Giả Thám Xuân: con phượng hoàng sinh
trong ổ quạ
Anh Nguyễn
Giả Thám Xuân – tranh minh họa trong sách Hồng Lâu Mộng
Trong số những cô gái của HồngLâu Mộng, Giả
Thám Xuân là cô gái có cá tính cứng cỏi nhất trong mười hai thoa, song vẫn giữ
được khí chất cao đẹp của một vị thiên kim tiểu thư. Cái mạnh mẽ của Thám Xuân
thật đường hoàng, hơn hẳn Vương Hy Phượng chỉ được cái khôn vặt, nham hiểm,
trên đội dưới đạp. Vương Hy Phượng cũng rất thú vị, người ta muốn ghét nàng
cũng không ghét nổi, muốn yêu nàng lại càng khó hơn, song con phượng hoàng thực
sự trong Hồng Lâu Mộng là Giả Thám Xuân. Tào Tuyết Cần dụng
công mô tả những mặt đối lập của nhân vật này, lại bày đặt những đầu mối giúp
người đọc đoán được số phận nàng.
Giả Thám Xuân là cô ba trong “Giả Phủ
Tứ Xuân”, về thứ tự nàng xếp sau Nguyên Xuân, Nghênh Xuân, trên Tích Xuân. Lần
đầu Giả Thám Xuân xuất hiện đã để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng Lâm Đại Ngọc:
Cô thứ hai, vóc dáng
tròn trặn, người dong dỏng cao, mặt trái xoan, mắt sắc, lông mày dài, nhìn ngắm
tình tứ, thanh tú khác thường, trông như thoát hẳn trần tục.
Trong bốn cô Xuân, trừ Nguyên Xuân đã
vào cung không kể, nàng là cô gái đẹp nhất, thường được xếp chung với nhóm Đại
Ngọc, Bảo Thoa, Tương Vân, Bảo Cầm. Không chỉ đẹp, Thám Xuân còn có khí độ vô
cùng đặc biệt. Thám Xuân có con mắt tinh đời, khiếu thẩm mỹ rất tốt. Những đồ vật
xa hoa nàng không coi vào đâu, ngược lại chỉ thích những thứ bình dị mà tinh xảo.
Đoạn nàng nhờ Bảo Ngọc mua đồ chơi diễn tả rất khéo điều này:
– Mấy tháng nay em có
dành dụm được mười quan tiền, anh cầm lấy, khi nào ra chơi phố, thấy có bức chữ
hay vẽ đẹp, hoặc đồ chơi xinh xắn, anh mua hộ mang về cho em.
– Thỉnh thoảng anh cũng
có đi qua các nhà, các miếu ở trong thành, ngoài thành, chẳng thấy cái gì mới lạ,
xinh xắn cả, chỉ có những đồ vàng, ngọc, đồng, sứ, và những thứ đồ cổ không có
chỗ vất; rồi đến các thứ vóc, nhiễu và các đồ ăn thức mặc thôi.
– Ai cần gì đến những thứ
ấy! Như lần trước anh mua cái lẵng hoa bằng cành liễu, hộp phấn bằng rễ trúc,
cái lồng ấp bằng đất thó, trông rất đẹp, em thích lắm. Mà chị em ai cũng thích
cả. Họ coi những thứ này như của báu, có cái nào là cướp mất cái ấy.
– Nếu em thích những cái
ấy, thì chẳng đáng mấy đồng tiền, cứ cho người nhà mang mấy quan tiền đi, sẽ
mua được hàng xe.
– Bọn người nhà biết gì?
Anh đi chọn lấy cái gì mộc mạc mà không tục, thì mua nhiều về cho em.
Thám Xuân có sở trường thư pháp. Khuê phòng của nàng được Tào lão gia miêu tả tinh tế mà vẫn phóng khoáng, thể hiện một trí tuệ mẫn tiệp, trong sáng:
Bọn Phượng Thư vào buồng
Thám Xuân, thấy các chị em đang cười đùa. Thám Xuân vốn thích rộng rãi, ba gian
nhà ở đều để thông luôn. Giữa nhà kê một cái bàn to bằng đá Đại Lý, trên bàn có
các loại bút thiếp của cái bậc danh nhân, cùng mấy chục cái nghiên báu, và các
thứ ống bút; bút cắm ở ống như rừng cây. Một bên bày cái lọ sứ Như Châu to bằng
cái đấu, cắm đầy hoa cúc trắng như thủy tinh. Phía tường bên Tây treo một bức họa
“Yên vũ đồ” của Mễ Tương Dương. Hai bên treo hai câu đối, bút tích của ông Nhan
Lỗ công: Phong lưu cảnh đượm màu mây khói, chất phác người quen thú suối rừng.
Trên án đặt một cái đỉnh lớn, trên cái giá gỗ đàn tía ở bên tả đặt một cái mâm
sứ lớn, trên mâm bày mấy chục quả phật thủ vàng tươi; trên cái giá sơn ở bên hữu
treo một cái khánh Tị Mục bằng ngọc trắng, bên cạnh treo một cái dùi nhỏ.
Khuê phòng như vậy, Giả Thám Xuân
đương nhiên là người có năng khiếu văn chương. Vẫn biết Đại Ngọc, Bảo Thoa có
tài làm thơ, nhưng phải nhờ đến Thám Xuân ra tay tập hợp, Đại Quan Viên mới có
Hải Đường thi xã. Bảo Ngọc cũng phải bất ngờ thốt lên “không ngờ em Ba phong
nhã thế.”
Các chị em mở thi xã trong Đại Quan viên
Loài cây ưa thích của Thám Xuân chính
là cây ba tiêu (cây chuối), nên nàng tự xưng là Tiêu hạ khách, phong cách đặc
biệt ấy khiến mọi người đều trầm trồ khen hay. Hình tượng cây chuối trong thơ
ca cổ điển Trung Quốc vừa có khí độ quân tử, lại có duyên ngầm kín đáo, rất hợp
với Thám Xuân. Những bức họa mô tả nàng do vậy thường vẽ Thám Xuân tay cầm
sách, có khi ngồi cạnh tàu ba tiêu. Chính Thám Xuân đã từng tuyên bố nếu nàng
sinh ra là đàn ông, hẳn đã tự lập được công danh rạng rỡ.
Vì những nét đẹp kể trên, Thám Xuân còn được mệnh danh là “cô Ba hoa hồng”. Đầy tớ của Phượng Thư đã giải thích nguyên do như sau: “Hoa hồng vừa đỏ vừa thơm, ai mà chẳng phải yêu, có điều lắm gai thôi.” Quả vậy, không những trong số các cô gái ở vườn Đại Quan nàng ghê gớm nhất, mà ngay cả những người hầu dày dạn và các bà phu nhân cũng phải dè chừng Thám Xuân. Khi Phượng Thư bị ốm, Thám Xuân thay nàng trông nom việc nhà cửa. Bọn người hầu tưởng có thể qua mặt cô tiểu thư non nớt nên định nhờn mặt, xong bị nàng sửa đâu ra đấy, không dám ngo ngoe. Thái độ của các nô tài, nô tì trong phủ Giả đối với Phượng Thư có bảy phần sợ sệt, ba phần căm ghét, còn đối với Thám Xuân là bảy phần kính trọng, ba phần sợ sệt. Phượng Thư cũng biết tính nàng khác hẳn mọi người nên hết sức tôn trọng, không dám khiến nàng mếch lòng. Một lần các bà già đi khắp vườn Đại Quan tra xét, lục rương hòm a hoàn để truy tìm một vật cấm. Vợ Vương Thiện Bảo là một bà già ngu xuẩn, nghĩ Thám Xuân là cô gái yếu đuối nên có ý coi thường, định làm nhục nàng để lên mặt với bọn người dưới. Lập tức bà ta bị đòn đau:
Mụ cho Thám Xuân chỉ giận
một mình Phượng Thư thôi, không can gì đến mụ, nên muốn nhân đó làm bộ, liền đi
lên trước mọi người, kéo vạt áo Thám Xuân, cố ý giơ lên một cái cười hì hì nói:
– Ngay trong mình cô tôi
cũng khám cả rồi, chẳng thấy gì cả.
Phượng Thư thấy mụ làm
thế vội nói:
– Già đi thôi, đừng giở
trò rồ dại nữa.
Chưa dứt lời thì nghe “bốp”
một tiếng, vợ Vương Thiện Bảo bị Thám Xuân tát một cái vào mặt. Thám Xuân nổi
giận, trỏ vào vợ Vương Thiện Bảo hỏi:
– Mày là hạng gì dám nắm
lấy áo tao. Chẳng qua tao nể mặt bà, thấy mày cũng đã có tuổi, nên mới gọi mày
là già, mày lại chó cậy chủ nhà, càng ngày càng bậy, dám lên mặt với tao à! Mày
cứ tưởng tao cũng dễ tính như cô mày, mặc cho chúng bay khinh rẻ, mày nghĩ thế
là nhầm rồi!
Giả Thám Xuân tát vợ Vương Thiện Bảo
Tính cách Thám Xuân cương cường như vậy
có một phần rất lớn là do hoàn cảnh xuất thân của nàng. Thám Xuân là em gái của
Bảo Ngọc, nhưng chỉ cùng cha. Mẹ Bảo Ngọc là Vương phu nhân, vợ cả của Giả
Chính. Mẹ đẻ Thám Xuân là dì Triệu, vợ bé. Theo tôn ti trật tự của xã hội phong
kiến, không những con gái không bằng con trai mà con vợ bé cũng không bằng con
vợ cả. Có nhiều trường hợp thê “cướp” con trai của thiếp, thiếp cũng đành nuốt
nước mắt chấp nhận. Kể cả con của thiếp nhận thê làm mẹ, chỉ coi thiếp như người
hầu kẻ hạ, thiếp cũng phải chịu. Nhưng dì Triệu lại là người đàn bà ti tiện, xấu
xa, luôn bày kế hãm hại Bảo Ngọc, ghét cả Thám Xuân, nên sự thông cảm của người
đọc dành cho bà ta hầu như rất ít. Những hành vi, lời nói tục tĩu của dì Triệu
gây cho Thám Xuân không ít tức giận và xấu hổ. Nàng đẹp, thông minh, được Giả mẫu
yêu thương, nhưng sự tôn trọng mọi người dành cho nàng luôn bị đe dọa bởi bà mẹ
đẻ địa vị thấp kém, lại hay gây chuyện. Bởi tinh thần ức chế nên nàng khó tính,
chua cay, hay nói lời cay đắng. Theo như lời thằng Hưng nói, “Đáng tiếc là cô ấy
lại không phải bà Hai đẻ ra, thực là ‘phượng hoàng đẻ trong tổ quạ’”, thật là
nhận xét chuẩn xác. Dì Triệu cũng tự ý thức được điều đó nên khi Thám Xuân sắp
đi lấy chồng, bà ta liền nói kháy:
Dì Triệu vừa nghĩ vừa chạy
đến bên Thám Xuân mừng cho cô ta, và nói:
– Cô ơi! Cô là người sắp
bay cao rồi. Về nhà chú rể tất nhiên là tốt hơn ở đây, chắc cô cũng bằng lòng.
Tôi sinh ra cô bấy lâu, chưa hề nhờ được gì, dù cho tôi có bảy phần xấu, cũng
còn ba phần tốt, đừng có đi rồi cô bỏ quên ngay tôi.
Thám Xuân nghe nói chẳng
có nghĩa lý gì cả, nên chỉ cúi đầu làm việc, không nói nửa lời.
Trong mắt dì Triệu, Thám Xuân là con
phượng hoàng sắp bay khỏi cái tổ quạ, khiến cho bà ta vừa hậm hực, vừa nhẹ
nhõm. Song số phận của Thám Xuân không chỉ gắn với hình ảnh chim phượng, mà còn
cả cái diều nữa. Trong truyện, cái diều xuất hiện ba lần để ám thị tương lai của
nàng. Lần thứ nhất là trong sổ tiền định ở Thái Hư ảo cảnh:
Mặt sau lại vẽ hai người
thả diều, một vùng bể lớn, một cái thuyền lớn, trong thuyền có một cô gái bưng mặt
khóc. Sau bức họa có bốn câu:
Chí cao tài giỏi có ai
bì,
Gặp lúc nhà suy, vận
cũng suy,
Nhớ tiếc thanh xuân ra bến
khóc.
Gió đông nghìn dặm mộng
xa đi.
Hai người thả diều trong tranh ứng vào
Giả Chính và Vương phu nhân – cha và mẹ cả của Thám Xuân. Việc cho Thám Xuân đi
lấy chồng xa chính là quyết định của họ. Đây là lá số tiền định chính thức của
nàng.
.
Lần thứ hai, ở hội thi đố đèn:
Giả Chính lại xem câu đố
của Thám Xuân:
Trẻ con ngửa mặt nhìn trời,
Thanh minh là tiết dong
chơi hợp thì.
Mỏng manh một sợi du ti,
Biệt ly đừng có trách gì
gió đông.
(Đố một đồ chơi)
Giả Chính nói:
– Đó là cái diều.
Lúc đó, Giả Chính lo buồn vì những câu
đố đèn do các chị em đặt ra đều báo hiệu việc không lành. Quả vậy, Nguyên Xuân
đố cái pháo nổ tan tành, về sau chết trẻ, Tích Xuân đố cái đèn đại hải treo cửa
Phật, cuối cùng xuất gia đi tu. Thám Xuân đố cái diều, số phận nàng là phải rời
khỏi quê hương.
Lần thứ ba, ở lần các chị em chơi thả
diều. Sự ám thị lần này được diễn tả rất thơ mộng. Những lần đọc trước tôi đều
bỏ qua đoạn này, bây giờ mới thấy dụng ý của tác giả:
Thám Xuân đương định cắt
dây cái diều phượng hoàng của mình, chợt nhìn thấy một cái diều phượng hoàng
đang bay lên trời, liền nói:
– Không biết cái kia của
ai?
Mọi người đều nói:
– Cô cứ cắt cái của cô
đi, xem nó quấn lại với nhau thế nào?
Nói xong, thấy cái diều
phượng hoàng này dần dần bay sát lại chập vào cái diều phượng hoàng kia. Mọi
người đương định rút dây lại, thấy cái diều kia cũng rút dây. Hai cái đương quấn
với nhau, lại thấy một cái diều thật to, có chữ “Hỷ” long lanh, có cả sáo vang
lên như tiếng chuông trên lưng chừng trời, bay dần sát lại. Mọi người nói:
– Để cho cái này quấn
vào, hãy hượm kéo về. Cả ba cái quấn vào nhau mới thích.
Quả nhiên cái diều chữ
“Hỷ” quấn vào hai diều phượng hoàng. Ba cái cứ đảo tít mù, đều đứt cả dây rồi
vù vù bay đi cả. Mọi người đứng xem vỗ tay cười:
– Thú thật! Không biết cái diều chữ “Hỷ” là của nhà ai, lại đâm ngay vào?
Bảo Ngọc thả diều cùng các tiểu thư trong cung
Đoạn văn ngắn nhưng ý nghĩa hàm súc thật
tuyệt diệu. Cái diều phượng hoàng của Thám Xuân là sự kết hợp cả hai biểu tượng
gắn với nàng: chim phượng và chiếc diều. Tác giả lại cho một chiếc diều lạ từ
đâu bay tới, kèm thêm chữ “Hỷ,” ba diều cuốn vào nhau rồi bay đi biệt tăm,
chính ngụ ý rằng Thám Xuân sẽ kết hôn với người phương xa, theo chồng đi mất.
Đám cưới là đại hỷ, chim phượng (trống) và chim hoàng (mái) thì biểu tượng cho
đôi lứa truyền thống, ví dụ như khúc Phượng Cầu Hoàng của Tư
Mã Tương Như.
Ở hồi sáu mươi ba, Thám Xuân lại rút
được thẻ hoa hạnh, “Ai rút được thẻ này, tất lấy được chồng sang.” Số phận của
Thám Xuân vậy là chắc chắn. Ở cuối sách, nàng được gả vào một gia đình quan chức
ở miền biển xa, được đối xử rất tử tế.
Bi kịch của Thám Xuân cũng nhè nhẹ
thôi, chỉ là phải xa gia đình, không được cốt nhục sum vầy. Khúc “Hồng Lâu Mộng”
tương ứng với nàng như sau:
PHÂN CỐT NHỤC (Cốt nhục
phân ly)
Đường xa mưa gió một
chèo,
Cửa nhà, ruột thịt thôi
đều bỏ qua.
Con đành lỗi với mẹ cha,
Khóc thương chỉ thiệt
thân già đấy thôi.
Cùng thông số đã định rồi,
Hợp tan âu cũng duyên trời
chi đây,
Phân chia hai ngả từ
nay,
Dám mong giữ được ngày
ngày bình yên,
Con đi xin chớ lo phiền.
Tào Tuyết Cần viết 80 hồi đầu Hồng Lâu Mộng, 40 hồi sau ai chấp bút vẫn còn là vấn đề tranh cãi. Do đó nhiều nhà Hồng học cho rằng kết thúc này quá tích cực theo kiểu “happy ending,” không hợp với mạch truyện. Nhưng dựa trên những “lá số tiền định” trên, kết cục của Thám Xuân có thể nói là rất chính xác và đúng với ý đồ của Tào Tuyết Cần.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét