IV. CÁC SÔNG THUỘC VÙNG THANH - NGHỆ - TĨNH:
1. Tại Thanh Hóa:
- Sông Càn thuộc hệ thống Sông Hồng.
- Sông Mã, Sông Bưởi, Sông Chu, Sông Cầu Chày, Sông Lèn thuộc hệ thống Sông Mã.
- Các sông khác tại Thanh Hoá: Sông Nhà Lê, Sông Yên (Thanh Hóa).
Di tích đài tưởng niệm kênh Nhà Lê ở Nghệ An năm 2009 |
1.1. Sông Nhà Lê:
- Sông Nhà Lê (hay Kênh Nhà Lê) là một hệ thống gồm nhiều sông nhân tạo, chúng được đào mới hoặc khơi vét từ các triều đại phong kiến nhà Tiền Lê, Hậu Lê và trong kháng chiến chống Mỹ, nối từ Ninh Bình - Thanh Hóa - Nghệ An và Hà Tĩnh.
- Hệ thống các tuyến sông này hiện vẫn được gọi là sông Nhà Lê.Kênh Nhà Lê có tổng chiều dài 500 km hiện mang nhiều tên địa phương như:
Âu cầu Hội - cửa Thần Phù trên sông Nhà Lê ở Yên Mô, Ninh Bình |
+ Kênh Nhà Lê ở Ninh Bình được gọi là sông Bút, sông Cái Cách.
+ Kênh Nhà Lê ở Nghệ An gồm các dòng sau: Kênh Mơ - nối liền sông Hoàng Mai và sông Thơi. Kênh Dâu - nối sông Thơi với sông Hàu. Kênh Mi Giang - nối sông Thơi với sông Bùng. Kênh Sắt - nối sông Bùng với sông Cấm. Kênh Gai - Kênh Chính Đích - sông Vinh nối sông Cấm với sông Lam.
- Trước thế kỷ X đường bộ Thanh Hóa đã hình thành để nối liền với Bắc Bộ, nhưng nó chưa đóng vai trò quan trọng, hệ thống giao thông thuỷ từ trung tâm của quận Giao Chỉ đến quận Cửu Chân - Châu Ái vẫn đóng vai trò quan trọng nhất. Từ sông Hồng vào sông Phủ Lý rồi sông Đáy, sông Vân Sàng vùng Ninh Bình đến cửa Thần Phù vào Thanh Hoá.
- Năm 981, Lê Hoàn lên ngôi hoàng đế, kinh đô vẫn tiếp tục đóng ở Hoa Lư. Lê Đại Hành thi hành nhiều biện pháp tích cực để thúc đẩy kinh tế, củng cố quốc phòng và phát triển, với sự kiện mùa xuân 987, vua lần đầu tiên cày ruộng tịch điền ở Đọi Sơn. Một công trình kết hợp để phát triển kinh tế với quốc phòng là: Công trình đào sông từ Đồng Cổ đến Bà Hoà.
- Đồng Cổ nằm ở hữu ngạn sông Mã (Yên Thọ, Yên Định, Thanh Hoá). Sông Bà Hoà ở phía cực nam tỉnh Thanh Hoá (xã Tân Trường, Tĩnh Gia), giáp huyện Quỳnh Lưu, Nghệ An đổ ra cửa Lạch Bạng. Như vậy, Lê Đại Hành đã cho tiến hành đào sông nối sông Mã ở bắc Thanh Hoá với sông Bà Hoà ở nam Thanh Hoá- bắc Nghệ An. Lê Hoàn đã tận dụng những chi lưu nhỏ của các sông Mã, sông Cầu Chày, sông Chu, sông Hoàng, sông Yên... khơi sâu, nắn thẳng và đào một số đoạn cần thiết để hình thành một tuyến giao thông thuỷ nội địa thuận tiện từ bắc đến nam Thanh Hoá. Đây là con đường giao thông thuỷ nội địa đầu tiên của Việt Nam. Con đường đó đã đóng góp không nhỏ vào sự nghiệp bảo vệ vững chắc và mở mang bờ cõi phía nam và còn thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội Thanh Hoá trong suốt tiến trình đi lên của lịch sử dân tộc.
- Năm "Quý Mão (1003), mười năm sau khi đào sông từ Đồng Cổ đến Bà Hoà, Lê Đại Hành đi Hoan Châu (Nghệ An) sai đào kênh Đa Cái”. Đó là tuyến nối kênh Sắt ở bắc Nghệ An với sông Lam. Như vậy, từ vùng sông Mã (Thanh Hoá) đến vùng sông Lam (Nghệ An) ngoài tuyến đường bộ và đường biển có một tuyến đường thuỷ nội địa an toàn, thuận tiện.
- Những con kênh đào đó đã góp công không nhỏ giúp cho Lê Đại Hành, Lê Long Đĩnh ra quân dẹp các cuộc nổi dậy ở Thanh Hoá trong các năm 999, 1001, 1005. Trong cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, những dòng sông đào từ Yên Mô - Nga Sơn đến Tĩnh Gia lại trở thành tuyến vận chuyển nhân tài vật lực của cả miền bắc vào miền Nam. Chính vì vậy mà các sông đào trên đất Thanh Hoá có từ thời Lê Đại Hành luôn được nạo vét, tu bổ.
- Lê Đại Hành là vị vua đầu tiên của nhà nước độc lập tự chủ tổ chức đào sông. Sự nghiệp mở đầu vĩ đại đó của thời Tiền Lê đã trở thành phương châm hành động của các thời Lý, Trần, Lê, Nguyễn sau này:
+ Năm 1438, Lê Thái Tông tiếp tục cho đào các kênh ở Thanh Hoá và Ninh Bình.
+ Năm 1445, Lê Nhân Tông sai các quan đốc thúc quân lính đào các kênh ở lộ Thanh Hoá và Nghệ An.
+ Năm 1744, vua Lê Hiển Tông tiếp tục cho khơi kênh từ Thanh Hoá vào Nghệ An.
Sông Yên, đoạn chảy qua huyện Nông Cống |
1.2. Sông Yên (Thanh Hóa):
- Sông Yên (còn gọi là sông Mực) là một trong những dòng sông lớn ở tỉnh Thanh Hóa. Sông bắt nguồn từ Bình Lương (huyện Như Xuân) chảy qua các huyện Như Thanh, Nông Cống, Quảng Xương và đổ ra biển Đông tại cửa Lạch Ghép ở giữa hai huyện Quảng Xương và Tĩnh Gia. Sông dài 94,2 km, trong đó có 50 km chảy qua vùng rừng núi và hơn 40 km chảy qua vùng đồng bằng. Diện tích lưu vực sông Yên là 1.996 km². Sông Yên có 4 chi lưu chính là:
- Sông Nhơm (dài 66,9 km), sông Hoàng (81 km), sông Thị Long (50,4 km) và sông Lý.
- Trong bốn chi lưu của sông Yên thì sông Lý là một trong những công trình thủy lợi được đào từ cuối đời Lê và đầu đời Nguyễn nhằm cung cấp một nguồn nước đầy đủ cho hoạt động sản xuất của người dân vùng đồng bằng hạ lưu của sông Yên. Người ta còn gọi đoạn hạ lưu của con sông này là Sông Ghép, gắn liền với chiếc cầu Ghép nối liền hai thôn Nam Châu (Xã Hải Châu) của huyện Tĩnh Gia và hai xã Ngọc Trà và Quảng Trung của Huyện Quảng Xương trên tuyến quốc lộ 1A, nơi đã từng chứng kiến những đợt bom của đế quốc Mỹ trong hai lần mở rộng phá hoại miền Bắc nước ta. Tại đoạn chuẩn bị đổ ra biển Đông ở Lạch Ghép, giữa dòng sông trước đây còn lưu giữ hai xác máy bay của Mỹ bị bắn rơi tại đây. Chỗ đó ngày nay dòng sông tạo thành một vùng cù lao chia đôi dòng sông Yên trược khi hợp lại và đổ ra biển Đông.
1.3. Kênh Nga Sơn: Kênh Nga Sơn từ Ngã ba Chế Thôn đến Điện Hộ.
1.4. Kênh De: Sông De Thuộc huyện Hậu Lộc,Thanh Hoá.
1.5. Sông Bút Sơn: Sông Bút Sơn hay Sông Tào Xuyên hoặc Sông Trường (Tào) ở huyện Hoằng Hoá, tỉnh Thanh Hoá.
1.6. Lạch Hới, Lạch Bạng, Lạch Trường, Sông Lý (Quảng Xương), Kênh Choán (Hoằng Hóa), kênh Sao Sa (Nga Sơn).
2. Tại Nghệ An:
- Sông Chu thuộc hệ thống Sông Mã.
- Sông Lam, Sông Hiếu thuộc hệ thống Sông Lam.
2.1. Sông Đào: Ở huyện Đô Lương, Nghệ An hiện có 2 con Sông Đào và đều được hòan thành trong thời kỳ người Pháp còn đô hộ Đông Dương.
- Sông Đào thứ nhất được người dân Đô Lương, Yên Thành đào đắp lấy. Sông nằm trong cụm công trình thủy lợi Bắc Nghệ An, được hoàn thành năm 1936 do hoàng thân Xupanuvong làm Kĩ sư trưởng. Sông bắt nguồn tại Bara Đô Lương, kết thúc tại huyện Yên Thành có nhiệm vụ cung cấp nước cho các huyện Đô Lương, Yên Thành, Diễn Châu và Quỳnh Lưu của tỉnh Nghệ An. Sông Đào cùng với Bara Đô Lương là một trong những dấu ấn của người Pháp tại việt Nam trong giai đoạn xâm chiếm 1858 - 1945. con Sông Đào này là nguồn cung cấp nước tưới cho khoảng 33.000ha ruộng vườn, nước sinh hoạt và điều hòa không khí, góp phần thoát lũ và giảm tải đường bộ cho các huyện Nam Đàn, Hưng Nguyên, Nghi Lộc, thành phố Vinh, thị xã Cửa Lò.
- Sông Đào thứ hai là con sông nhỏ, ngắn hơn và nằm hoàn toàn trên đia phận xã Nam Sơn của huyện Đô Lương và được làm sau khi người Pháp đã xây Bara chắn ngang dòng Sông Lam ở đọan xã Đặng Sơn như nói ở trên. Con sông này nối thượng nguồn và hạ nguồn của đọan Sông Lam đọan chảy hình vòng tròn ôm lấy các xã Bắc Sơn, Đặng Sơn và 1 phần của xã Nam Sơn, và là đường đi tắt của thuyền, bè lưu thông trên Sông Lam do nhanh hơn và cũng để tránh cái Bara chắn ngang trên dòng Sông Lam. Do đọan cuối của con Sông Đào này đi qua thung lũng nằm giữa hai hòn núi nhỏ là hòn Cóc (núi nhỏ dáng con Cóc ngồi) và hòn Lả (ngày xưa thường có ánh lửa lập lòe trên núi về ban đêm) nên người Pháp cho xây 1 cài vòm (vòm Cóc) chui qua thung lũng để thuyền bè lưu thông dễ dàng.
2.2. Sông Hoàng Mai: Sông Hoàng Mai bắt nguồn trên đầu dãy Trường Sơn, chảy qua huyện Quỳnh Lưu của xứ Nghệ rồi đổ ra biển Đông qua cửa Lạch Cờn.
3. Tại Hà Tĩnh:
- Sông Lam, Sông La,Sông Ngàn Phố,Sông Ngàn Sâu,Sông Nghèn thuộc hệ thống Sông Lam.
- Sông Nhà Lê.
- Các Sông khác của Hà Tĩnh: Sông Rào Cái, Sông Hạ Vàng.
Hồ Kẻ Gỗ tại làng Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) bên sông Rào Cái. |
3.1. Sông Rào Cái:
- Sông Rào Cái (hay Sông Ngàn Mọ) là một trong những con sông lớn của tỉnh Hà Tĩnh. Sông bắt nguồn từ vùng núi Cúc Thảo ở phía Đông của huyện Cẩm Xuyên-tỉnh Hà Tĩnh, chảy qua huyện Cẩm Xuyên, huyện Thạch Hà và đổ ra biển Đông ở cửa Sót ở Đông Bắc huyện Thạch Hà. Sông tạo thành ranh giới tự nhiên giữa Cẩm Xuyên với Thạch Hà và giữa Thạch Hà với TP Hà Tĩnh.
- Từ năm 1976, người ta tiến hành xây dựng công trình thủy lợi hồ Kẻ Gỗ tại làng Kẻ Gỗ (xã Cẩm Mỹ, huyện Cẩm Xuyên) bên sông Rào Cái.
- Chiều dài sông là 74 km, nhưng tính từ cửa sông đến trạm thủy văn Kẻ Gỗ là 29,4 km, đến tuyến đập chính là 29 km.
3.2. Sông Hạ Vàng: Sông Hạ Vàng là một con sông nhỏ tại tỉnh Hà Tĩnh. Sông được bắt nguồn từ cầu Hộ Độ, xã Hộ Độ, huyện Thạch Hà, nơi giao nhau giữa sông Nghèn và sông Hộ Độ và đổ ra biển Đông tại cửa Sót thuộc xã Thạch Kim, Thạch Hà. Sông có chiều dài khoảng 12km, lòng sông rộng, đoạn rộng nhất khoảng 2km là tuyến đường thủy duy nhất từ thành phố Hà Tĩnh ra biển Đông.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét