. Thái tử tuy muốn đem binh về mà tôi sợ không về được đâu!

Thái tử lên xe, đòi trở về nước. Người đánh xe bảo:

- Mới xuất quân, vô cố quay về, thì bị tội cũng như là thua chạy, không bằng cứ tiến lên.

Rồi tiến lên, giao chiến với Tề, thái tử tử trận, rốt cuộc là không giữ được nước Nguỵ.

8       Theo Hứa Khiếu Thiên thì có nghĩa là: Nguỵ không thắng được Tề thì thái tử sẽ chết, mà vua Nguỵ sẽ không còn người nối dõi.


8. TRUYỆN CON SẺ ĐẺ CON NHẠN

(Tống Khang Vương chi thời)


Thời Tống Khang Vương (tên là Yển) có một con sẻ đẻ một con nhạn con ở góc tường một toà thành. Vua Tống sai quan thái sử bói xem cát hung ra sao. Quan thái sử đáp:

- Nhỏ mà sanh lớn, đại vương tất làm bá chủ thiên hạ.

Khang Vương rất mừng, bèn diệt nước Đằng, đánh nước Tiết 9 , chiếm đất Hoài Bắc. Rồi lại càng tự tin, muốn thành ngay nghiệp bá, cho nên lấy tên bắn trời, lấy roi quất đất, phá nền xã tắc mà đốt rụi hết, bảo rằng: “Thiên địa quỉ thần phải phục tòng uy lực của ta”, chửi mắng các vị quốc lão nào lên tiếng can gián, chế ra một kiểu mão không che tới trán 10 để biểu thị uy dũng của mình, bửa những cái lưng gù, chặt cẳng những kẻ sáng sớm qua sông 11 , dân chúng kinh hoảng.

Tề hay tin, đem quân đánh Tống, dân Tống tán loạn, thành không ai giữ. Khang Vương phải trốn vào nhà quan Nghê Hầu, rồi bị quân Tề bắt được giết chết 12 .

Thấy điềm lành mà không làm điều lành thì điềm lành trở ngược lại thành tai hoạ 13 .

9       Đằng là nước nhỏ, nay thuộc tỉnh Sơn Đông. Tiết cũng vậy. Hai nước đó ở gần nhau.

10     Bản Thương Vụ ấn thư quán và bản của Quảng Ích thư cục đều chép: mạ quốc lão gián viết vi vô nhan chi quan «罵國老諫曰爲無顏之冠»viết, Quảng Ích chấm câu sau chữ mạ quốc lão gián giả. Crump ngờ rằng nguyên văn ở đây chép lộn, tạm dịch là: mắng các vị quốc lão là những cái đầu tóc không có mặt (faceless headdresses). Chúng tôi tạm theo lời giải của Hứa Khiếu Thiên và Diệp Ngọc Lân mà dịch như trong bài.

11     Nguyên văn các bản đều chép: triêu thiệp «朝涉» (sáng sớm lội qua sông). Nhưng sao lại chặt chân kẻ sáng sớm qua sông? Nguyên văn cũng đáng ngờ lắm. Crump ngờ là triêu bộ «朝步» và giảng là những bàn chân quay mặt vào nhau (Soles of the feet facing each other), tức những chân đi chữ bát (?); nhưng khi dịch thì ông vẫn theo lời giải thích từ xưa tới nay là: sáng sớm qua sông.

12     Nguyên văn: toại đắc nhi tử «遂得而死». Chúng tôi theo Hứa Khiếu Thiên và Diệp Ngọc Lân mà dịch như vậy. Crump dịch là đau rồi chết.

13     Năm thứ 29 đời Chu Noản Vương, Tề, Sở, Nguỵ diệt Tống, chia làm ba, mỗi nước chiếm một phần.


VỆ

9. NAM VĂN TỬ ĐOÁN ĐƯỢC DÃ TÂM CỦA TRÍ BÁ

(Trí Bá dục phạt Vệ)


Trí Bá muốn đánh Vệ, gởi tặng vua Vệ bốn trăm con ngựa tốt và một đôi bạch bích 14 . Vua Vệ rất vui, quần thần đều chúc mừng, mà Nam Văn Tử có vẻ lo. Vua Vệ hỏi:

- Cả nước đều rất vui mà riêng ông có vẻ lo là tại sao?

Văn Tử đáp:

- Không có công mà được thưởng, không phí sức mà được lễ vật, điều đó không thể không xét được. Bốn trăm con ngựa tốt và một đôi bạch bích, đó là lễ vật của một nước nhỏ dâng một nước lớn, mà ngược lại, nước lớn đem gởi tặng nước nhỏ, xin nhà vua suy nghĩ xem.

Vua Vệ đem lời đó báo cáo cho các quan ở biên cương biết (để đề phòng). Quả nhiên Trí Bá dấy binh đánh úp nước Vệ, tới biên giới Vệ rồi quay về, bảo:

- Nước Vệ có người hiền, đã đoán trước được mưu của ta.

14     Bích là một thứ ngọc màu xanh lợt. Bạch bích là thứ ngọc trắng xanh. Nguyên văn “bạch bích nhất”; có sách giải thích là một đôi ngọc bích; có sách lại giải thích là một chiếc vòng ngọc bích.


10. NAM VĂN TỬ MỘT LẦN NỮA ĐOÁN ĐƯỢC DÃ TÂM CỦA TRÍ BÁ

(Trí Bá dục tập Vệ)


Trí Bá muốn đánh úp Vệ, làm bộ đuổi thái tử đi, bảo thái tử chạy trốn qua Vệ. Nam Văn Tử bảo:

- Thái tử Nhan là con của Trí Bá, được Trí Bá rất sủng ái, không phạm tội lớn nào mà bị đuổi, tất có nguyên do gì khác đây.

Rồi sai người tiếp đón thái tử ở biên giới, dặn bảo người đó:

- Nếu thấy thái tử có trên năm cổ binh xa thì phải cẩn thận, không cho vô cõi đấy.

Trí Bá hay tin, bèn ngưng việc đánh úp nước Vệ.



12. NGÔ HẠ TIÊN SINH NÓI GIÚP KHÁCH NƯỚC VỆ

(Vệ sứ khách sự Nguỵ)


Nước Vệ sai một người “khách” 15 qua phụng sự Nguỵ, ba năm mà người đó không được yết kiến vua Nguỵ, nên đâm lo, lại thăm Ngô hạ tiên sinh, hứa hễ nói giúp thì sẽ tặng trăm giật vàng. Ngô hạ tiên sinh 16 nhận lời, rồi vô yết kiến vua Nguỵ, bảo:

- Tôi nghe nói Tần xuất binh, chưa biết tiến về phía nào. Tần và Nguỵ tuy giao thiệp với nhau mà đã lơ là từ lâu rồi. Xin đại vương chuyên phụng sự Tần, đừng tính kế gì khác.

Vua Nguỵ đáp:

- Phải.

Ngô hạ tiên sinh đi ra, tới cửa quách (cửa ngoài) rồi quay lại, bảo:

- Tôi sợ đại vương thờ Tần bây giờ trễ rồi.

Vua Nguỵ hỏi:

- Tại sao?

- Thường tình người ta là chậm chạp trong việc phụng sự người. Nay đại vương chậm chạp về việc phụng sự mình thì làm sao có thể mau mắn trong việc phụng sự người được?

- Sao ông biết vậy?

- Ông khách nước Vệ bảo: “Qua đây để phụng sự đại vương ba năm rồi mà không được yết kiến đại vương”. Do đó mà tôi biết rằng đại vương chậm trễ trong việc phụng sự mình.

Vua Nguỵ bèn ra tiếp khách của nước Vệ.

15     Khách là người nước khác lại giúp việc cho mình. Ở đây là người nước Vệ qua làm quan cho vua Nguỵ.

16     Ngô hạ tiên sinh, chính nghĩa là “ông có nhà ở dưới gốc cây ngô đồng”.


14. NÓI KHÔNG NHẰM LÚC

(Vệ tự quân thời)


Thời tự quân (ông vua nối ngôi – không rõ là ai) của Vệ, có một tội nhân làm khổ dịch xây thành trốn qua Nguỵ. Vua Vệ bỏ trăm giật vàng để chuộc, Nguỵ không chịu; vua Vệ lại xin đem đất Tả để chuộc. Quần thần can:

- Đem một khu đất đáng giá trăm nén vàng chuộc một tội nhân làm khổ dịch, phỏng có nên chăng?

Vua đáp:

- Việc nước, nếu không trị cái nhỏ thì sẽ gây cái hoạ lớn. Giáo hoá, hiểu dụ rõ ràng cho dân thì dù chỉ có một thành ba trăm nóc nhà, nước cũng gọi là trị; còn như nếu dân mà không có liêm sĩ thì dù có mười đất Tả, phỏng dùng được việc gì? 17

                                                                     *

Có người nước Vệ đón dâu. Cô dâu lên xe hỏi:

- Hai con ngựa hai bên là của ai?

Người đánh xe đáp:

- Mượn của người ta.

Cô dâu bảo người đầy tớ:

- Có đánh thì đánh hai con hai bên, đừng quất hai con ở giữa 18 .

Xe tới cửa, lúc xuống xe dặn người theo hầu:

- Tắt bếp đi kẻo cháy nhà.

Vô phòng rồi thấy cái cối đá, bảo:

- Dời nó lại dưới cửa sổ kia, kẻo vướng chân người qua lại.

Chủ nhân cười. Ba lời đó của cô dâu đều là những lời nên nói cả, nhưng nói ra không khỏi làm cho người ta cười chỉ vì nói không nhằm lúc 19 .

17     Bản Tân Lục thư cục và bản Quảng Ích thư cục đều tách đoạn trên với đoạn dưới, thành hai bài. Bản Thương Vụ ấn thư quán gom lại thành một. Chúng tôi nghĩ gom lại thì phải hơn. Vì phần dưới tác giả dẫn thêm một câu chuyện nữa để tỏ rằng tự quân của Vệ nói không nhằm lúc, cũng nực cười như cô dâu nước Vệ vậy.

18     Một cỗ xe thời xưa đánh bốn ngựa, hai con ở hai bên gọi là “tham”, hai con ở giữa gọi là “phục”. Nguyên văn là “phụ tham” «拊驂»: chữ “phụ” này các tự điển giảng là vỗ về; Hứa Khiếu Thiên cũng chú thích là vỗ về; Diệp Ngọc Lân lại dịch là “đả” = đánh, Cao Dụ (bản của Thương Vụ ấn thư quán) cũng chú thích là “kích” = đánh. “Đánh” hợp với nghĩa trong bài hơn.

19     Vì cô dâu mới về nhà chồng mà đã có giọng bà chủ.

--------------------------------

Link

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét