Nguyên
Ngọc, con người lãng mạn
· NGUYỄN ĐĂNG
MẠNH
· Thứ năm, 20 Tháng 9 2012 00:44
Tôi quen Nguyên Ngọc đã lâu, dễ đến hai chục
năm. Tính anh phóng khoáng, bia rượu khá. Chúng tôi bia bọt với nhau đã nhiều
lần, khi thì ở sông Đà, khi ở Thái Nguyên, khi ở Đà Nẵng, khi ở Sài Gòn – không
kể bao nhiêu lần ở Hà Nội. Ấy thế mà không hiểu sao tôi cứ cảm thấy giữa anh và
tôi có một cái gì như vẫn có một khoảng cách.
Ấy là nói về phía tôi thì thế - một thứ mặc cảm của riêng tôi thôi
– còn anh, anh có cảm thấy thế không, tôi không biết. Có lẽ vì anh theo đuổi
một cái gì rất cao, nên có những nguyên tắc sống rất nghiêm. Còn tôi thì sống
thế nào cũng xong. Có phần dễ dãi với mình. Và cũng dễ mềm lòng trước những lời
nói khéo, nói ngọt, tuy biết rằng chưa hẳn đã là chân thật. Nghĩa là sống thiếu
nguyên tắc. Cái yêu, cái ghét của anh thì khác, phân minh lắm và không dễ thay
đổi, lắm lúc dường như là cố chấp. Vừa rồi Ban Chấp hành Hội Nhà văn cấp cho
anh mấy triệu gọi là tiền bồi dưỡng sáng tác. Anh không nhận. Viết gì đã có
nhuận bút, còn tiền kia là của nhân dân, anh nghĩ thế và dứt khoát từ chối. Tôi
thì tôi nhận ngay và tiêu luôn. Đấy, cái gọi là khoảng cách giữa tôi và anh là
ở đấy chăng?
Nhưng tôi rất thích trò chuyện với anh. Anh không ném ra những
nhận xét, những ý nghĩ khôn ngoan như Nguyễn Khải. Cũng không có những phát
hiện tinh quái đời thường như Tô Hoài. Chuyện của anh thường là những trải
nghiệm khác thường, dữ dội, gấy ấn tượng mạnh. Tôi cứ nhớ mãi cái chuyện nấu
cháo ba lần với một cục xương voi hồi anh công tác tuyên huấn sống cheo leo
trên một sườn núi cao, phía Tây Trà Mi, gọi là “Nóc ông Nây”. Đời sống quá cơ
cực, không mấy khi được thấy hạt gạo. Có một anh kiếm ở đâu về được ba lon gạo,
nhưng thủ trưởng không cho ăn, bắt treo lên để dành, phòng khi tuyệt hết lương
thực. Nhưng cứ gạ mãi rồi thủ trưởng cũng xiêu lòng, mỗi lần cho lấy một lon
nấu cháo. Họ cử người tìm đến một buôn làng gần đó, đổi muối lấy một cục xương
voi đem về cho vào nồi cháo. Ăn xong vất quách ra ngoài rừng. Nhưng đến khi
được ăn lon gạo thứ hai, bí quá, lại ra nhặt cục xương lăn lóc ngoài rừng về
nấu lại. Cứ thế, nấu đi nấu lại đến ba lần! Nếu còn gạo nữa, có khi vẫn tiếp
tục.
Anh còn một chuyện nữa cũng ác liệt: Chuyện gùi muối leo dốc. Ấy
là cái dốc gọi là dốc Vượt trên đường từ Quảng Nam lên Tây Nguyên. Cái dốc cao
cứ ngược mãi lên thăm thẳm, leo suốt ngày mới tới đỉnh – đúng là “dốc Quảng
Nam, gan cộng sản”. Gùi muối, nặng, lại là gùi tre, nó cọ vào lưng, muối trộn
mồ hôi thấm ra, xót ơi là xót. Mệt và xót mà không dám dừng lại. Leo miết được
lên đến đỉnh dốc, sướng quá, anh nào anh nấy, cứ thế cả gùi cả người vật ngửa
luôn ra để thở một chập cho đã. Ấy thế mà cứ như có ma ám, có anh loanh quanh
thế nào, khi tụt xuống, lại tụt đúng cái dốc mình vừa leo lên. Chà, khác gì cái
chuyện anh chàng Sisyphe trong thần thoại Hi Lạp chịu khổ hình phải lăn một
tảng đá lên một cái dốc núi, nhưng cứ gần tới đỉnh, tảng đá lại lăn trở lại, cứ
thế suốt đời! Chuyện của Nguyên Ngọc là thế: sự thật mà cứ như huyền thoại vậy.
Mà hình như ký ức của anh nó cứ lưu giữ toàn những cảnh tượng không bình
thường, như thuộc thế giới tiền sử, thậm chí cái thuở mới khai thiên lập địa,
cuộc sống hoang dã hồng hoang. Vừa rồi, Nguyên Ngọc còn kể cho tôi nghe một
chuyện này nữa cũng thật kỳ lạ: Cách đây khoảng mười năm gì đó anh có tới một
hòn đảo, gọi là Hòn Nghệ, thuộc huyện Kiên Hải, tỉnh Kiên Giang. Đảo rất nhỏ,
dân số chỉ độ một trăm người. Nhưng mà đủ mặt tứ xứ giang hồ, thuộc nhiều phe
phái chính trị khác nhau, thậm chí đối địch. Mỗi người có một lý do riêng để
phải trốn tránh ra cái hòn đảo heo hút này. Nhưng họ đều vứt bỏ quá khứ, chung
sống với nhau.
Lâu nay tôi vẫn nghĩ, tâm hồn mỗi nhà văn có một sức hút riêng đối
với ngoại cảnh. Dường như tâm hồn Nguyên Ngọc bắt rất nhạy những gì dữ dằn,
quyết liệt và có một vẻ hoang dã như sự sống thời nguyên thủy. Tính cách Quảng
Nam chăng? Cũng có thể. Nhưng tôi còn muốn giải thích bằng một lý do khác nữa:
ảnh hưởng của cái môi trường sống của anh thời thơ ấu ở Hội An. Nguyên Ngọc
sinh ra ở Đà Nẵng. Nhưng từ hai tuổi đến mười bảy tuổi thì sống ở Hội An.
Nguyễn Tuân đã viết một bài ký rất hay về cái vùng Hội An, Cửa Đại rất cổ xưa
này, đúng vào cái thời thơ ấu của Nguyên Ngọc: Những ngôi nhà cổ. Những tòa
thành cổ. Chiếc xe ngựa cũ kỹ, giống như xe thổ mộ Nam Kỳ, lọc cọc, lạch cạch
lăn bánh chầm chậm “một cách rất nên thơ” trên những con đường đất đỏ. Nguyễn Tuân
gọi là “hình bóng sự vận tải của một thời Trung cổ”. Một cái bến nước gợi nhớ
cái bến nước nào đó trong thơ Đỗ Phủ - chỉ thiếu có tiếng dồn châm đập
lụa: Thành Bạch dồn châm bóng ác tà.
Bãi bể Cửa Đại thì vắng vẻ, hoang sơ, chưa hề nhiễm mùi đô thị. Tạo
vật được kính trọng đến cả trong tiếng động. Ngoài bản đàn muôn thuở của sóng
biển và gió ngàn thông, tịnh không có tiếng nhạc hỗn xược của khiêu vũ hay cái
ồn ào vô lễ của tiệc tùng các khách sạn… Và con người cũng có một cái vẻ gì cổ
cổ. Dường như ta có thể bắt gặp ở đây một cậu Bằng Lang trong Tuyết
hồng lệ sử, một ông tù trưởng của một Xứ Mường nào, một vẻ đẹp trinh trắng,
thánh thiện của Thánh mẫu Maria… Và những cô gái thì hồn nhiên ngây thơ và hiền
lành biết bao – Nguyễn Tuân ví họ như những củ hoài sơn trong thang thuốc Bắc…
Đấy, tôi ngờ rằng cái không khí cổ xưa và hoang sơ đó đã thấm sâu vào tâm hồn
Nguyên Ngọc. Từ đó, năm mười bảy tuổi, cuộc kháng chiến lại đưa anh thẳng lên
Tây Nguyên, vào tận núi Ngọc Linh chót vót, sống với những người dân Bahnar, Ê
đê, Gia Rai… liền mấy năm trời…
* * *
Nếu nói Nguyễn Tuân suốt đời săn tìm cái đẹp, thì cũng có thể nói
Nguyên Ngọc suốt đời săn tìm những tính cách anh hùng, những sự tích anh hùng.
Thật ra trong ba mươi năm chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ, hầu như cả nền văn
học của chúng ta đều tập trung vào một đối tượng ấy. Nhưng anh hùng của Nguyên
Ngọc vẫn có nét riêng: dũng mãnh khác thường. Những con người thép, thẳng băng
nhọn hoắt, như mũi chông, như ngọn dáo, như mầm xà nu đâm thẳng lên trời… Nhưng
lại có một cái gì hoang dại. Trái tim chứa chất căm thù ngùn ngụt, nhưng tâm
hồn trong suốt và hết sức hồn nhiên như những con người ở thời thơ ấu xa xăm
của nhân loại. Cho nên Nguyên Ngọc đến với Tây Nguyên gọi là ngẫu nhiên cũng
đúng, mà gọi là tất nhiên cũng phải. Ngòi bút ấy, tâm hồn ấy nhất thiết phải
tìm lên Tây Nguyên để gặp những Đinh Núp, cụ Mết, những Tnú, những cô Mai, cô
Dít, cũng như sau này, nhất thiết phải tìm lên Hà Giang Mèo Vạc để gặp những
ông Cắm, những Y Kơbin, những Vàng Thị Mỹ, v.v… Những con người như con đẻ của
núi rừng, sừng sững và lầm lì như một quả núi, như gốc cây to, như con thú
rừng… Nhưng tâm hồn họ thì sục sôi dào dạt như chứa đựng bao nhiêu dòng suối,
bao nhiêu con thác. Họ ít nói mà thường đột ngột cất tiếng hát. Tâm hồn dào dạt
như thế thì phải hát lên. Hát mới thực là tiếng nói của họ - tiếng nói từ đáy
lòng. Họ nói bằng hát. Hát không được thì hú lên như sói rừng. Và lãng mạn thì
hơn tất cả những tâm hồn lãng mạn nhất. Họ là anh Pồn mù, trong tưởng tượng và
mơ ước có con chim vàng anh xinh đẹp cất cánh bay xa; họ là Y Yơn, người hát
rong giữa rừng Tây Nguyên lang thang, phiêu lưu như ngọn gió; họ là Sùng Chóa
Vàng “một chiến sĩ thiện chiến bậc nhất và một tâm hồn nghệ sĩ đến tận máu
thịt. Vô cùng dũng cảm và vô cùng tự do”; họ là Thào Mỹ, dù đau khổ tột
cùng cũng không muốn chết chỉ vì say mê đất nước mình: “núi sông đẹp đến
thế, chết sao nổi” (Trở lại Mèo Vạc) v.v…
Nhưng Nguyên Ngọc đâu chỉ viết về Tây Nguyên hay Hà Giang. Anh
viết cả về vùng xuôi, vùng biển. Không phải ngẫu nhiên mà Nguyên Ngọc cũng hay
viết, và viết rất hay về những con người vùng biển. Vì người của biển cả hay
của núi rừng thì cũng đều là con đẻ của thiên nhiên hùng vĩ, dữ dội, hoang dại
và chứa đầy bí mật. Ấy là Chiện, cô gái ngồi trên đỉnh hòn Sẹo nhìn ra biển xa
với “đôi mắt rất lạ có thể nhìn biển rực lửa mặt trời hàng giờ không
chớp”. Ấy là Khảm, “vô tư như gió biển”, nhưng khi
biết có người con gái đang chờ mình thì trong lòng “đột ngột rùng rùng
một đám cháy lớn” (Chiện). Ấy là Sáu Thùy, cô gái miền Tây “ngon
lành hừng hực”, đánh giặc dữ dằn, yêu thương dữ dội đến mức cuồng
nhiệt, liều lĩnh (Có một đường mòn trên biển Đông), v.v…
Nguyên Ngọc đã viết rất say, rất hào hứng về những con người như
thế. Văn của anh cuốn hút người ta, không phải chỉ bởi cách trần thuật bằng
chính giọng điệu của nhân vật của anh, với thứ ngôn ngữ hết sức hồn nhiên ngây
thơ, đầy những hình ảnh ví von rất ngộ nghĩnh, mà còn bằng cả tâm hồn rất Tây
Nguyên, cũng rất Hà Giang – Mèo Vạc. Nguyên Ngọc đích thực là một trí thức của núi
rừng, là nhà văn hóa của Tây Nguyên, là nghệ sĩ thực thụ của những miền Rẻo
cao đất nước…
Vâng, Nguyễn Tuân suốt đời đi tìm cái đẹp, còn Nguyên Ngọc thì
suốt đời đi tìm cái hùng – cũng là cái đẹp trong cảm quan thẩm mỹ của anh. Đối
với Nguyên Ngọc, đây là một nhu cầu tự thân, một sự thôi thúc bên trong, thôi
thúc của máu. Cho nên, đối với anh, đấy không là chuyện văn chương mà còn là
chuyện lẽ sống. Không phải vì văn chương mà anh tìm đến những anh hùng, mà vì
người anh hùng mà anh thấy cần đến văn chương. Vì chỉ có cách ấy mới có thể hy
vọng làm cho bất tử những con người mà anh gọi là “đẹp như ánh mặt trời”, sáng
như những “ngôi sao của thời đại” (Chị Thuận), v.v…
Nhưng anh hùng của anh nhất thiết phải tìm trên vùng núi cao, thật
cao kia. Nơi những con người như những vì sao ngước nhìn từ đỉnh núi “hình
như gần trời hơn, nên (…) to hơn, lóng lánh hơn và trong sạch hơn” (Kỷ niệm Tây
Nguyên). Nếu không thì phải tìm ở vùng biển xa, lần theo dấu vết vô
hình trên mặt biển câm lặng và phẳng lì, những con người hi sinh âm thầm, lặng
lẽ để tạo nên những chiến công huyền thoại, rồi, hoặc vĩnh viễn nằm lại dưới
biển sâu, hoặc tiếp tục sống bình thường giản dị, vô tư giữa cái ào ạt của ngày
hôm nay, trong dòng đời náo nhiệt đua chen (Có một đường mòn trên biển Đông)…
Đúng thế, không phải vì văn chương mà Nguyên Ngọc tìm đến những
anh hùng, mà vì người anh hùng mà anh thấy cần đến văn chương. Cho nên ta mới
hiểu được vì sao, sao năm 1986, khi hầu hết những cây bút khác đều chuyển đề
tài, chuyển cả tư tưởng và cách viết, thì Nguyên Ngọc vẫn hướng về đối tượng
cũ, vẫn viết về anh hùng, với giọng văn càng sôi nổi hơn, với những hình ảnh
càng chói lọi hơn, lãng mạn hơn. Anh tiếp tục nối vào cái danh sách những anh
hùng được nhà nước tuyên dương phong tặng, một danh sách những anh hùng vô danh
đang sống lẩn khuất đâu đó trong sương mù đỉnh núi hay tản mạn ở những vùng
biển xa…
* * *
Tôi quen biết Nguyên Ngọc đã lâu, nhưng chưa bao giờ nghiên cứu
Nguyên Ngọc. Những nhà văn “tiền chiến” là cả một khối tư liệu lớn, tôi cứ húc
mãi vào mà chưa khai phá hết. Về văn Nguyên Ngọc, thú thật, tôi chỉ độc có đọc
hai truyện Đất nước đứng lên và Rừng xà nu. Mà
đọc không phải để nghiên cứu, nên cũng chẳng nghiền ngẫm gì nhiều. Vì thế tôi
cứ đinh ninh, đến thời đổi mới này, anh không thể viết được nữa. Anh chỉ có thể
đổi mới bằng lý luận, bằng lý thuyết mới, và bằng cách ủng hộ những xu hướng
sáng tác mới. Cái tạng của anh chuyên viết chuyện anh hùng, với ngôn ngữ sử thi
tráng lệ hào hùng và cảm hứng lãng mạn sôi nổi, như Đất nước đứng lên, như Rừng
xà nu, bây giờ viết sao được nữa! Mà chính anh hẳn cũng biết như thế,
nên anh xoay ra đọc lý thuyết, dịch lý thuyết, làm lý thuyết. Anh dịch M.
Kundura, anh dịch J. P. Sartre, anh tổng kết truyện ngắn, truyện dài, xây dựng
đề cương, báo cáo này nọ… Vâng, tôi cứ nghĩ thế về con đường nghệ thuật của
Nguyên Ngọc mà tôi cho là đã bế tắc.
Té ra tôi đã lầm, lầm to: anh vẫn viết, vẫn viết về người anh
hùng, vẫn viết bằng cái văn ấy, bằng cái giọng ấy, bằng cái cảm hứng lãng mạn
sôi nổi ấy.
Nhưng anh cũng phải có gì đổi mới chứ! Vâng, anh có đổi mới, nhưng
vẫn cái mạch văn ấy. Những anh hùng của anh xưa kia là những chiến sĩ gang
thép, căm thù ngùn ngụt “Chúng nó đã cầm súng, mình phải cầm giáo!”.
Lời cụ Mết hô vang rừng núi Tây Nguyên. Ấy là thời đồng khởi. Văn Nguyên Ngọc
hồi ấy, nói chung là văn đồng khởi, là Đất nước đứng lên!, là lời
truyền hịch Đường chúng ta đi, là Rừng xà nu ưỡn
tấm ngực lớn bảo vệ buôn làng dưới tầm đạn địch, v.v…
Giờ đây cũng vẫn những người anh hùng kiên cường sắt thép ấy,
nhưng họ còn là những con người của tình yêu, đẹp và anh hùng trong tình yêu.
Có lẽ ngày xưa kinh nghiệm cộng đồng đã chi phối anh mạnh mẽ, nên có phần lấn
át kinh nghiệm cá nhân của anh chăng? Bây giờ, không bị ràng buộc nữa, anh thả
sức viết bằng kinh nghiệm cá nhân của mình, bằng quan niệm cá nhân của mình về
người anh hùng. Ở những cây bút khác tình yêu chỉ là cái phía hoa lá tươi mát
của người anh hùng. Ở Nguyên Ngọc tình yêu cũng anh hùng. Nhân vật của Nguyên
Ngọc không chỉ anh hùng trong chiến trận mà còn anh hùng trong tình yêu nữa.
Như Sùng Chóa Vàng, như Tư Thắng, như Sáu Thùy… Ôi tình yêu của Sáu Thùy thì
phải gọi là tình yêu kiên cường, tình yêu huyền thoại. Cô gái nơi đất mũi Cà
Mau ấy, quyết chí đi tìm người yêu dù phải lặn lội hàng nghìn cây số dưới bom
đạn địch để mong gặp một người mà cô không biết ở tận phương trời nào trên miền
Bắc cũng đang ngùn ngụt lửa chiến tranh. Đúng như Nguyên Ngọc nói: “Một
cuộc đi vô cùng liều lĩnh, vô cùng phiêu lưu, hầu như chẳng chút “lôgich” nào
cả. Nếu có thì chỉ là một thứ “lôgich”: lôgich kỳ lạ của tình yêu”. Nhưng
tôi cho rằng phải nói thêm: đó là lôgich kỳ lạ của thứ tình yêu hết sức dữ dội,
hết sức lãng mạn và anh hùng. Và cũng hết sức nghệ sĩ nữa.
Một điều rất lạ nữa là người anh hùng trong những tác phẩm của
Nguyên Ngọc dường như lại không lý tưởng, không tuyệt vời hoàn mỹ bằng người
anh hùng trong bài ký của anh, nghĩa là những tác phẩm không hư cấu, chỉ ghi
chép người thật việc thật. Vàng Thị Mỹ trong truyện ngắn Mùa hoa thuốc
phiện cuối cùng quả là đẹp. Nhưng Thào Mỹ trong bài ký Trở lại
Mèo Vạc còn đẹp hơn nhiều: “Một vẻ đẹp rất lạ, cuốn hút vô
cùng, khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những
bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Săm
Pun…”.
Tôi không được biết cô Thào Mỹ “người thực việc thực” như thế nào.
Nhưng người ấy trong con mắt, trong ký ức của Nguyên Ngọc thì đúng là một vẻ
đẹp lý tưởng, như tiên nữ giáng trần. Tôi dám ngờ rằng, đấy là người thực nhìn
qua con mắt tâm hồn tưởng tượng đầy lãng mạn của Nguyên Ngọc. Nguyên Ngọc không
phải chỉ viết truyện sử thi, viết văn lãng mạn. Anh thật sự sống trong không
khí sử thi và mang hẳn trong máu mình chất lãng mạn. Cho nên anh đã lặn lội 200
cây số Hà Nội – Tuyên Quang, rồi lại 400 cây số leo ngược mấy cái Cổng Trời để
tìm đến người con gái đã ghi vào cuốn sổ tay của mình “Mùa hoa thuốc phiện
cuối cùng ơi”[1]. Cho nên anh đã quyết tâm trở lại Mường Hon,
cái làng cao nhất treo lơ lửng trên sườn núi Ngọc Linh quanh năm mây phủ. Lại
đi vào giữa mùa mưa! Gần ba mươi năm trước, ở cái làng cheo leo ấy, có một cô
gái Tơ Trá xinh đẹp đã mớm nước bắp cho anh trong những ngày anh hôn mê vì một
trận sốt ác tính. Hình ảnh cô gái “có cặp mắt đen lạ lùng, âu yếm và thương yêu
lạ lùng” và “đôi môi vừa mát vừa ấm, vừa mặn vừa ngọt” cứ chập chờn, hư thực
qua những cơn tỉnh cơn mê của anh. Nhưng rồi địch đánh tới. Người ta khiêng anh
đi cho thoát khỏi vòng vây của giặc. Cô gái ấy là ai? Có còn ở cái làng cheo
leo ấy nữa không? Anh phải đi thôi. Phải trở lại bằng được thôi, dù mưa như
thác đổ, đường thăm thẳm dốc, cua tay áo liên tiếp, bùn đất be bét đỏ như máu,
một bên thì vách núi thẳng đứng, một bên thì vực sâu đen ngòm…
Nguyên Ngọc kể rằng, trước khi anh lên đường từ huyện lỵ Dakglei,
anh bí thư huyện trố mắt hỏi:
- Ông điên hả? Đi Mường Hon mùa mày, bộ muốn chết à?
Anh cười:
- Muốn chết thì chưa, nhưng điên thì có.
Đúng là điên rồ. Lãng mạn đến điên rồ!
Chuyện đời thật lắm sự tình cờ. Đến Mường Hon, mò mẫm thế nào,
Nguyên Ngọc lại vào đúng ngay ngôi nhà của cô gái năm xưa. Nhưng cô đã lấy
chồng và có ba con. Và oái oăm thay, chồng cô lại là người lính miền xuôi ở lại
Mường Hon sau ngày giải phóng miền Nam, được cô gái Tơ Trá xinh đẹp trong cõi
mộng của Nguyên Ngọc tưởng lầm là người mà cô đã từng mớm nước ngô năm nào với
biết bao mến thương âu yếm.
Biết được chuyện, Nguyên Ngọc vội vàng đi ngay, dù lần này phải bỏ
xe lại, lội bộ trên sườn Ngọc Linh dựng đứng, dưới mưa rừng tầm tã – một lẫn
nữa lại “như một thằng điên”.
Nguyên Ngọc viết: “Tôi đi như chạy trốn. Chạy trốn điều gì, tôi
cũng không biết”.
Có thể là anh phải chạy trốn những phiền nhiễu do sự nhầm lẫn kia.
Nhưng chắc chắn anh còn phải chạy trốn người đàn bà con mọn đã từng có sự nhầm
lẫn oái oăm oan uổng nọ để bảo vệ giấc mơ của mình, bảo vệ toàn vẹn hình ảnh cô
gái lý tưởng trong kỷ niệm tuyệt vời ba mươi năm trước[1].
Vâng, Nguyên Ngọc là con người của lý tưởng, lý tưởng tuyệt đối.
Anh không chịu để cho lý tưởng bị mờ ám, dù chỉ là một chút.
Ta hiểu vì sao anh đã đốt phăng Đất Quảng tập II,
khi biết một nguyên mẫu nhân vật anh hùng của anh đã có lúc dao động đầu hàng
giặc.
Ta cũng hiểu vì sao truyện người thực việc thực của Nguyên Ngọc
lại lý tưởng hơn cả những tác phẩm hư cấu của anh.
Vì anh viết bằng lý tưởng, vì anh nhìn đời qua lý tưởng.
Ta cũng hiểu vì sao con người của anh cứ thẳng băng, thẳng băng
đến cố chấp.
Quan Hoa, cuối thu Canh Thìn
Sửa lần cuối vào Thứ năm, 21 Tháng 2 2013
21:59
Tác giả có thể nhầm: 2012 là năm Nhâm Thìn
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét