Bộ ảnh hiếm ngày xưa của lăng vua Minh Mạng (Hiếu lăng)
– Lăng có cảnh quan đẹp nhất ở đế đô Huế
Lăng vua Minh Mạng (Hiếu
Lăng) là nơi yên nghỉ của vua Minh Mạng (1791-1841), vị vua thứ hai của triều
Nguyễn. Công trình này được đánh giá là lăng vua triều Nguyễn có cảnh quan đẹp
nhất.
Trong 13 đời vua triều
Nguyễn, thời vua Minh Mạng trị vì đất nước được đánh giá là giai đoạn thịnh vượng,
hùng mạnh nhất. Trong hai mươi năm trị vì, vua đã thay đổi nhiều việc, từ đối nội,
đối ngoại cho đến những cải cách kinh tế chính trị xã hội. Với 142 người con,
vua Minh Mạng được xem là vị vua có nhiều con nhất sử Việt.
Năm 1820, vua Minh Mạng
lên ngôi, chỉ 7 năm sau đó nhà vua đã tính tới việc xây lăng tẩm cho chính
mình.
Quan Địa lý Lê Văn Đức đã
chọn được một cuộc đất tốt ở địa phận núi Cẩm Kê, gần ngã ba Bằng Lãng, nơi hợp
lưu của hai nguồn Tả Trạch và Hữu Trạch để tạo thành con sông Hương thơ mộng,
cách trung tâm thành phố Huế 12 km.
Địa điểm đã được đề xuất từ
năm 1827, và phải mất ròng rã gần 14 năm cân nhắc, chọn lựa, đến năm 1840, nhà
vua mới quyết định cho xây dựng lăng tẩm của mình ở nơi này.
Vua Minh Mạng cho đổi tên núi Cẩm Kê (thuộc ấp An Bằng, huyện Hương Trà) thành Hiếu Sơn và gọi tên lăng là Hiếu lăng. Đích thân nhà vua xem xét, phê chuẩn họa đồ thiết kế do các quan Bùi Công Huyên, Trương Đăng Quế và Giám thành vệ dâng lên.
Tháng 4 năm 1840, công cuộc
kiến thiết Hiếu lăng bắt đầu. Vua sai các quan Lê Đăng Danh, Nguyễn Trung Mậu
và Lý Văn Phức điều khiển lính và thợ thuyền lên đây đào hồ đắp La thành. Tháng
8 năm 1840, nhà vua lên kiểm tra thấy công việc đào hồ Trừng Minh không vừa ý
nên giáng chức các quan trông coi và đình chỉ công việc.
Một tháng sau, công việc vừa
được tiếp tục thì vua Minh Mạng lâm bệnh qua đời vào ngày 28 tháng Chạp năm
Canh Tý (tức 20-01-1841) ở tuổi 50.
Vua Thiệu Trị lên nối
ngôi, chỉ một tháng sau (tháng 2-1841) đã sai các quan đại thần Tạ Quang Cự, Hà
Duy Phiên, Nguyễn Tri Phương chỉ huy gần 10.000 lính và thợ gấp rút thi công tiếp
công trình theo đúng họa đồ của vua cha để lại.
Ngày 20-8-1841, thi hài
vua Minh Mạng được đưa vào an táng ở Bửu Thành, nhưng công việc xây lăng mãi đến
đầu năm 1843 mới hoàn tất. Từ một vùng núi đồi hoang vu đã hình thành một khu
lăng tẩm uy nghiêm, được đánh giá là vừa rực rỡ về kiến trúc, vừa hài hòa với
thiên nhiên lại vừa sâu sắc bởi giá trị tư tưởng.
Chi tiết về kiến trúc lăng vua Minh Mạng – Hiếu lăng
Lăng Minh Mạng có bố cục
kiến trúc cân bằng đối xứng, xung quanh một trục kiến trúc là đường thần đạo,
xuyên qua một loạt các hạng mục công trình gồm: cửa chính, sân chầu, nhà bia,
sân tế, Hiển Đức môn, điện Sùng Ân (thờ vua Minh Mạng và Hoàng hậu), hồ Trừng
Minh, Minh Lâu, hồ Tân Nguyệt (trăng non), cổng tam quan Quang Minh Chính Trực,
Trung Đạo kiều và cuối cùng là Bửu thành (mộ vua Minh Mạng).
Cổng tam quan Quang Minh Chính Trực, Trung Đạo kiều dẫn ra Bửu thành
Lăng có diện tích 18 ha
(nhưng diện tích cấm địa quanh lăng là 475 ha), xung quanh lăng có La thành bao
bọc. Cửa chính của lăng tên là Đại Hồng môn, là cửa chỉ để rước linh cữu của
vua nhập lăng.
Bửu thành – nơi an táng vua Minh Mạng
Bửu thành là một quả đồi
thông hình tròn, bao quanh bởi tường thành, bên trong, sâu bên dưới là mộ vua. Ở
chính giữa hồ Tân Nguyệt có một cây cầu mang tên Trung Đạo kiều, nối Minh Lâu với
Bửu thành và đường dạo quanh lăng.
Phía sau Bửu thành là rừng
thông xanh thẳm, đem lại một cảm giác u tịch.
Trên mặt cắt kiến trúc dọc
theo đường thần đạo, các công trình cao thấp theo một nhịp điệu vần luật nhất
quán, âm dương xen kẽ, tạo nên nét đẹp riêng cho công trình kiến trúc lăng tẩm
này. Bố cục kiến trúc đăng đối của các hạng mục chính trong lăng đem lại cho
lăng một vẻ uy nghiêm cần có của công trình lăng mộ. Tuy vậy, ở ngoài rìa, men
theo con đường dạo quanh co vòng quanh hai hồ nước và viền xung quanh lăng, xen
lẫn với cây cối có các công trình kiến trúc nhỏ dùng để nghỉ chân ngắm cảnh
như: đình Điếu Ngư, gác Nghênh Phong, hiên Tuần Lộc, sở Quan Lan, Tạ Hư Hoài…
làm cho toàn bộ quần thể lăng uy nghiêm nhưng vẫn hài hòa với thiên nhiên và
duyên dáng tráng lệ.
Trong khoảng diện tích được
giới hạn bởi vòng La thành dài 1.750 m là một quần thể kiến trúc gồm cung điện,
lâu đài, đình tạ được bố trí đăng đối trên một trục dọc theo đường Thần đạo dài
700 m, bắt đầu từ Đại Hồng Môn đến chân La thành sau mộ vua. Hình thể lăng tựa
dáng một người nằm nghỉ trong tư thế thoải mái, đầu gối lên núi Kim Phụng, chân
duỗi ra ngã ba sông ở trước mặt, hai nửa hồ Trừng Minh như đôi cánh tay buông
xuôi tự nhiên.
Từ ngoài vào trong, các
công trình được phân bố trên ba trục song song với nhau mà Thần đạo là trục
trung tâm. Xen giữa những công trình kiến trúc là hồ nước ngát hương sen và những
quả đồi phủ mượt bóng thông, tạo nên một phong cảnh vừa hữu tình vừa ngoạn mục.
Sau đây là những hình ảnh chi tiết bên trong lăng vua Minh Mạng:
Mở đầu Thần đạo là Đại Hồng
Môn, cổng chính vào lăng, xây bằng vôi gạch, cao hơn 9 m, rộng 12 m. Cổng này
có ba lối đi với 24 lá mái lô nhô cao thấp và các đồ án trang trí cá chép hóa rồng,
long vân… được coi là tiêu biểu của loại cổng tam quan đời Nguyễn. Cổng chỉ mở
một lần để đưa quan tài của vua vào trong lăng, sau đó được đóng kín, ra vào phải
qua hai cổng phụ là Tả Hồng Môn và Hữu Hồng Môn.
Đại Hồng Môn
Sau Đại Hồng Môn là Bái
Đình, lát gạch Bát Tràng (sân rộng 45 x 45 m), hai bên có hai hàng tượng quan
văn võ, voi ngựa bằng đá đứng chầu.
Hai bên sân Bái Đình là hàng tượng quan văn võ, voi ngựa đứng chầu. Những tượng người và voi ngựa ở đây được điêu khắc theo lối tả chân, gần giống với thực tế
Một vài hình ảnh trên Bái Đình: (chụp năm 1991)
Cuối sân là Bi Đình tọa lạc trên Phụng Thần Sơn, bên trong có bia “Thánh đức thần công” bằng đá Thanh ghi bài văn bia của vua Thiệu Trị viết về tiểu sử và công đức của vua cha.
Bi đình (nhà bia) ở Bái Đình, phía sau Đại Hồng Môn
Một khoảng sân rộng tiếp
theo chia làm bốn bậc lớn nhằm giảm bớt cảm giác choáng ngợp của con người trước
sự mênh mông của kiến trúc, đó là sân triều lễ.
Nữ sinh Đồng Khánh đang đi từ sân chầu lên nhà bia ở Bái Đình
Bi Đình được xây dựng theo lối kiến trúc truyền thống của triều Nguyễn.
Bộ mái lợp gồm có hai tầng chứa đựng yếu tố âm dương. Trên đỉnh trang trí bình
hồ lô và hình rồng
Bi Đình, phía xa là Hiển Đức Môn dẫn vô điện Sùng Ân
Bên trái là Bi Đình, nhìn về phía Hiển Đức Môn
Sau khi đi qua Bái Đình
(sân chầu, nhà bia, sân tế) là tới Hiển Đức Môn – mở đầu của khu vực tẩm điện,
được giới hạn trong một lớp thành hình vuông biểu trưng mặt đất (từ ý niệm trời
tròn, đất vuông).
Hiển Đức Môn, bên trong là điện Sùng Ân
Mặt trong của Hiển Đức Môn, nhìn từ điện Sùng Ân
Cửa Hiển Đức là cổng chính của khu vực tẩm điện. Đây là cánh cổng thứ
hai nằm trên trục Thần đạo, được giới hạn bởi khung thành hình vuông biểu tượng
cho mặt đất. Cửa Hiển Đức được thiết kế như một tòa nhà 2 tầng, 3 gian không có
chái nằm trên một mặt nền cao hơn 1m so với tầng sân chầu, xung quanh được bó vỉa
đá thanh và lợp ngoái ống tráng men. Toàn bộ công trình được chạm nổi và sơn
son thếp vàng
Đi qua Hiển Đức Môn là tới
trung tâm của lăng: điện Sùng Ân – nơi thờ tự vua Minh Mạng, xung quanh có Tả,
Hữu Phối Điện (trước) và Tả, Hữu Tùng Phòng (sau) như những vệ tinh chung
quanh.
Trong điện thờ bài vị của
vua và bà Tá Thiên Nhân Hoàng hậu.
Đi qua điện Sùng Ân để vào
khu vực tẩm điện phải qua một cổng nhỏ gọi là Hoằng Trạch Môn, mở ra một không
gian của hoa lá và mây nước phía sau.
Tất cả những công trình mang tính hiện thực dường như dừng lại ở khu vực tẩm điện. Từ đây, bắt đầu một thế giới mới đầy thư nhàn, siêu thoát và vô biên.
Minh Lâu nghĩa là lầu
sáng, nơi nhà vua suy tư vào những đêm hè trăng thanh gió mát, là nơi đi về của
linh hồn tiên đế, là dấu chấm vuông kết thúc một thế giới hữu hạn; là “bộ ngực
kiêu hãnh” của “con người” được ví bởi hình dáng của khu lăng.
Minh Lâu là sự thể hiện
cách lý giải về vũ trụ và nhân sinh quan của người xưa. Tòa nhà này hình vuông,
hai tầng, tám mái, là một biểu trưng của triết học phương Đông.
Hai bên Minh Lâu, về phía
sau là hai trụ biểu uy nghi dựng trên Bình Sơn và Thành Sơn mang ý nghĩa nhà
vua đã “bình thành công đức” trước khi về cõi vĩnh hằng.
Phía sau cùng của khu lăng
Minh Mạng là một cái hồ hình trăng non tên là Tân Nguyệt ôm lấy Bửu Thành.
Cầu Trung Đạo nối Minh Lâu ra Bửu Thành
Đây là hình ảnh của thế giới
vô biên. Hồ hình trăng non ví như yếu tố “Âm” bao bọc, che chở cho yếu tố
“Dương” là Bửu Thành – biểu tượng của mặt trời. Kết cấu kiến trúc này thể hiện
quan niệm của cổ nhân về sự biến hóa ra muôn vật. Đó là nhân tố tác thành vũ trụ.
Cầu Thông Minh Chính Trực
bắc ngang hồ Tân Nguyệt có 33 bậc tầng cấp dẫn vào nơi yên nghỉ của nhà vua, nằm
giữa tâm một quả đồi mang tên Khải Trạch Sơn, được giới hạn bởi Bửu Thành hình
tròn.
Hai đầu cầu vào khu vực mộ vua Minh Mạng là hai Vũ môn với các cột trụ bằng
đồng, trang trí rồng uống lượn từ trên xuống, đỉnh cột đặt búp sen bằng pháp
lam. Phía trên phường môn có các lớp liên ba, chia ô hộc trang trí với các tấm
pháp lam và các hàng chữ Hán” Chính đại quang minh” và” Thông minh chính trực”
Hình tròn của Bửu thành nằm
giữa những vòng tròn đồng tâm biểu trưng, được tạo nên từ hồ Tân Nguyệt, La
Thành, núi non và đường chân trời như muốn thể hiện khát vọng ôm choàng Trái Đất
và ước muốn làm bá chủ vũ trụ của vị vua quá cố.
Hai bên trục chính của
lăng có nhiều công trình phụ đối xứng nhau từng cặp một. Hiện nay, các công
trình như Tả Tùng Phòng trên Tịnh Sơn; Hữu Tùng Phòng trên Ý Sơn; Tuần Lộc Hiên
trên Đức Hóa Sơn; Linh Phượng Các trên Đạo Thống Sơn; Truy Tư Trai trên Phúc Ấm
Sơn; Hư Hoài Tạ trên đảo Trấn Thủy đều không còn tồn tại.
Bên cạnh hàng loạt các công trình kiến trúc có giá trị nghệ thuật và thẩm mỹ cao còn có gần 600 ô chữ chạm khắc các bài thơ trên Bi Đình, Hiển Đức Môn, điện Sùng Ân và Minh Lâu cũng là những tuyệt tác vô giá. Đó là một “bảo tàng thơ” chọn lọc của nền thi ca Việt Nam đầu thế kỷ 19.
Một vài hình ảnh trên đường tới lăng Minh Mạng năm 1991:
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét