Thứ Ba, 30 tháng 6, 2020

Nguyên Ngọc, con người lãng mạn


Nguyên Ngọc, con người lãng mạn
·         NGUYỄN ĐĂNG MẠNH
·       Thứ năm, 20 Tháng 9 2012 00:44



Tôi quen Nguyên Ngọc đã lâu, dễ đến hai chục năm. Tính anh phóng khoáng, bia rượu khá. Chúng tôi bia bọt với nhau đã nhiều lần, khi thì ở sông Đà, khi ở Thái Nguyên, khi ở Đà Nẵng, khi ở Sài Gòn – không kể bao nhiêu lần ở Hà Nội. Ấy thế mà không hiểu sao tôi cứ cảm thấy giữa anh và tôi có một cái gì như vẫn có một khoảng cách.

Ấy là nói về phía tôi thì thế - một thứ mặc cảm của riêng tôi thôi – còn anh, anh có cảm thấy thế không, tôi không biết. Có lẽ vì anh theo đuổi một cái gì rất cao, nên có những nguyên tắc sống rất nghiêm. Còn tôi thì sống thế nào cũng xong. Có phần dễ dãi với mình. Và cũng dễ mềm lòng trước những lời nói khéo, nói ngọt, tuy biết rằng chưa hẳn đã là chân thật. Nghĩa là sống thiếu nguyên tắc. Cái yêu, cái ghét của anh thì khác, phân minh lắm và không dễ thay đổi, lắm lúc dường như là cố chấp. Vừa rồi Ban Chấp hành Hội Nhà văn cấp cho anh mấy triệu gọi là tiền bồi dưỡng sáng tác. Anh không nhận. Viết gì đã có nhuận bút, còn tiền kia là của nhân dân, anh nghĩ thế và dứt khoát từ chối. Tôi thì tôi nhận ngay và tiêu luôn. Đấy, cái gọi là khoảng cách giữa tôi và anh là ở đấy chăng?

Thứ Bảy, 27 tháng 6, 2020

Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu (phần 2)

Phiên chợ Giát

Tô Hoài nói: Đó là một thiên truyện cực hay. Tô Hoài là người sành sỏi và xưa nay chẳng chịu ai, ta biết rồi.
Riêng tôi, tôi lại muốn nói: Những ai được sống cùng thời với sự ra đời của một tác phẩm như thế, nên biết rằng mình là người có may mắn và hạnh phúc lớn!
Phiên chợ Giát là đỉnh cao của một chặng đường dài Nguyễn Minh Châu. Với nó, chúng ta có một nhà văn lớn, và văn học ta bước sang một bước mới nào đó, khác hẳn về chất. Đó là chuyện đất nước suốt một thời dài, thời chúng ta, với bao anh hùng và đau đớn, với bao sự nghiệp lớn lao và bao cuồng vọng ngớ ngẩn, với bao cái vĩ đại có thật, hiển nhiên và bao cái vĩ đại vớ vẩn hay là vớ vẩn vĩ đại. Đó là chuyện đất đai này, con người VIệt Nam này, thời buổi này, vừa thiêng liêng vừa trần tục, cao cả và bi đát, nghiêm trang và buồn cười. Đó là phiên chợ Giát, phiên chợ đời ngổn ngang, hỗn tạp, ồn ào mà cũng tê tái buồn, tàn bạo và nhân ái, con người trùng trục lầm lụi như con vật và con vật thường khi người hơn con người. Phiên chợ Giát là chuyện đời, đời hôm nay, và đời mãi mãi.
Mà cũng là chuyện con người đối mặt với số phận, với cái vô cùng, cõi hư không. Tôi cứ nghĩ chắc Nguyễn Minh Châu không thể viết được đến thế nếu anh không bị căn bệnh hiểm nghèo ấy, nếu anh không phải đối mặt từng ngày với cái chết. Truyện chỉ có thể viết vào lúc lâm chung…
(Nguyên Ngọc)


Tiếp theo phần 1

Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu (phần 2)



Lão lục lung tung mớ giấy má của gia đình cất trong một đoạn ống bương có nắp đậy và vẫn còn giữ được nguyên vẹn cả một đoạn dây đeo bằng bả có thể choàng qua vai - vật còn lại của quãng đời nông ngư xam bán thỉnh thoảng "đi nghề" ra biển đánh cá, trong những năm lão hãy đang còn trẻ trai ở dưới làng Khơi.
Bỗng lão Khúng sực nhớ ra chiếc ba lô của thằng Dũng do anh bộ đội người Thanh Hóa đã mất công phu khoác về từ bên nước Kampuchea cho gia đình lão. Mấy ngày nay lão đã cẩn thận đem cất trong một cái chum đựng khoai lang khô tận trong buồng vợ và lão quên khuấy đi.

Phiên chợ Giát - Nguyễn Minh Châu (phần 1)

Phiên chợ Giát
Tô Hoài nói: Đó là một thiên truyện cực hay. Tô Hoài là người sành sỏi và xưa nay chẳng chịu ai, ta biết rồi.
Riêng tôi, tôi lại muốn nói: Những ai được sống cùng thời với sự ra đời của một tác phẩm như thế, nên biết rằng mình là người có may mắn và hạnh phúc lớn!
Phiên chợ Giát là đỉnh cao của một chặng đường dài Nguyễn Minh Châu. Với nó, chúng ta có một nhà văn lớn, và văn học ta bước sang một bước mới nào đó, khác hẳn về chất. Đó là chuyện đất nước suốt một thời dài, thời chúng ta, với bao anh hùng và đau đớn, với bao sự nghiệp lớn lao và bao cuồng vọng ngớ ngẩn, với bao cái vĩ đại có thật, hiển nhiên và bao cái vĩ đại vớ vẩn hay là vớ vẩn vĩ đại. Đó là chuyện đất đai này, con người VIệt Nam này, thời buổi này, vừa thiêng liêng vừa trần tục, cao cả và bi đát, nghiêm trang và buồn cười. Đó là phiên chợ Giát, phiên chợ đời ngổn ngang, hỗn tạp, ồn ào mà cũng tê tái buồn, tàn bạo và nhân ái, con người trùng trục lầm lụi như con vật và con vật thường khi người hơn con người. Phiên chợ Giát là chuyện đời, đời hôm nay, và đời mãi mãi.
Mà cũng là chuyện con người đối mặt với số phận, với cái vô cùng, cõi hư không. Tôi cứ nghĩ chắc Nguyễn Minh Châu không thể viết được đến thế nếu anh không bị căn bệnh hiểm nghèo ấy, nếu anh không phải đối mặt từng ngày với cái chết. Truyện chỉ có thể viết vào lúc lâm chung…
(Nguyên Ngọc)

 Phần 1.

Lão Khúng thức giấc. Lão chợt thức giấc vì một giấc mê khủng khiếp. Trong cơn mê ngủ, lão Khúng trông thấy một lão già thân hình cao vóng lại lủng củng đầy những xương cùng xẩu, mái tóc cắt ngắn cứng như rễ tre, mớ đổ phải, mớ đổ về phía trước trán, sợi đen sợi trắng loang lổ, mặt mũi gồ ghề, hai con mắt nhìn gườm gườm, với những mảng tiết bò còn ướt hoặc đã khô dính bết trên các bắp thịt nổi cuộn ở bả vai và bắp tay; cái lão già ghê tởm ấy giang cả hai cánh tay nâng một chiếc búa to nặng như búa của thằng phụ lò rèn ở đầu làng Khơi bổ xuống giữa đầu một con bò, cú đánh của chiếc búa tạ làm lún một mảng trán sát hai con mắt của con vật, khiến cho một con mắt dính đầy máu trồi ra ngoài.
Trời đất hỡi, đúng là con bò của nhà lão Khúng, con khoang đen nhà lão, "mụ già khụt khịt hay cảm cúm" của nhà lão, "bà đội trưởng" của lão Khúng, con bò nhà lão kêu rống lên một tiếng nghe ghê rợn, thứ tiếng kêu phát ra vào buổi mờ sáng từ nhà a ba toa phố Cầu Giát mà từ nhỏ những bận đi củi qua đó, qua các nhà a ba toa có ánh sáng ngọn đèn bãi chiếu như hắt ánh sáng ra ngoài, lão Khúng đều phải bịt cả hai lỗ tai lại, vắt chân lên cổ mà chạy. Nào có phải đứa dát, là đứa trẻ tợn tạo nhưng lão Khúng từ nhỏ đã không chịu nổi bất kỳ con vật gì kêu khi sắp chết.
Ai? Ai đã giết con khoang đen nhà lão, người bạn đời của lão? Lão nào? Thằng già chết tử chết tiệt nào, đứa thần trùng nào, bọn trộm cướp giết người của dân kẻ bãi hay sơn tràng nào?
Thì lão chứ ai! Đứa hung thần là lão Khúng chứ ai! Kẻ nâng chiếc búa tạ lên đánh vào đầu con vật là lão chứ ai! Tay chân run lẩy bẩy, mồ hôi toát ra khắp sống áo đầm đìa, lão Khúng sợ quá. Lão đã trở nên độc ác quá mức, thật là vô cùng ác độc, mà lão đã trở nên độc ác ngoài sức nghĩ của con người từ bao giờ vậy? Giá như người khác, là người biết ngoan ngoãn tuân phục một thứ tôn giáo nào thì chắc chắn lúc này, giữa đêm hôm khuya khoắt, lão đã lập tức quỳ sụp xuống mà hối hả đọc kinh, đập đầu xuống đất mà van nài kẻ tôn thờ, trút lòng ăn năn sám hối trước đấng thiêng liêng ở trên đầu trên cổ. Đằng này là một kẻ vô đạo, lão Khúng chỉ biết lật mình ngồi dậy trên tấm phản gỗ mà run sợ một mình, vật vã đau khổ một mình, tự mình lại lấy làm sợ hãi trước chính mình. Lão mở trừng trừng hai con mắt mà nhìn tên hung thần đồ tể vừa nhập vào lão, ngay khi lão bình yên ngủ trên tấm phản quen thuộc giữa nhà mình.
Đoạn rồi như một kẻ vừa may mắn thoát họa, lão Khúng thở phào. Thực may! may quá! Vậy là không phải, chỉ là trong giấc mơ. Không phải thực. Đúng, mà đây rồi, con khoang đen nhà lão lúc này đang khụt khịt ở ngoài gian bò sau nhà bếp.
Lão yên tâm nằm xuống. Và nghĩ về giấc mơ tiếp sau đó.
Pin! pin! pin!

NHỮNG NGÀY LANG THANG- NGUYÊN NGỌC


NHỮNG NGÀY LANG THANG
NGUYÊN NGỌC

Nguyên Ngọc
Một đoạn hồi ký, viết đã rất lâu, rồi bỏ quên. May có người bạn còn giữ, vừa gửi lại cho. Đọc lại, tôi chỉ nghĩ, giá phải viết lại hôm nay, chắc tôi sẽ không muốn thay đổi gì nhiều.
NN

dốc Thẩm Mã ở Phó Cáo

… Mấy năm ở miền Bắc tôi làm nghề biên tập viên và phóng viên cho tạp chí Văn nghệ quân đội, trụ sở đóng ở cái nhà 4 Lý Nam Đế nổi tiếng. Thích làm phóng viên hơn biên tập vì vẫn thích lang thang. Biên tập thì phải ở nhà nhiều hơn, quanh quẩn mãi Hà Nội.
Thật ra tôi đã phải lòng Hà Nội ngay từ buổi đầu. Cả đất nước, chắc chắn không có thành phố nào đẹp bằng, đáng để yêu và thương nhớ hơn. Yêu và thương nhớ khôn nguôi, mặc trăm thứ bà rằn từng giày vò quấy nhiễu cắn xé anh ở đó… Tình yêu là vậy, là cái gì đó không thể rứt ra được, vô lý và vô nghĩa, vô vọng và vô duyên, biết rất rõ chẳng đi đến đâu hết mà vẫn cứ yêu, một cách dại dột, một cách vụng về, một cách lố bịch nữa cũng có khi, người ta lạnh nhạt hờ hững với mình ra mặt mà mình cứ lao vào, bất kể, bất lực, liều lĩnh, như điên. Tình yêu là vậy, là cái kiểu anh chàng rất Nam Bộ lăng nhăng nọ, “ra đường thấy vịt cũng lùa, thấy duyên cũng bén, thấy chùa cũng tu”, gặp cái gì cũng dính, yêu ba bốn nơi một lúc, bỏ cái nào cũng tiếc, đâu cũng là nợ là duyên. Tình yêu thật nào mà chẳng trái khoáy, kỳ quặc vô lý vô nghĩa đối với bất cứ ai ở ngoài cuộc. Tình yêu là chỉ để cho độc có mình hiểu lấy mình, may ra còn thêm mỗi một người nữa hiểu cho, người ấy… Nhưng trong trăm nghìn mối duyên nợ linh tinh vấp phải suốt đường đời gập ghềnh, trong mê hồn trận kiếp người ấy, vẫn có một phen nào đó, – lại thường là phen bất ngờ nhất – anh bị phang cho một vố nặng hơn cả, coup de foudre, “cú sét đánh” mà lại, cháy rụi cả người, không còn gượng dậy được, sạch sành sanh hết cả quá khứ, cả hiện tại, cả tương lai, tuy bề ngoài, dưới mắt mọi người tất cả mọi sự yên ổn trước đó vẫn còn, vẫn trôi chảy, vẫn bình thường như không… Cũng có những cú sét đánh âm thầm, không nghe tiếng nổ, không thấy lửa, chỉ anh biết, anh bị cháy mà chỉ anh biết, lặng lẽ, vụng trộm, êm re…

Thứ Tư, 24 tháng 6, 2020

Làng Bana trong sách Người Bana ở Komtum

Làng Bana trong sách Người Bana ở Komtum

26.10.2015 

Nguyên Ngọc


Làng Bana (Bahnar) trong sách Người Bana ở Kontum của Nguyễn Kinh Chi - Nguyễn Đổng Chi 



Năm 2008 tôi có tham gia việc xuất bản sách Rừng người thượng của Henri Maitre, viết năm 1912, được coi là công trình khảo sát Tây Nguyên công phu và toàn diện nhất cho đến tận ngày nay. Sách do Viện Viễn Đông bác cổ ở Hà Nội phối hợp với Nhà xuất bản Tri thức ấn hành. Người dịch là Lưu Đình Tuân, tôi nhận phần hiệu đính và viết “Phàm lệ”. Có một Ban khoa học được thành lập để xử lý những vấn đề khoa học liên quan đến việc dịch và in sách. Chúng tôi gặp ngay một vấn đề: trong nguyên bản tiếng Pháp, sách có tên là Les jungles moi, có thể dịch là Rú mọi hay Rừng mọi. Ban khoa học cân nhắc, thấy để từ mọi ngay trên bìa sách sẽ dễ gây sốc, nên quyết định bản dịch ra tiếng Việt sẽ có tên trên bìa là Rừng người thượng; tuy nhiên bên trong sách thì giữ nguyên từ mọi đúng như nguyên bản, và sẽ nói rõ lý do trong “Phàm lệ”. Được giao giải thích điều này trong “Phàm lệ”, tôi đã viết rằng theo tôi từ mọi vốn ban đầu không hề có ý nghĩa xấu. Nó bắt nguồn từ từ tơmoi trong tiếng Bana (Bahnar), có nghĩa là khách. Tôi đã biết từ này khi sống ở vùng Bana. Cẩn thận, tôi tìm tra thêm Từ điển Bahnar - Pháp của Guilleminet; theo Guilleminet tơmoi được dịch sang tiếng Pháp có các nghĩa sau: hôte (khách), invité d’un autre village (khách được mời từ một làng khác đến), étranger (lạ, người lạ), ennemi (thù, kẻ thù), pays étranger (nước khác, ngoại quốc). Những người phương Tây đầu tiên lên Tây Nguyên là các Linh mục Thiên chúa giáo; khi bị Triều đình nhà Nguyễn truy đuổi họ tìm đường lên vùng cao nguyên miền Tây để tránh khủng bố, và truyền đạo vào người bản địa nhằm xây dựng cơ sở lâu dài. Sau nhiều nỗ lực thất bại, họ đến được vùng người Bana ở Kon Tum, lập xứ đạo Kon Tum, là xứ đạo Thiên chúa giáo đầu tiên tại đây, đến nay vẫn là xứ đạo Thiên chúa lớn nhất và quan trọng nhất ở Tây Nguyên. Bấy giờ những người Bana Kon Tum đến gặp các nhà truyền giáo thường xưng là tơmoi, là khách. Các nhà truyền giáo lại hiểu rằng đấy là họ tự giới thiệu tên tộc người của họ. Về sau dần dần tiền tố tơ bị rớt đi, còn lại moi, moi nghiễm nhiên trở thành tên gọi người bản địa. Người Pháp gọi là moi, người Việt gọi là mọi, hoàn toàn là một danh xưng. Mọi chỉ mang ý nghĩa xấu khi quan hệ giữa người Việt với người bản địa Tây Nguyên nhuốm màu sắc khinh miệt, và ghép với rợ là từ Hán Việt thành mọi rợ… Khi Rừng người thượng ra đời, đọc “Phàm lệ”, một số nhà dân tộc học ở Hà Nội bảo rằng tôi là người duy nhất giải thích nguồn gốc của từ mọi như vậy. Họ có một giả thuyết khác, theo họ mọi bắt nguồn từ từ mol trong tiếng Mường có nghĩa là người. Tôi không phải là nhà dân tộc học hay nhà ngôn ngữ học, tôi chỉ xin nêu câu hỏi: nếu mọi xuất phát từ từ mol của người Mường, một tộc người sống ở phía Bắc, thì tại sao các tộc người thiểu số miền núi như Tày, Nùng, Dao, Thái, Lô Lô, Sán Dìu, v.v. cùng sống ở phía Bắc, gần người Mường hơn nhiều, ít nhất về địa lý, không bao giờ được gọi là mọi, mà chỉ có các tộc người bản địa Tây Nguyên xa tít ở phía Nam mới mang tên mọi?

Thứ Năm, 18 tháng 6, 2020

hoa Bỉ Ngạn

Mùa hoa Bỉ Ngạn: Rực rỡ cùng lặng lẽ.

Bạn Chu Xuân Giao tả:
“Mùa hoa lại như đang rực cháy lên ở các bờ xôi ruộng mật, vào những ngày này, là hoa Bỉ Ngạn. Màu đỏ của Bỉ Ngạn. Rực rỡ. Lặng lẽ. Mà ngắm lâu từ xa, thì tự nhiên lại không thấy rực rỡ nữa, cũng không thấy lặng lẽ nữa. Tựa như thúc giục. Thế là chân liền bước nhanh nhanh.Một lúc sau, lại đi qua, nhìn nhanh, thì lại thấy rực rỡ lặng lẽ. Lặng lẽ đến rực rỡ thì đúng hơn chăng.”

Hai từ "rực rỡ và lặng lẽ" của bạn khi cảm nhận về loài hoa này thật chính xác.
Ta tìm hiểu về hoa nhé!



Loài hoa này lúc hoa nở thì không nhìn thấy lá, lúc có lá lại chẳng thể gặp hoa. Hoa và lá muôn đời chẳng thể nào gặp gỡ.

Mạn Đà La

Mạn Châu Sa

Hoa Bỉ Ngạn có hai loại là trắng và đỏ, trong đó phổ biến nhất là màu đỏ. Bỉ ngạn trắng còn được gọi là Mạn Đà La, bỉ ngạn đỏ có cái tên kiều diễm Mạn Châu Sa. Thời gian nở của loài hoa này cũng rất chính xác.