Thứ Tư, 16 tháng 11, 2022

TÀO THÁO TRUYỆN (Phần I)

 

  

Tào Tháo


NGỤY THƯ QUYỂN 1 – Vũ Đế Kỷ

TÀO THÁO TRUYỆN  (Phần I)

Thái Tổ Vũ Hoàng Đế người Tiêu Quận nước Bái. Họ Tào, húy Tháo, tự Mạnh Đức, vốn dòng dõi Tướng Quốc nhà Hán là Tào Tham.


Tào Man truyện chép: Thái Tổ có tên sơ sinh là Cát Lợi, tên khi bé là A Man.


Ngụy Thư của Vương Trầm chép: (họ Tào) vốn gốc Hoàng Đế. Vào đời Cao Dương, người con của Lục Chung tên là An được ban họ Tào. Khi Châu Vũ Vương đánh Ân, bắt đầu triều Châu, phong cho Tào Hiệp đất Chu. Vào thời Xuân Thu, có tham dự minh hội(1), đến thời Chiến Quốc, bị nước Sở diệt. Con cháu ly tán, vài người dời nhà đến đất Bái. Khi Hán Cao Tổ nổi lên, Tào Tham nhờ công được phong Bình Dương Hầu, con cháu tập tước, vài lần bị dứt nhưng đều được tái lập cho đến ngày nay(2) ngôi vị tại Dong thành.


Thời Hoàn Đế, Tào Đằng được dùng làm Trung Thường Thị Đại Trường Thu, phong Phí Đình Hầu.


Tục Hán Thư của Tư-mã Bưu chép: cha Đằng là Tiết, tự Nguyên Vĩ, có tiết hạnh nhiều người khen. Có lần người hàng xóm mất lợn giống như con lợn của Tiết. Hắn bèn đoạt lấy nhưng Tiết không giận. Sau đó, con lợn của hắn tự về nhà, người hàng xóm xấu hổ đem lợn trả và tạ Tiết, Tiết chỉ cười nhận lại lợn. Vì thế, được mọi người khen ngợi. Người con trưởng tự Bá Hưng, kế Trọng Hưng, rồi Thúc Hưng. Đằng, tự Quý Hưng(3), từ bé vào cung làm Hoàng Môn Lang. Năm đầu Vĩnh Ninh, Đặng Thái Hậu xuống chiếu sai quan Hoàng Môn Lệnh tuyển trong số Hoàng Môn người nào tuổi tác, tính tình thích hợp để cùng học với Thái Tử. Qua đó, Đằng được chọn. Thái Tử yêu thích Đằng và thường ban Đằng quà rượu hơn hẳn kẻ khác. Đến khi Thái Tử lên ngôi, tức Thuận Đế, cho Đằng làm Tiểu Hoàng Môn, rồi thăng đến Trung Thường Thị Đại Trường Thu. Đằng giữ chức này hơn 30 năm, trãi 4 đời vua, trước nay chưa ai được vậy. Đằng thích tiến cử hiền tài và không bôi nhọ ai. Trong số được Đằng tiến cử, từ Trần Lưu có Ngu Phóng, Biện Thiều, Nam Dương có Diên Cố, Trương Ôn, Hoằng Nông có Trương Hoán, Dĩnh Xuyên có Đường Khê, thảy đều cầm chức lớn. Đằng cũng không vì thế khoe khoang. Sau, Thái-thú Thục Quận gởi thư riêng cho Đằng bị Thứ-sử Ích Châu Chủng Cảo bắt được. Cảo dâng biểu xin bãi chức Đằng vì Đằng có liên lạc với các quan bên ngoài. Hoàng Đế đáp: "Thư ấy từ bên ngoài gởi vào, có phải do Đằng thảo đâu? Đằng vô tội." Nên biểu của Cảo bị bỏ qua. Đằng cũng không vì chuyện ấy kết thù oán, vẫn khen ngợi tiết hạnh Cảo như thường. Sau Cảo làm đến Tư Đồ, có nói với mọi người rằng: "Tôi được ngày hôm nay nhờ Tào Thường thị". Những việc khác Đằng làm cũng tương tự thế. Khi Hoàn đế lên ngôi, vì Đằng là tôi tiên triều, lòng trung hiếu của Đằng được tôn vinh, rồi phong làm Phí Đình Hầu. Năm Thái Hòa thứ 3(4), truy tôn Đằng làm Cao Hoàng Đế.


Con Đằng là Tung nối tước, làm đến Thái Úy, nhưng không ai biết nguồn tích của Tung ra sao(5). Tung sinh ra Thái Tổ.


Tục Hán Thư: Tung tự Cự Cao, tính đôn hậu, ai cũng tường lòng trung hiếu. Ban đầu làm Tư Lệ Hiệu Úy, rồi Linh Đế thăng lên làm Đại Tư Nông, Đại Hồng Lô, rồi thay Thôi Liệt làm Thái Úy(6). Hoàng Sơ năm đầu, truy tôn Tung làm Thái Hoàng Đế. Tào Man truyện của người Ngô và Thế Ngữ của Quách Ban cùng chép: Tung là con dòng họ Hạ Hầu và là em bố Hạ Hầu Đôn. Nên Thái Tổ và Đôn là anh em họ.


Thái Tổ khi bé tuy nhanh trí, nhưng ham chơi, lêu lổng, không màng đến sự nghiệp. Mọi người vì thế không cho Thái Tổ sẽ nên tích sự gì.


Tào Man truyện chép: Thái Tổ khi bé chỉ thích đua chó, săn chim, lêu lổng tối ngày, hay bị người chú đến mách bố. Thái Tổ bị răn trách. Sau nhân gặp người chú trên đường, giả lên cơn động kinh sùi bọt mép. Người chú hoảng hốt hỏi thăm. Thái Tổ đáp "Trúng phải gió độc rồi!". Người chú vội vàng chạy đến báo với Tung. Tung kinh hãi, gọi Thái Tổ đến, thấy Thái Tổ vẫn bình thường. Tung hỏi: "Chú nói mày trúng gió. Có không?" Thái Tổ đáp: "Con có gì đâu. Chú không thích con, nên chỉ thấy những chuyện xấu". Tung do vậy đâm ra nghi ngờ. Từ đó trở đi, Tung không tin những gì người chú nói về Thái Tổ nữa, Thái Tổ lại càng táo tợn hơn.


Duy có người nước Lương là Kiều Huyền, người Nam Dương là Hà Ngung lại cho là khác. Huyền bảo Thái Tổ rằng: "Thiên Hạ sắp loạn to, không phải người có tài 'mệnh thế' tất không cứu được. Ông chính là người đó!".


Ngụy Thư viết: Thái Úy Kiều Huyền, vốn nổi tiếng biết coi người, cho Thái Tổ khác thường, nói: "Tôi biết hầu hết danh sĩ thiên hạ, nhưng chưa thấy ai được như ông! Ông ráng giữ lấy mình. Tôi già quá! Vợ con gởi gấm nơi ông đấy!" Thanh danh Thái Tổ nhờ đó càng nổi.


Tục Hán Thư viết: Huyền, tự Công Tổ, nghiêm minh và có tài lược, giỏi coi người.


Hán Kỷ của Trương Phan chép: Huyền khi ở ngôi cao trong ngoài tỏ tư cách, khiêm nhượng với kẻ dưới. Lại không vì quyền quý vương khanh mà kết thân. Vào năm Quảng Hòa Huyền làm Thái Úy, được một thời gian vì bệnh nên thôi, được phong Thái Trung Đại Phu, rồi mất. Nhà nghèo không sản nghiệp, linh cữu không đồ 'táng khí' chôn theo. Người đương thời cho là danh thần.


Thế Ngữ chép: Huyền bảo Thái Tổ: "Ông vẫn ít người biết, nên làm quen với Hứa Tử Tương" Thái Tổ đến làm quen, Tử Tương chịu cho, nhờ vậy người ta biết tiếng.


Sách Dị Đồng Tạp Ngữ của Tôn Thịnh chép: Thái Tổ một lần lẻn vào nhà Trung Thường Thị Trương Nhượng. Nhượng cảm được, Thái Tổ bèn cầm thủ kích vẫn trưng ngoài sân rồi nhảy qua tường bỏ đi. Tài vũ Thái Tổ lại hơn hết mọi người, không ai hại được. Sách nào cũng biết, đặc biệt là binh thư. Gom gộp binh pháp mọi nhà viết lại rõ ràng - gọi là 'Tiếp Yếu', còn ghi chú cả 13 chương binh pháp của Tôn Tử, thảy đều còn truyền. Thường hỏi Hứa Tử Tương: "Tôi là người thế nào?" Tử Tương không đáp. Cố hỏi, Tử Tương rằng: "Thời bình ngươi là năng thần, thời loạn ngươi là gian hùng". Thái Tổ cười to.


Năm hai mươi tuổi, được đề cử Hiếu Liêm, làm chức Úy một bộ ở Bắc Lạc Dương, rồi đổi qua làm Huyện Lệnh Đốn Khâu.


Tào Man truyện: Ban đầu mới giữ chức Úy, Thái Tổ sửa sang trị sự. Làm roi 5 màu, dựng hai bên cổng tất cả 10 cây. Ai phạm phải điều cấm, bất kể có là cường hào, đều bị nọc ra đánh đến chết. Được vài tháng, hôm ấy người chú của Tiểu Hoàng Môn Kiển Thạc, sủng thần của vua Linh Đế, đi đêm bị bắt, Thái Tổ sai đập đến chết. Kinh Đô nhờ vậy yên ổn, không ai dám phạm luật. Bọn sủng thần do đó đều ghét, nhưng không ai làm gì được. bèn cùng nhau tiến cử cho đổi qua làm Huyện Lệnh ở Đốn Khâu.


Sau đó làm Nghị Lang.


Ngụy Thư chép: Chồng em họ Thái Tổ là cường hào Tống Kỳ bị giết, phàm thân thích đều bị giải quan. Sau, vì Thái Tổ giỏi cổ học, được mời ra làm Nghị Lang. Đại Tướng Quân Đậu Vũ cùng Thái Phó Trần Phiền mưu diệt hoạn quan, nhưng ngược lại cùng bị giết. Thái Tổ dâng thư nói: do Trần, Vũ cùng những người chính trực bị hãm hại, gian tà đầy triều, kẻ thiện bị chèn ép, lời lẽ thống thiết; nhưng Linh Đế không màng đến. Sau lại có chiếu truyền xuống cả 3 phủ, sắc rằng: Những ai lên tiếng đòi sửa sang chính trị của châu huyện đều bị coi là tung tin nhảm và đáng cách chức. Từ đó các quan Tam Công thích làm những việc sai quấy không còn là chuyện hiếm, hối lộ lại càng thịnh hành. Lời oán về đám cường bạo đã không ai tâu lên, kẻ yếu ráng giữ mình lại đa phần bị hãm hại. Thái Tổ tức lắm. Nhằm năm nhiều chuyện thiên tai khác thường, bèn dâng thư can gián, giải thích (nguyên nhân thiên tai) do các quan Tam Công rặt tâu lên những chuyện tránh đụng chạm đến bọn quý thích(7). Tâu lên, nhà vua ngộ ra, bèn bãi chức cả tam phủ, những người 'tung tin nhảm' được phong làm Nghị Lang. Nhưng từ đó về sau việc chính trị ngày càng loạn, cường hạo lộng hành làm nhiều người bị hãm diệt. Thái Tổ biết mình không thay đổi được gì nên không tâu điều gì nữa.


Cuối thời Quảng Hòa, Hoàng Cân nổi dậy. Bèn được phong làm Kỵ Đô Úy, dẹp giặc ở Dĩnh Xuyên. Sau đổi làm Tế Nam Tướng. Nước này gồm 10 huyện, vì các quan Trưởng Sử đa phần dựa vào bọn quý thích, tham ô hối lộ lộng hành. Bèn tâu lên xin đuổi 8 người như thế. Lại cấm ngặt các hành vi tà vạy, bọn gian quỹ vì thế trốn đi, trong quận được yên ổn.


Ngụy Thư: Trưởng Sử nhận hối lộ, dựa vào thế quý thích, những quan Tướng trước không dám động đến. Nghe tin Thái Tổ đến, xin miễn chức cả đám, lớn nhỏ sợ điếng người, bọn gian quỹ bèn chạy sang quận khác. Việc chính trị nhờ thế củng cố, cả quận thanh bình. Trước đây, Thành Dương Cảnh Vương Lưu Chương có công lớn với nhà Hán, được phong quốc (Thành Dương) lập nhà từ, các quận khác của Thanh Châu đều bắt chước theo. Ở Tế Nam lại càng thịnh hành, xây đến hơn 600 nhà từ. Có tên thương gia giả chiếc kiệu 'nhị thiên thạch' cho chúng khuân trên đường, ca hát xênh xang, xa xỉ vô cùng, trong khi dân tình thì nghèo túng. Quan Trưởng Sử lại không dám cấm các hành vi như thế. Thái Tổ đến, lệnh phá hết các nhà từ, cấm tuyệt cả quan cả dân đến tế ở nhà từ. Đến khi nắm quyền chính, bèn diệt trừ nạn thờ cúng quỷ thần gian tà, việc thờ cúng huyễn hoặc từ ấy mới dứt.


Ít lâu, được vời làm Thái Thú Đông-quận, nhưng không nhận, xưng bệnh về làng.


Ngụy Thư: Khi bọn quyền thần nắm triều chính, quý thích lộng hành. Thái Tổ không thể thay đổi tính nết che chở cho bọn này. Nhiều lần trái lệnh, sợ họa đến nhà, bèn lui gót giữ mình. Tuy làm Nghị Lang, nhưng thường cáo bệnh, xin về làng. Lại cho xây nhà ngoài thành, Xuân Hạ đọc sách, Thu Đông săn bắn, lấy thế làm vui.


Được ít lâu, Thứ-sử Ký Châu Vương Phân, cùng Hứa Du người Nam Dương, Châu Tinh người Bái Quốc liên kết hào kiệt, mưu phế Linh Đế, lập Hợp Phì Hầu, tiết lộ với Thái Tổ nhưng Thái Tổ không theo. Việc sau cũng không thành.


Cửu Châu Xuân Thu của Tư-mã Bưu: Khi con Trần Phiền là Dật cùng Thuật sĩ người Bình Nguyên là Tương Giai hội bàn với Phân, Giai nói: "Thiên văn (có điềm) bất lợi cho bọn Hoạn quan. Bọn Hoàng Môn, Thường Thị thảy sẽ bị diệt tộc". Dật rất vừa lòng. Phân nói: "Nếu thế, tôi nguyện trừ bọn này". Bèn cùng Du kết mưu. Khi Linh Đế muốn về thăm nhà cũ ở Hà Gian, Phân nhân đấy lập kế, gởi thư cho cướp Hắc Sơn bảo đánh cướp quận huyện để có dịp khởi binh. Bấy giờ ở phía Bắc xuất hiện làn khí đỏ trải suốt từ Đông sang Tây, quan Thái Sử tâu lên: "Đương có âm mưu, không nên bắc hành". Vua bèn dừng lại, hạ lệnh cho Phân bãi binh, sai gọi đến. Phân sợ, tự sát. Ngụy Thư có thuật lời Thái Tổ cự Phân rằng: "Phế lập là chuyện bất tường cho cả thiên hạ. Người xưa phải nắm hết quyền bính trong tay, tính hết các lẽ nặng nhẹ, như Y Doãn, Hoắc Quang mới dám nghĩ đến chuyện đó. Y Doãn đã tỏ được lòng trung, lại có thế là Tể Tướng, trên hết các quan, nắm mọi đường tiến thoái - việc mới thành. Lại đến Hoắc Quang, nhận lời ủy thác gửi nước, ngồi ở ngôi tông thần. Bên trong nhờ có Thái Hậu nắm hết việc chính trị trọng yếu, bên ngoài lại có sự ủng hộ của các quan. Xương Ấp mới lên ngôi, chưa lấy được lòng quý thích, trong triều cũng không có ai ho he để có thể cùng bàn tính riêng. Nếu không gồm hết những yếu tố này, việc há đã thành. Nay các ông chỉ thấy những thành công đời xưa mà không nhận ra khó khăn hiện tại. Các ông thử tính xem, cộng tất cả các ông lại, có đông bằng 'thất quốc' không? Cái quý phái của Hợp Phì Hầu, liệu có bằng Ngô, Sở không(8)? Phàm làm chuyện phi thường, khắc kỵ dục vọng, sao các ông tránh được tai họa!"


Người Kim Thành là Biện Chương, Hàn Toại giết Thứ Sử, Thái Thú làm phản, đông đến hơn 10 vạn người. Thiên hạ tao động. Thái Tổ được vời làm Điển Quân Hiệu Úy. Rồi Linh Đế mất, Thái Tử lên ngôi. Đại Tướng Quân Hà Tiến cùng Viên Thiệu mưu diệt Hoạn quan, Thái Tổ không theo. Tiến muốn vời Đổng Trác, nhằm tạo thế uy hiếp Thái Hậu.


Ngụy Thư: Tin đến tai, Thái Tổ cười rằng "Quan hoạn xưa nay có bao giờ không có. Chẳng qua gần đây các vua cho chúng nhiều quyền hành, ân huệ quá mới nên nổi. Muốn trị bọn này, cứ giết mấy tên đầu sỏ, chỉ cần một viên ngục quan là đủ, cần gì phải gọi đến các tướng bên ngoài! Bằng như muốn diệt sạch bọn này, việc thể nào cũng lộ ra, tôi nghĩ là sẽ thất bại".


Trác chưa đến, Tiến đã bị giết.


Trác đến rồi, bèn phế vua làm Hoàng Nông Vương và lập Hiến Đế, Kinh Đô đại loạn. Trác xin cho Thái Tổ làm Kiêu Kỵ Hiệu Úy, muốn dùng. Thái Tổ bèn đổi tên họ, bỏ trốn về Đông.


Ngụy Thư: Thái Tổ ngẫm Trác cuối cùng sẽ thất bại, không đến gặp mà trốn về quê nhà. Chạy được vài ngày, đến nhà quen cũ là Lữ Bá Xa tại Thành Cao. Xa không có nhà, con cháu và tân khách hợp muốn cướp đoạt cả ngựa và vật dụng. Thái Tổ cầm dao giết sạch cả nhà.


Theo Thế Ngữ: Thái Tổ ghé ngang, nhưng Bá Xa không có nhà, chỉ có 5 người con bèn chuẩn bị lễ 'tân khách'. Thái Tổ đang trốn Đổng Trác, đâm ra nghi ngờ, đang đêm cầm kiếm giết 8 người.


Theo Tạp Ký của Tôn Thịnh: Thái Tổ nghe tiếng dao chặt thịt, nghĩ bọn này âm mưu hại mình, nên trong đêm giết người. Việc lỡ rồi không tỏ ra hối hận gì, nói: "Tôi thà phụ người, không để người phụ mình!", rồi đi.


Trốn được ra ngoài quan ải, đến Trung Mâu, bị viên Đình-trưởng nghi ngờ, bắt giải lên huyện. Trong xóm có người biết mặt, xin giúp nên được thả.


Thế Ngữ: (Thái Tổ đến) Trung Mâu bị nghi là kẻ bỏ trốn, bắt giải lên huyện. Viên Duyện vốn đã nhận được trát từ Trác, nhưng viên Công Tào biết lòng Thái Tổ, lại nghĩ đương khi loạn, không nên bắt kẻ hùng tuấn, bèn thả ra.


Rồi Trác giết Thái Hậu và Hoằng Nông Vương. Thái Tổ đến Trần Lưu, bán gia sản, mộ nghĩa binh đánh Trác. Mùa Đông, tháng chạp, bắt đầu khởi quân tại Kỷ Ngô. Đó là nhằm vào năm Trung Bình thứ 6.


Thế Ngữ: Vệ Tư là Hiếu Liêm của Trần Lưu đem gia tài ra giúp Thái Tổ mộ quân, mộ được 5000 người.


Mùa xuân Năm Sơ Bình nguyên niên tháng giêng, Hậu tướng quân Viên Thuật; Ký châu mục Hàn Phức;


Tào Trong lịch sử, Tào Tháo không ám sát Đổng Trác mà ngay từ đầu ông đã từ chối phong tước của Đổng tặc ban cho mình, thay tên đổi họ, bí mật trốn khỏi thành Lạc Dương.


Anh hùng ký chép rằng: Phức tự Văn Tiết, người ở quận Dĩnh Xuyên. Làm Ngự sử Trung thừa. Đổng Trác tiến cử làm Ký châu mục. Lúc bấy giờ ở Ký châu nhân dân giàu có, binh lương đầy đủ. Viên Thiệu đang ở Bột Hải, Phức sợ Thiệu dấy binh ở đấy, liền phái mấy viên Tòng sự đến phòng giữ, không được manh động. Đông quận Thái thú Kiều Mạo giả danh Tam công ở Kinh sư gửi thư cho các châu quận, kể ra tội ác của Trác, nói rằng "bị bức bách, không thể tự cứu nổi, ngóng đợi nghĩa binh, cứu quốc gia qua cơn hoạn nạn". Phức được thư, họp đám Tòng sự của mình hỏi rằng: "Bây giờ ta nên cứu trợ Viên Thiệu, hay giúp đỡ Đổng Trác đây?". Viên Trị trung Tòng sự là Lưu Tử Huệ nói: "Nay ta hưng binh là vì quốc gia, sao lại nói là vì Viên-Đổng!" Phức tự biết mình nói hớ nên hổ thẹn ra mặt. Tử Huệ lại nói: "Việc binh là chuyện hung hiểm, chớ nên cầm đầu, nay hãy nghe ngóng ở các châu khác xem thế nào, chờ họ phát động trước, ta sẽ phụ hoạ với họ sau. Ký châu so với các châu khác cũng chẳng vì thế mà yếu đi vậy, người khác có công cũng không bảo là Ký châu không giúp đỡ vậy." Phức theo lời ấy. Bèn gửi thư cho Thiệu, nói Trác là kẻ ác, mong bên ấy khởi binh.


Dự châu thứ sử Khổng Du;


Anh hùng ký chép: Du tự là Công Tự, người ở quận Trần Lưu.


Sách Hán kỷ của Trương Phan chép lời Trịnh Thái thuyết Trác rằng: "Khổng Công Tự là kẻ chỉ thanh đàm cao luận(9), mà hơi thở dật dờ như người sắp chết vậy."


Duyện châu Thứ sử Lưu Đại;


Đại là anh em với Lưu Do, chuyện này thấy chép ở Ngô chí.


Hà nội Thái thú Vương Khuông;


Anh hùng ký chép: "Khuông tự Công Tiết, người ở quận Thái Sơn. Vốn coi nhẹ tiền tài hay giúp đỡ người, dốc lòng làm việc nghĩa. Đại tướng quân Hà Tiến vời vào làm Phù sứ, Khuông đang ở Từ Châu dẫn 500 quân cung thủ theo hướng Tây thẳng tới kinh sư. Đúng lúc Tiến chết, Khuông lại trở về quê. Khi khởi sự, được phong là Thái thú Hà Nội.


Sách Hậu Hán thư của Tạ Thừa chép: Khuông thủa nhỏ chơi thân với Sái Ung. Đến năm bị quân của Trác đánh bại, bỏ chạy về Thái Sơn, tụ họp được mấy nghìn quân dũng mãnh, bèn cùng với Trương Mạc hợp binh. Khuông trước tiên giết chết Chấp kim ngô Hồ Mẫu Ban. Đám thuộc hạ của Ban không đánh lại được hết sức phẫn nộ, bèn dựa vào thế lực của Thái tổ, hợp sức giết Khuông.


Bột hải Thái thú Viên Thiệu; Trần Lưu Thái thú Trương Mạc; Đông quận Thái thú Kiều Mạo;


Anh hùng ký chép: Mạo tự Nguyên Vĩ, cùng dòng dõi với Kiều Huyền. Trước làm Duyện châu Thứ sử, rất có ân uy.


Sơn dương Thái thú Viên Di;


Di tự Bá Nghiệp, Thiệu coi như anh. Làm chức lệnh ở Trường An. Trương Siêu ở Hà Gian từng tiến cử Di với Thái uý Chu Tuấn, khen Di là "Viên quan mẫu mực ở đời, mẫn cán mà độ lượng. Trung thực sáng suốt mà ngay thẳng, rộng lòng tha thứ; cai quản trăm họ, dân được phong túc, có tài nhìn vật biết được tên, nay được người ấy, người ở nơi xa sẽ theo về cả." Điều này thấy ghi chép ở Siêu tập.


Anh hùng ký chép: Thiệu sau dùng Di làm Dương châu Thứ sử, bị Viên Thuật đánh bại.


Thái tổ khen "Đã cao tuổi vẫn miệt mài học tập, chỉ có ta và Viên Bá Nghiệp vậy." Câu này thấy ghi ở sách Điển luận của Văn Đế.


Tế bắc quốc tướng Bão Tín, việc có Tín tham dự thấy nói ở Tử Huân truyện.


Bấy giờ đồng thời cùng khởi binh(10), sĩ tốt mỗi đạo đều có mấy vạn người, suy tôn Thiệu làm Minh chủ. Thái tổ làm Phấn Vũ tướng quân.


Tháng hai, Trác hay tin binh mã nổi dậy, bèn dời Thiên tử từ kinh đô đến Tràng An. Binh của Trác đóng ở Lạc Dương, đốt cháy cung thất. Bấy giờ Thiệu đóng binh ở Hà Nội, Mạc-Đại-Mạo-Di đóng quân ở Toan Tảo, Thuật đóng binh ở Nam Dương, Du đóng quân ở Dĩnh Xuyên, Phức vẫn ở huyện Nghiệp. Binh lực của Trác rất mạnh, Bọn Thiệu chẳng ai dám tiến đánh trước. Thái tổ nói: "Chúng ta cất nghĩa binh giết kẻ bạo tàn, đại quân đã hội họp, chư quân sao còn phải hồ nghi nữa? Bọn Đổng Trác nghe tin ở Sơn Đông khởi binh, ỷ vào vương thất làm trọng, chiếm cứ hai kinh(11) hiểm yếu, ngoảnh về phía Đông xem việc thiên hạ; dẫu chúng ta hành động vô đạo, chỉ bởi chúng gây ra hoạ vậy. Nay chúng thiêu rụi cung thất, bức thiên tử dời đô, hải nội chấn động, sĩ dân chẳng biết hướng về đâu, ấy là lúc trời hại chúng nó vậy. Đánh một trận mà yên định được thiên hạ, cơ hội chẳng nên bỏ lỡ vậy."


Thái tổ dẫn binh về phía Tây, chiếm cứ Thành Cao. Mạo sai tướng của mình là Vệ Tư cầm một cánh quân đi theo Thái tổ. Đến sông Biện Hà ở Huỳnh Dương(12), gặp tướng của Trác là Từ Vinh, đánh nhau gặp bất lợi, sĩ tốt chết và bị thương rất nhiều. Thái tổ bị trúng tên, con ngựa đang cưỡi bị thương, người em họ Thái tổ là Hồng nhường ngựa của mình cho Thái tổ, đêm ấy Thái tổ trốn thoát được. Vinh thấy Thái tổ binh lực ít, nhưng đã đánh nhau trọn ngày, lại cho rằng Toan Tảo chưa thể đánh được, cũng dẫn binh quay về.


Thái tổ về đến Toan Tảo, thấy chư quân binh lực đông đến hơn chục vạn người, ngày ngày tụ họp uống rượu, chẳng có ý đồ tiến thủ gì. Thái tổ trách mắng bọn họ, nhân đó bầy mưu rằng: "Chư quân hãy nghe kế của ta, để Bột Hải(13) dẫn binh sỹ từ Hà Nội đến Mạnh Tân, các tướng ở Toan Tảo tiến lấy Thành Cao, chiếm cứ Ngao Thương, đóng giữ Hoàn Viên-Thái Cốc, chẹn hết chỗ hiểm yếu; phái Viên tướng quân(14) xuất lĩnh quân đội ở Nam Dương và quân Đan-Tích(15) tiến vào Vũ Quan, khiến Tam Phụ(16) chấn động. Nay mọi người lại tường cao luỹ sâu, không tiến đánh, khiến binh sỹ ngờ vực, việc trong thiên hạ là thế, theo lẽ thuận đánh kẻ nghịch tặc, có thể yên định được vậy. Nay cất binh làm việc nghĩa, lại ôm mối ngờ vực chẳng chịu tiến lên, thật mất cả lòng trông ngóng của thiên hạ, thiết tưởng ba quân đều phải xấu hổ vậy!" Bọn Mạc chẳng chịu nghe kế ấy.


Thái tổ binh ít, bèn cùng với bọn Hạ Hầu Đôn đến Dương Châu mộ binh, Thứ sử Trần ôn, Đan dương Thái thú Chu Hân giúp cho số quân hơn bốn ngàn người. Thái tổ quay về đến Long Kháng(17), số đông sĩ tốt làm phản.


Nguỵ thư chép: Binh sỹ toan tính làm phản, đang đêm đốt trướng của Thái tổ, Thái tổ vung kiếm giết chết mấy chục người, đám còn lại đều bỏ chạy nháo nhào(18), trốn khỏi quân doanh; đám quân sỹ không làm phản chỉ có 500 người.


Về đến Kiến Bình, lại thu được số binh lính hơn 1.000 người, bèn tiến lên đóng quân ở Hà Nội.


Lưu Đại cùng với Kiều Mạo đánh nhau, Đại giết chết Mạo, lấy Vương Lăng lĩnh chức Đông quận Thái thú.


Viên Thiệu cùng với Hàn Phức âm mưu lập U châu mục Lưu Ngu làm Hoàng đế, Thái tổ cự tuyệt việc ấy.


Nguỵ thư chép lời Thái tổ đáp lại Viên Thiệu rằng: "Đổng Trác gây nên tội ác, sự tàn bạo vang bốn bể, chúng ta tụ hợp mọi người, hưng nghĩa binh, xa gần chẳng ai không hưởng ứng, ấy là việc nghĩa khiến thiên hạ cảm động vậy. Nay ấu chủ thơ dại, quyền hành ở cả trong tay gian thần, cũng chưa bằng Xương Ấp vong quốc vì biến loạn, một sớm làm việc phế lập(19), ai sẽ là người vỗ yên thiên hạ đây? Các ông cứ ngoảnh về Bắc, ta xin hướng về Tây (20).


Thiệu từng bắt được một cái ấn ngọc, ngồi cạnh Thái tổ mở tay cho xem, Thái tổ bởi thế cứ cười thầm.


Nguỵ thư chép: Thái tổ cả cười nói: "Ta không nghe lời ông đâu." Thiệu lại sai người đến thuyết Thái tổ rằng: "Nay Viên công thế thịnh binh cường, có hai con hùng tráng, là anh hào trong thiên hạ, ai có thể hơn được?" Thái tổ không đáp. Bởi thế cho là Thiệu không ngay thẳng, có mưu đồ diệt đi.


Năm thứ nhì, mùa Xuân, Thiệu, Phúc bèn lập Ngu lên làm Hoàng Đế, rốt cuộc Ngu cũng không dám nhận.


Tháng 4, mùa Hạ, Trác về đến Tràng An.


Tháng 7, mùa Thu, Viên Thiệu hiếp Hàn Phức, chiếm lấy Ký Châu.


Giặc Hắc Sơn là Vu Độc, Bạch Nhiễu, Tuy Cố cùng bộ hạ hơn 10 vạn nổi dậy đánh phá Ngụy Quận, Đông Quận, Vương Lăng(21) không chống cự nổi. Thái Tổ dẫn quân đến Đông Quận phá quân Bạch Nhiễu ở Bộc Dương. Viên Thiệu bèn dâng biểu xin Thái Tổ làm Đông Quận Thái Thú, giữ Đông Vũ Dương.


Năm thứ 3, mùa Xuân, nhân lúc Thái Tổ đóng quân ở Đốn Khâu, [Vu] Độc đánh Đông Vũ Dương. Thái Tổ bèn dẫn quân về phía tây tiến đánh thẳng vào căn cứ của Độc trên núi.


Ngụy Thư chép: Chư tướng cùng muốn kéo quân về cứu (Đông Vũ Dương). Thái Tổ nói: "Tôn Tẫn cứu Triệu bằng cách đánh Ngụy, Cảnh Yểm muốn chạy về Tây An lại đánh Lâm Truy. Nếu giặc nghe ta tiến về hướng tây mà lui, Vũ Dương tự giải vây; bằng không, ta dẹp sào quyệt thì đám cướp này cũng không lấy được Vũ Dương." Chúng bèn cùng đi.


Độc nghe tin, bè bỏ Vũ Dương quay về. Thái Tố đánh bắt Tuy Cố, sau lại đánh Ô Phù La người Hung Nô ở Nội Hoàng, đều thắng lớn.


Ngụy Thư chép: Ô Phù La là con Thiền Vu Nam Hung Nô. Vào giữa thời Trung Bình(22), cho Ô Phù La dẫn quân đến giúp nhà Hán. Nhằm lúc trong nước có loạn, Thiền Vu bị giết, Ô Phù La cùng binh chúng bèn ở lại Trung Quốc. Nhân lúc thiên hạ loạn lạc, bèn hợp với bọn cướp Bạch Ba của Tây Hà, phá được Thái Nguyên, Hà Nội, cướp phá các quận lân cận.


Chú thích:

(1) Hội nghị chư hầu cùng phò nhà Châu, do Quản Trọng cố vấn cho Tề Hoàn Công khởi xướng.

(2) Tức ngày cuốn Tào Man truyện được viết ra.

(3) Quý nghĩa là cuối, Đằng là con út

(4) Đời Minh Đế Tào Duệ - 299

(5) Vì Đằng làm Hoạn quan từ bé, Tung phải là con nuôi.

(6) Toàn chức quan to, chứng tỏ thế lực Đằng lớn lắm.

(7) Quý thích chỉ chung đám cường hào, nhưng trong ngữ cảnh (sau loạn Đảng Cố) nói đến vây cánh của quan Hoạn và con cháu phe này.

(8) Loạn "7 nước" đời Hán Cảnh Đế.

(9) Bàn những lời cao luận suông.

(10) Về các chức vụ ở trên thì có thể hiểu sơ bộ thế này. Thời nhà Hán có tất cả là 12 châu và khu Tư Lệ (kinh đô), mỗi châu do một viên thứ sử cầm đầu, chức Mục là chức mới đặt ra, quyền lực còn lớn hơn Thứ sử một chút. Còn các chức Thái thú là quản lý một quận (thuộc châu). Riêng chức tướng quốc cũng chỉ tương đương với quận mà thôi. Quốc ở đây hiểu như một đặc khu hành chính nhỏ.

(11) Cư nhị Chu chi hiểm, nhị Chu là hai kinh đô của Tây và Đông Hán.

(12) Trên bản đồ thì chỗ này ghi là Vinh Dương, có lẽ cũng đọc là Huỳnh.

(13) Tức Viên Thiệu.

(14) Tức Viên Thuật.

(15) Không rõ là tên người hay địa danh (?)

(16) Tức ba quận là Kinh Triệu (thủ phủ là Tràng An), quận Phù Phong phía bên phải Tràng An tức Hữu Phù Phong (thủ phủ là Hàm Dương) và quận Phùng Dực ở bên trái Tràng An tức Tả Phùng Dực (trung tâm là Đại Lệ).

(17) Một địa danh ở gần Lạc Dương.

(18) Nguyên văn là 'phi mỹ', chạy lướt, chạy vội.

(19) Nguyên văn là 'nhất đán cải dịch', tức là một mai việc biến đổi. Ở đây Thiệu bàn việc lập Lưu Ngu lên làm đế, tức là bàn chuyện phế lập vậy.

(20) Tào Tháo bày tỏ dứt khoát, bọn Thiệu cứ việc ngoảnh về Bắc (Lưu Ngu ở U châu), Tháo cứ hướng về Tây (Vua Hán lúc ấy ở Tràng An).

(21) Thái Thú Đông Quận do Lưu Đại đặt.

(22) Đời Linh Đế.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét