Người đàn bà ghen Hạ Kim Quế
Anh Nguyễn
Ông Nhật Chiêu từng phát biểu: “Nghệ
thuật của Hồng Lâu Mộng trác tuyệt ở chỗ nó tự nhiên như chính
đời sống đến mức gần như “phi nghệ thuật.” Hầu như không có dấu vết của công
phu và nhân tạo. Vậy mà hễ chạm vào nó là mê: Hồng mê.” Đã trót ghiền Hồng
Lâu Mộng thì lâu lâu lại phải giở ra đỡ nhớ, mà không giở ra thì thôi,
đã giở là cắm đầu đọc không nghỉ. Người trong giới yêu Hồng Lâu Mộng vì
nó như kho tàng vô tận, mỗi lần đọc lại “cảm” hơn một ít. Trải nghiệm cuộc đời
càng nhiều thì lại càng dễ khóc cười với tác phẩm. Trong bài này tôi muốn phân
tích nhân vật phụ Hạ Kim Quế để tìm hiểu một hiện tượng quen thuộc: sự ghen
tuông của phụ nữ.
Ai chưa từng trải qua ghen tuông? Kể cả
không trực tiếp dính dáng chắc cũng đã lọt tai vài câu chuyện đánh ghen đầu
làng cuối phố. Nhưng phải nói thật là chị em bây giờ còn sướng hơn phụ nữ ngày
xưa nhiều. Chế độ phụ hệ ngày xưa cho phép đàn ông năm thê bảy thiếp, thấy bông
hoa mới và đẹp thì vô tư mang về nhà cắm vào lọ. Văn hóa Trung Quốc lại giáo dục
phụ nữ tốt “không ghen tuông,” càng khiến nhà trong lửa cháy bừng bừng. Hoàng đế
của Lưu Tống là Minh Đế thậm chí còn ra lệnh cho Ngu Thông Chi viết cuốn Đố phụ
ký (ghi chép về sự đố kị của phụ nữ) để “giáo huấn” phụ nữ.
Ở đời, hễ cảm xúc tự nhiên mà bị can
thiệp, ức chế thì lại càng méo mó biến dạng. Thế nên phụ nữ Trung Quốc hồi xưa
không ghen thì thôi, đã ghen thì thật là kinh khủng. Ngoài các thủ đoạn triệt hạ
đối thủ, có người còn sẵn sàng quyết liệt lấy cái chết để phản đối. Tại sao người
ta gọi đàn bà ghen là “hũ giấm,” “giấm chua,” “uống giấm?” Tất cả bắt nguồn từ
việc ông Nhiệm Khôi được vua Đường Thái Tôn thưởng cho hai cô hầu xinh, vợ tức
quá không chịu. Vua gọi vào bảo nếu cứ khăng khăng cay cú thì uống rượu độc chết
đi. Bà ta không ngần ngừ uống ngay. Hóa ra không phải rượu độc mà chỉ là giấm.
Nhà vua sợ quá đành phải lấy lại hai nàng hầu. Quả thật đối với hạng người đến
chết còn không sợ thì không thể lấy cái chết ra mà dọa được.
Cái ghen của đàn bà trong Hồng
Lâu Mộng biểu hiện thế nào? Hầu hết những người vợ trong truyện đều tỏ
ra an phận với chế độ một ông nhiều bà, thậm chí còn “dễ thương” đến mức nài nỉ
đi hỏi vợ bé cho chồng như Hình phu nhân hỏi Uyên Ương cho Giả Xá!
Hình phu nhân thuyết phục Uyên Ương làm vợ bé cho chồng mình trong chương “Người liều lĩnh khó thoát việc liều lĩnh, gái Uyên Ương thề dứt bạn uyên ương”. (Toàn bộ hình trong bài lấy từ Internet)
Đối với những gia đình quý tộc, quan lại,
chuyện đàn ông nạp thiếp là đương nhiên, không có mới kì quặc. Ngay Lâm Đại Ngọc
cũng chỉ ghen tuông với Tiết Bảo Thoa, Sử Tương Vân vì họ là đối thủ tranh ngôi
vị “vợ cả” của nàng, chứ với Tập Nhân – nàng hầu của Bảo Ngọc, nàng không ghen.
Một khi đã sinh ra trong nền văn hóa trọng nam khinh nữ thì tư tưởng chồng chúa
vợ tôi đã ngấm vào máu, lại thêm nhiều cặp vợ chồng kết hôn chỉ để củng cố địa
vị và quan hệ giữa hai dòng họ chứ tình yêu nào có, nên điều này không đáng ngạc
nhiên cho lắm.
Trong cả Hồng Lâu Mộng chỉ
có hai bà ghen thật sự với các cô vợ bé, ghen đến mức phát tiết thành hành động
trả thù: Hạ Kim Quế và Vương Hy Phượng. Tôi bàn về Hạ Kim Quế trước bởi ghen
tuông chỉ là một khía cạnh trong tính cách của Phượng ớt. Ngoài ra, Phượng ớt
còn nhiều tội “to” hơn, đáng bàn kĩ hơn ở bài sau. Hạ Kim Quế ngược lại là một
bức tranh biếm họa điển hình, một nhân vật mà tính cách chủ đạo là ghen giống
như nữ thần ghen tuông Invidia của La Mã vậy.
Tranh vẽ minh họa Hạ Kim Quế
Trước tiên xin nói sơ qua về nhân vật
Hạ Kim Quế. Cô nàng này là tiểu thư của nhà bán hoa quế họ Hạ, nhà giàu lại có
nhan sắc nên “tôn mình như Bồ Tát, coi người khác như bùn”. Là vợ cả Tiết Bàn
nhưng xem chừng lại ghê gớm, hung dữ hơn cả chồng, đối xử với người dưới thì độc
ác, mẹ chồng thì hỗn láo. Vì tên của nàng ta có chữ “kim” và chữ “quế” nên hễ ai
nhắc đụng tới là đánh tập tàn nhẫn. Xin thử phân tích mà coi, hoa quế có đặc điểm
gì? Xinh xắn, thơm tho, và nở… vào mùa đông! Hoa quế mà nở mùa hè (hạ) thì nhất
định là hoa quế rởm rồi, dù có dát vàng (kim) đi chăng nữa! Tào Tuyết Cần cũng
mô tả Hạ Kim Quế “bề ngoài thì tươi đẹp như bông hoa, nhưng bên trong lại có
tính nóng nảy như sấm sét”. Cái tính xấu và giả tạo của Hạ Kim Quế vậy là được
hàm ý ngay từ cái tên. Lại để ý họ của Tiết Bàn mà xem: chữ tiết đồng âm với chữ
tuyết. Tuyết mà gặp mùa hè thì chịu sao thấu! Bảo sao “Tiết Bàn cũng không biết
làm thế nào nữa, chỉ hối hận mình chỉ vì một lúc không nghĩ kỹ, lấy phải con
yêu tinh ấy.”
Hạ Kim Quế hành hạ Hương Lăng
Hạ Kim Quế ghen với Hương Lăng, nàng hầu
của Tiết Bàn. Hương Lăng địa vị, gia cảnh đều kém Hạ Kim Quế, ghen như thế là
có lý không? Thú thực là có lý. Người Trung Quốc thường nói: thê không bằng thiếp,
thiếp không bằng tỳ (nàng hầu,) nàng hầu không bằng kỹ nữ. Đã là thê thì phải đảm
bảo bốn điều: vợ hiền, mẹ tốt, dâu thảo, nghiêm phụ. Lại phải khuyên răn chồng
lập công danh, không được quyến rũ chồng để lơ là nghiệp lớn, chậm trễ báo hiếu
cha mẹ. So với thê, vai trò của thiếp nhẹ hơn nhiều. Vì thế tình trạng các ông
chồng sủng ái thiếp hơn thê là một “vấn nạn” có thật mà thê phải đương đầu. Sự
đề phòng, dè chừng của Hạ Kim Quế với Hương Lăng còn lớn hơn bởi dĩ Hương Lăng
đã làm nàng hầu cho Tiết Bàn, chăm sóc Tiết phu nhân từ rất lâu rồi. Đoạn sau
cho thấy rõ sự thù ghét sủi tăm dưới bộ mặt tươi tỉnh của Hạ Kim Quế:
Một hôm, Kim Quế ngồi rỗi
nói chuyện phiếm với Hương Lăng, hỏi đến cha mẹ quê quán, thì Hương Lăng đều
nói đã quên mất cả. Kim Quế không bằng lòng, cho là có ý nói dối, rồi hỏi:
– Hai chữ “Hương Lăng”
ai đặt cho đấy?
– Cô Bảo đặt cho đấy.
– Ai cũng nói cô Bảo
thông, nhưng chị xem cái tên này thì thật là không thông.
– Mợ nói cô Bảo không
thông, là vì mợ chưa bàn luận với cô ấy thôi. Cứ kể ra sức học của cô ấy thì
ngay ông lớn bên phủ Giả cũng thường khen đấy.
Kim Quế nghe thấy nói thế,
ngoảnh mặt đi, bĩu môi, khịt mũi, cười nhạt nói:
– Khi hoa ấu nở có mùi
thơm đâu? Nếu bảo là hoa ấu thơm, thì các hoa thơm khác sẽ để nào chỗ nào? Thực
là rất mực không thông.
Hương Lăng nói:
– Không những hoa ấu
thơm, ngay đến lá sen, gương sen cũng đều có một mùi thơm mát. Nhưng mùi thơm ấy
không thơm bằng mùi hoa, nếu khi thanh vắng, hoặc sáng sớm hay nửa đêm, ta chịu
khó thưởng thức, thì cái mùi ấy cũng thơm mát như hoa. Ngay cả đến hoa ấu, hoa
súng, lá lau, gốc sậy, nếu được hơi mưa móc vun tưới, thì cái mùi thơm mát ấy
cũng làm cho người ta tỉnh táo nhẹ nhàng.
– Theo như cô nói, thì
hoa quế, hoa lan thơm không ra gì à?
Hương Lăng đương lúc
hăng, quên cả kiêng kỵ, thuận miệng nói luôn:
– Mùi thơm của hoa lan
hoa quế thì hoa khác không thể bì được.
Nói chưa dứt câu thì a
hoàn của Kim Quế tên là Bảo Thiềm trỏ ngay vào mặt Hương Lăng mắng:
– Cô đáng chết! Sao dám
gọi tên mợ ra?
Hương Lăng chợt nghĩ ra,
băn khoăn ngượng nghịu vội cười thưa:
– Tôi trót buột miệng,
xin mợ đừng để ý.
Kim Quế cười nói:
– Làm gì có chuyện ấy.
Cô thực cẩn thận quá. Nhưng tôi nghĩ chữ “Hương” vẫn không ổn, muốn đổi ra một
chữ khác, không biết cô có bằng lòng hay không?
Hương Lăng cười nói:
– Sao mợ lại nói thế?
Ngay thân tôi bây giờ cũng là thuộc về mợ rồi, đổi một chữ tên mà mợ lại hỏi
tôi có bằng lòng hay không? Như thế tôi đâu dám nhận. Mợ xem chữ nào hay thì đặt
tên cho tôi chữ ấy.
Kim Quế cười nhạt:
– Cô nói cũng đúng đấy,
nhưng chỉ sợ chị Bảo để bụng thôi.
Hương Lăng cười thưa:
– Mợ chưa biết, lúc trước
mua tôi về, cốt để hầu mẹ thôi, nên cô Bảo đặt cho tôi cái tên ấy. Về sau tôi
sang hầu cậu và bây giờ có mợ về đây, lại càng không dính dáng gì đến cô ấy nữa.
Vả chăng cô ấy là người hiểu đời thì việc ấy làm gì mà phải tức giận?
– Cô đã nói thế thì chữ
“hương” không ổn bằng chữ “thu”. Vì mùa thu thì củ ấu, hoả ấu mọc nhiều, như thế
chẳng có gốc tích hơn chữ “hương” hay sao?
– Thôi tôi xin nghe lời
mợ.
Từ đấy Hương Lăng đổi
tên là Thu Lăng. Bảo Thoa cũng chẳng để ý đến.
Khi đọc lướt có thể cho rằng, Hạ Kim
Quế chẳng qua bắt nạt Bảo Thoa không được nên tìm cách xỏ xiên, phủ nhận cái
tên Bảo Thoa đặt cho Hương Lăng mà thôi. Nhưng việc đổi tên đấy còn có hàm ý
khác. Hoa lăng là củ ấu, nhưng chữ “lăng” còn có nghĩa lăng mộ, kết hợp với chữ
“thu” lại càng mang ý nghĩa chết chóc, tiêu cực. Ý đồ nham hiểm của Hạ Kim Quế
muốn ám hại Hương Lăng đã được tác giả báo trước từ câu chuyện đổi tên tưởng chừng
vô thưởng vô phạt này.
Hạ Kim Quế gài cho Hương Lăng bước vào đúng lúc Tiết Bàn đang sàm sỡ Bảo Thiềm, khiến Tiết Bàn tức giận đánh đập Hương Lăng
Kế đó, Hạ Kim Quế bắt đầu kế hoạch cô
lập Hương Lăng và Tiết Bàn, cắn răng dùng Bảo Thiềm làm mồi, bụng bảo dạ sẽ “xử
lí” Bảo Thiềm sau. Hạ Kim Quế lại tự làm hình nhân thế mạng, gài tội cho Hương
Lăng, quậy tung cả nhà Tiết phu nhân. Đỉnh điểm của quá trình tranh đấu mang
hơi hướng… Byzantine này là lúc Hạ Kim Quế định quyến rũ cậu em chồng Tiết
Khoa, bị Hương Lăng vô tình phá bĩnh. Từ đấy, Hạ Kim Quế quyết chí diệt trừ
Hương Lăng bằng được.
Sự ghen tuông của Hạ Kim Quế không chỉ
tác động đến Hương Lăng, Tiết Bàn, Bảo Thiềm, Bảo Thoa, Tiết phu nhân, mà còn
gây ấn tượng mạnh mẽ cả với người ngoài cuộc: Bảo Ngọc. Trong Đại quan viên,
hay thế giới lý tưởng của Bảo Ngọc, các chị em đều phong nhã, thướt tha, đối
đãi với nhau tử tế. Theo cái lý của Bảo Ngọc, Hạ Kim Quế xinh xắn như đóa hoa, ắt
không thể cư xử như ác quỷ. Đứng trước một sự việc mà cậu ta không có khả năng
lý giải (Hạ Kim Quế là bông hoa rởm,) Bảo Ngọc rơi vào trạng thái buồn bực. Cậu
bèn tìm sự cố vấn của Vương Nhất Niêm, một lương y – lang băm khéo mồm:
Vương Nhất Niêm sợ quá
không chờ Bảo Ngọc hỏi lại, liền nói:
– Xin cậu cứ kể rõ bệnh
ra.
Bảo Ngọc nói:
– Tôi hỏi thấy có thứ
cao nào dán khỏi được bệnh ghen của đàn bà không?
Vương Nhất Niêm vỗ tay
cười nói:
– Việc ấy thì chịu thôi,
không những không có bài thuốc, mà tôi cũng không nghe ai nói đến bao giờ.
– Như thế thì thuốc cao ấy
cũng chả ra cái gì.
– Không có thuốc cao chữa
bệnh ghen, chỉ có thứ thuốc uống may ra chữa được. Nhưng phải dần dần chứ không
thể khỏi ngay được.
– Thuốc gì? Cách uống thế
nào?
Thuốc ấy gọi là thuốc
“chữa ghen”: lấy một quả lê mùa thu hạng tốt, hai đồng cân đường, một đồng cân
trần bì, ba bát nước, sắc đến khi lê chín thì được. Sáng nào cũng ăn một quả và
cứ ăn đi ăn lại mãi thì khỏi.
– Như thế chả đáng bao
nhiêu, chỉ sợ không chắc đã có công hiệu.
– Một thang không khỏi
thì uống mười thang, hôm nay không khỏi thì ngày mai uống tiếp, năm nay không
khỏi thì sang năm. Vì ba vị thuốc này đều nhuận phế khai vị, không hại đến người.
Vừa ngọt lừ, khỏi ho, lại dễ uống. Uống đến khi một trăm tuổi, thế nào người
cũng phải chết, chết rồi thì còn ghen vào đâu nữa? Bấy giờ là kiến hiệu đấy.
Bảo Ngọc và Dính Yên đều
cười và mắng:
– Thật là đồ đầu trâu bẻm
mép.
Lê mùa thu đã ngọt, sên nước đường lại
càng ngọt, dùng cái ngọt để áp chế giấm chua, thật là logic làm sao. Nhưng phải
chờ chết đi mới có công hiệu, tóm lại vòng vèo chỉ để nói rằng ghen là căn bệnh
mãn tính không có thuốc chữa! Bài thuốc chữa ghen – “liệu đố thang” đó tưởng chỉ
là một câu chuyện cười mua vui, nhưng thực tế diễn biến những hồi sau đã xảy ra
đúng y như vậy. Bệnh ghen của Hạ Kim Quế chấm dứt khi Hạ Kim Quế tìm cách đầu độc
Hương Lăng, cuối cùng lại giết chính mình. Khi Hạ Kim Quế chết, “lỗ mũi con mắt
đều chảy máu, đang vật vã giữa đất, hai tay cào bụng, hai chân giãy đành đạch”
khiến Tiết phu nhân chết khiếp. Điều tra ra, Hạ Kim Quế nấu bát canh đổ thạch
tín, định để Hương Lăng ăn, nhưng Bảo Thiềm đã vô tình đánh tráo lại, khiến Hạ
Kim Quế trở thành tự mình hại lấy mình. Người viết khéo để cho chính Hạ Kim Quế
và Bảo Thiềm – một nạn nhân kiêm đồng phạm trong “tội ghen” của Hạ Kim Quế – chịu
trách nhiệm hoàn toàn trong vụ ám sát ngược này. Nào phải thạch tín hại chết cô
ta mà chính là căn bệnh ghen tuông mới là thủ phạm vậy. Vì ghen tuông mà chết,
chết là hết ghen, thật gọn ghẽ.
Hạ Kim Quế ngộ độc thạch tín
Phân tích kĩ hơn, có thể thấy cách mô
tả có phần nghiệt ngã, khắt khe của người viết với Hạ Kim Quế đã phản ánh phần
nào tư tưởng của thời đại. Việc nạp thiếp được lễ giáo phong kiến cho phép, nên
thê thường rút về “tuyến hai,” tìm cách áp bức, hành hạ, thậm chí mưu sát thiếp
như Hạ Kim Quế. Hành động ghen tuông này đương nhiên bị giới đàn ông phản đối cật
lực, thậm chí người đàn ông thương hoa tiếc ngọc nhất trong Hồng Lâu Mộng là
Giả Bảo Ngọc cũng không thông cảm nổi. Vì thế việc Hạ Kim Quế bị đem ra làm cái
bung xung xấu xí, làm “câu chuyện cảnh giác” để khuyên phụ nữ không ghen tuông
âu cũng phù hợp với mạch tư tưởng của Hồng Lâu Mộng. Ghen chưa chắc đã là tình,
nhưng ghen chắc chắn là một sản phẩm phụ của tình, do vậy tội ghen bị trừng phạt,
suy đi tính lại, cũng là bởi tình mà ra. Hạ Kim Quế vì thế cũng có thể liệt vào
những nạn nhân chết vì tình trong Hồng Lâu Mộng. Tuy vậy, tội ghen
khiến Hạ Kim Quế phải đứng “đội sổ” trong Kim Lăng thập nhị thoa phó sách, xếp
sau hai chị em nhà họ Vưu, Uyên Ương, Bình Nhi, Trí Năng, và kẻ thù số một –
Hương Lăng.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét