Chuyện một chiếc khăn
Truyện ngắn của Phan Thúy Hà
Hai chiếc khăn mùi xoa trắng
tinh. Mỗi khăn đều vẽ bằng bút chì hình hai con chim và hai chữ T chồng lên
nhau. Một chữ thường và một chữ hoa.
Nhiều thương binh cần thông
tiểu. Bác sĩ lệnh tôi phải làm việc đó cho một trong số họ. Bệnh nhân nằm ngửa,
đầu gối duỗi ra.
Tôi mười bảy tuổi. Làm sao
tôi có thể.
Tôi nói không.
Bác sĩ có thể giao cho tôi
bất cứ việc gì, trừ việc đặt thông niệu đạo cho nam giới.
Chị Lân chạy lại. Để tôi
làm. Đồng chí Thanh mới vào chưa quen việc.
Chị Lân đã có chồng. Chồng
chị cũng là y tá. Hai người vào chiến trường từ năm 1968 và cưới nhau cách đây
hai năm. Chị khỏe mạnh và tốt tính. Ở đây người nào tôi gặp cũng tốt tính.
Một em
bé năm tuổi. Mảnh bom xuyên qua đùi trái. Em bé vẫn tỉnh táo để gào khóc. Đau
quá bọ mạ ơi. Bà nội em nhìn tôi cầu cứu. Bố mẹ đã băng bó tạm cho em trước khi
đến. Máu ướt thẫm bông băng. Máu ướt thẫm chiếc quần đen em mặc.
Người
lính đang mê sảng. Ta rất ghét chiến tranh. Ghét chiến tranh. Ta ghét chiến
tranh.
Tôi nhớ
hình ảnh anh khi đến. Một chân lủng lẳng. Anh đang cố chịu đựng cơn đau, không
rên rỉ một lời. Phải chuyển anh về Bắc nhưng không phải lúc này.
Đêm nay
tôi và chị Lân được nghỉ trực. Đã mười ngày đêm rồi chúng tôi không ai được
nghỉ được ngủ. Ngơi ra vài phút lại có xe chở thương binh đến. Mắt ríu lại rồi.
Phẫu sư
đoàn nằm dưới chân đồi. Hai chị em rọi đèn pin đi về lán cách phẫu chừng ba
trăm mét. Chị Lân vừa đặt lưng xuống đã nghe tiếng ngáy. Hai vợ chồng chị công
tác hai đơn vị điều trị khác nhau, thỉnh thoảng anh mới tới thăm vợ. Tôi ở cùng
với chị Lân từ ngày phẫu sư đoàn sơ tán về đây.
Tiếng bom dội rất gần. Chị
Lân vùng dậy. Đi thôi em. Ra xem thế nào. Tôi ngủ có lẽ chưa được năm phút.
Hai chị em chạy về phẫu.
Tiếng xe tiếng người nhốn nháo. Ánh sáng đèn pha nhập nhòa. Các anh chị đã kịp
chạy đến trước chúng tôi.
Chín tân binh bị trúng bom
trên đường hành quân. Họ là những sinh viên ngoài Bắc bổ sung vào Quảng Trị.
Rửa vết thương. Băng bó.
Tiêm. Cầm máu. Truyền máu.
Phòng bên trong, ca mổ liên
tiếp.
Tạm xong công việc vừa lúc
trời sáng. Bác sĩ Hưng nhìn tôi và chị Lân cười, ca nghỉ trực lại qua rồi các
em nhỉ. Bắt đầu một ngày mới. Bắt đầu một phiên trực của hai chị em.
***
Tôi là con thứ ba trong một
gia đình có chín đứa con gái và một đứa con trai. Em trai tôi vừa thi đỗ vào
lớp tám. Môn văn và môn toán đều tám điểm nhưng em không được trong diện đi học
tiếp.
Hai chị gái đã ra Hà Nội học
đại học. Tôi đang học lớp chín. Đàn em sau còn nhỏ.
Tôi làm đơn xung phong đi bộ
đội thay em trai. Tôi muốn nó ở nhà học xong lớp mười. Tôi là con gái bỏ học
không sao nhưng con trai thì ít nhất phải học xong cấp ba rồi mới đi bộ đội.
Tôi tưởng mình đi thay em nhưng hai năm sau nhận được tin em đã ra chiến
trường.
Chuyện tôi đăng ký đi bộ đội
chỉ có bố biết. Bố ủng hộ. Con gái của bố là phải thế. Bố đã tham gia làm y tá
hai năm trong quân đội thời kháng chiến chống Pháp. Vì xã cần giáo viên cho
phong trào bình dân học vụ nên bố về làng cùng xã mở trường dạy học với sự đầu
tư của các cha đạo. Bố đã giảng dạy ở ngôi trường đó suốt ba mươi năm.
Gia đình tôi không phải Công
giáo nhưng ngày lễ mọi người đều đi nhà thờ đọc kinh cầu ước. Ngày bố mất cha
đạo viết lời giã biệt. Đội kèn trống nhà thờ đến tiễn đưa. Tôi đi lễ nhà thờ
hằng tuần. Tôi hát khúc kinh cầu. Trong lòng luôn hướng về ánh sáng.
Tôi đi khám sức khỏe tám lần
đều không đạt. Mỗi lần khám cho đủ thứ gạch đá vào túi áo túi quần cân nặng vẫn
chưa tới 35 kg.
Mày
đúng là loại lừa. Mày biết mày không đạt tiêu chuẩn nên mới xung phong. Ông
Quang xã đội trưởng nói khi đi trên đường làng gặp tôi. Mặt tôi đỏ bừng lên vì
tức giận. Bác nói câu đó bác phải chịu tội. Cháu đăng ký đi vì cháu muốn đi
thật sự. Lời bác nói hôm nay bác phải chịu trách nhiệm. Ngày kia họ sẽ khám
tiếp, cháu nhờ bác đi cùng để nói đỡ cho cháu một câu để họ nhận. Lần khám thứ
chín ông Quang đi cùng, nhờ ông xin nên tôi được lọt qua. Đến tỉnh tôi khám
tiếp, lại bị loại. Con Trà cũng bị loại như tôi. Trà vui vẻ quay về tôi thì
khóc nức nở. Tôi đã đi là phải đi. Tôi không về.
Tôi đi
bộ đội vì môi trường bộ đội kỷ luật nghiêm. Người con gái ở môi trường quân đội
về mặt đạo đức gia đình không phải lo.
Buổi
sáng tôi đi. Mẹ vừa chuẩn bị bữa ăn vừa khóc, bố thì lại bên con gái dặn dò.
Con mới
ngoài mười sáu tuổi chưa hiểu về cuộc sống nên bố phải dặn con một số điều.
Thứ
nhất, nếu bọn con trai nhìn vào mắt con thì con không được nhìn lại. Con phải
quay mặt đi hoặc cúi mặt xuống. Nếu nhìn vào mắt bọn con trai con sẽ hư hỏng.
Nếu bọn con trai ngồi sát lại gần con thì con dịch ra. Con dịch ra rồi nó vẫn
xích lại thì con đứng lên bỏ đi. Nếu bọn con trai bắt tay con thì con nhanh
chóng rút tay ra.
Thứ
hai, đi bộ đội là làm nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc thiêng liêng. Không phải thích
thì đi không thích thì về. Con người sống phải kiên nhẫn. Không chỉ kiên nhẫn
trong chiến trường mà phải kiên nhẫn suốt cả cuộc đời. Nhiệm vụ được giao đã
nhận lời là con phải làm đến nơi đến chốn.
Thứ ba,
vào đấy ai cũng là bạn của con, nhưng để tâm sự chuyện riêng tư sâu kín thì con
phải cần có thời gian hiểu nhau.
Tiếp
theo bố đưa cho tôi cuốn sổ, tập giấy, cây bút kim tinh và tập sách giáo khoa.
Trang bìa cuốn sách bố ghi “Gắng học và đánh giặc”. In đậm, đóng khung.
- Con tranh thủ học. Làm
thơ. Viết những chuyện xảy ra trong chiến trường. Viết về lòng tự hào tình yêu
đất nước.
Bố tôi muốn những đứa con
gái ngoài khéo léo thêu thùa may vá còn phải học giỏi, có chí khí và biết làm
thơ. Bố rèn luyện những đứa con biết nghe lời, học giỏi.
Tôi nghe lời bố, tránh tất
cả những ánh mắt của bọn con trai. Cả thời thiếu nữ rồi đến khi lấy chồng sau
này chưa khi nào tôi dám nhìn thẳng vào mắt người đàn ông. Hai mươi sáu tuổi,
thấy con gái sống nghiêm khắc quá bố lo lắng. Con cứ thế này thì chẳng sướng
được đâu. Bố lo tôi không lấy được chồng. Sau tôi còn một đàn em đã đến tuổi.
Tôi đã lấy chồng. Ở nhà chồng về bố nhìn ánh mắt tôi buồn rười rượi.
***
Mười sáu tuổi, má hồng bầu
bĩnh mắt tròn xoe. Tôi là đứa con ngoan. Lời bố dặn dò
luôn khắc ghi trong lòng.
Chuyến
tàu đêm chở quân chạy vào Nghệ An. Tôi cố kiềm lòng để không rơi một giọt nước
mắt.
Cả toa
tàu tiếng khóc thút thít. Tàu dừng lại. Ông chỉ huy ra lệnh. Người nào khóc hãy
xuống tàu ngay. Tất cả im bặt. Chúng tôi khóc vì nhớ nhà. Không phải khóc vì sợ
chết.
Lớp học
y tá ở Cữ Nấm. Học ở hội trường. Buổi thảo luận là ở đồi sim.
Đang
giờ học anh Tùng viết mảnh giấy nhắn. Lát học xong nán lại có chuyện muốn nói.
Tôi ra
khỏi lớp sau cùng. Anh đứng chặn bên bàn. Anh nhìn tôi. Tôi quay mặt đi nơi
khác.
- Tớ
muốn cho cậu một chiếc khăn mùi xoa.
-
Không.
Tôi đi
nhanh ra khỏi lớp. Khăn mùi xoa dùng để lau nước mắt. Tôi lấy khăn mùi xoa làm
gì.
Anh
Tùng là một trong những người học giỏi trong lớp. Tôi thì hay làm thơ, nhiều
người để ý. Đồi sim trải rộng mênh mông. Đang mùa sim chín. Từng nhóm tản mát
trao đổi bài vở. Tôi ngồi một mình bên bụi sim nhặt những quả chín. Anh Tùng
đứng bên tôi từ khi nào không rõ. Anh lôi trong túi áo ra chiếc khăn mùi xoa
gấp tư nhỏ gọn.
- Cho
này.
-
Không. Đồng chí đừng làm thế. Tôi còn ít tuổi.
- Cất
nhanh lên đi. Bọn kia nhìn thấy bây giờ.
Tôi sợ
các bạn nhìn thấy.
Hai
chiếc khăn mùi xoa trắng tinh. Mỗi khăn đều vẽ bằng bút chì hình hai con chim
và hai chữ T chồng lên nhau. Một chữ thường và một chữ hoa.
- Nhờ
cậu thêu theo mẫu.
Tôi đỏ
mặt. Cảm thấy rất bực bội. Tôi giấu vội khăn vào cuốn sổ. Suốt buổi học chẳng
thể tập trung được.
Anh làm
cho tôi khó xử. Tôi có kim chỉ thêu trong ba lô nhưng làm sao tôi dám thêu
trước mặt các bạn. Mấy lần định lấy ra thêu tôi lại thôi.
Một
tuần sau có buổi sinh hoạt trên đồi sim như hôm trước. Anh lại chỗ tôi ngồi đem
theo một nắm sim chín ửng.
- Trả
lại khăn cho đồng chí. Tôi không biết thêu.
Anh
thần mặt. Tự nhiên tôi bối rối. Cảm thấy như là người có lỗi.
- Cậu
giữ một cái tớ giữ một cái.
Từ lúc
trả chiếc khăn, cảm xúc về anh Tùng trong tôi có gì đó đã khác lạ.
Hai hôm
rồi không thấy anh đi học. Tôi băn khoăn. Hôm thứ ba, thứ tư rồi vẫn không thấy
đâu. Cảm giác thiếu vắng. Đến bếp nhà ăn mắt tôi tìm kiếm. Chuyện gì mà phải
nghỉ lâu như vậy chứ. Tôi không dám hỏi ai.
Đến hết
một tuần tôi không kiên nhẫn được nữa. Tan học tôi chạy ào về phía học viên nam
ở.
Dãy lán
sơ sài. Một cơn mưa nhẹ cũng ướt hết. Anh Tùng nằm thiêm thiếp. Anh bị sốt rét ác
tính cả tuần nay.
- Có bài thơ này cho cậu.
Anh với tay ra sau gối lấy
bài thơ chép trên một tờ giấy. Giọng anh yếu ớt. Tôi phải nhấc thêm vài bước
mới với tới gần tay anh. Học viên nam từ hội trường về, tôi bỏ chạy. Tôi sợ họ
phát hiện ra rồi thêu dệt thành một câu chuyện. Tôi vẫn chưa hỏi thăm anh được
câu gì.
Sau này tôi mới biết là anh
đã viết thư báo tin bị sốt rét qua anh Mạnh nhưng anh Mạnh đã không đưa. Thay
vì lá thư của anh Tùng thì anh Mạnh gửi lá thư của riêng mình.
Sáu tháng học trôi qua. Mỗi
người về một đơn vị.
Một hôm tôi đang ngồi trên
xe đi chở thương binh trong Quảng Trị ra. Xe dừng lại vài phút. Một chiếc xe
cứu thương đi ngược lại có anh Tùng ngồi trên đó. Anh nhận ra tôi nên đã xin
lái xe dừng lại. Anh chạy sang bên xe tôi.
- Thanh, xuống đây.
Tôi bất ngờ. Chưa kịp nói gì
thì xe tôi chạy luôn.
Trong khoảnh khắc đó tôi
nhận ra mình thương anh rất nhiều. Bạn bè ngồi quanh xe mà lòng tôi bơ vơ. Hình
ảnh anh từ xe bên kia chạy sang gọi tên tôi lúc đó làm sao quên được.
Một buổi chiều tôi đi vào
rừng lấy củi thì anh Tùng áp tải thương binh đến phẫu sư đoàn. Anh viết một mẩu
giấy nhắn nhờ chị Tuyết chuyển cho tôi. Anh nhắn rằng ba ngày nữa quay trở lại.
Kèm theo đó là tên xã, huyện ở quê anh.
Tôi chờ anh suốt ba ngày sau
đó. Tôi chờ thêm ba tháng. Chờ thêm ba năm nữa vẫn không thấy anh quay lại như
đã hứa.
Tôi kể với bố chuyện về anh.
Tôi muốn đi tìm anh. Bố nói, nếu nó còn sống thì đã đi tìm con.
Chiếc khăn mùi xoa trở thành
kỷ vật chiến tranh tôi đem về nhà. Ngày ra đi ba mươi lăm cân, năm năm sau tôi
trở về còn cân nặng ba mươi, môi thâm sì mắt trắng dã tóc xơ. Bố đào những con
giun đất gói trong lá mùng tơi bảo tôi nuốt sống. Nuốt chín con giun đất rồi
cơn sốt rét vẫn không dứt. Tôi đi vào chiến trường bố mạnh mẽ lạc quan, tôi an
toàn trở về với gia đình thì bố khóc. Bố khóc vì xót xa thể lực con gái tuổi
thanh xuân hay mừng vui con hoàn thành nhiệm vụ. Năm năm ở chiến trường và mất
mười năm tôi mới quay trở lại được trạng thái sống như một người phụ nữ bình
thường.
Tôi đưa chiếc khăn mùi xoa
ra ngắm nhìn. Sau đó tôi lại giặt cất kỹ vào rương. Giặt mấy lần khăn mỏng
tang. Chất vải trắng trong thì vẫn nguyên vẹn.
Năm kia chúng tôi đã gặp
được nhau. Tôi vẫn không dám nhìn vào mắt anh.
Tôi viết thư về hỏi ông chủ
tịch xã theo địa chỉ ở lời nhắn cuối cùng năm ấy. Ông chủ tịch xã đã mang thư
đến nhà anh.
Anh vẫn còn sống hả anh Tùng
ơi. Tôi không biết mừng hay là giận dữ.
- Thanh vẫn thế. Chẳng khác
gì cả.
Bốn mươi lăm năm rồi anh bảo
tôi chẳng khác gì là sao. Tôi thì thấy anh khác nhiều quá. Không còn là anh
Tùng nhanh nhẹn thông minh như ngày ấy.
- Hồi đó thấy em vậy anh cứ
tưởng em yêu thằng Mạnh.
- Vâng, anh Mạnh gặp lại em
cứ tưởng em và anh lấy nhau. Anh còn giữ chiếc khăn mùi xoa không?
- Mất lâu rồi. Thanh vẫn nhớ
chuyện đó sao?
Tại sao anh lại nghĩ tôi có
thể chuyện đó chứ?
Tôi trân trối nhìn chiếc
khăn lần cuối. Tôi quàng chiếc khăn lên cổ đứa cháu nội đang ngồi bên bàn ăn.
Giữ làm gì nữa khi người ta không còn nhớ. Vài hôm sau chiếc khăn rơi đâu mất.
Tôi
lên tàu về quê tìm chị Lân. Tôi đã hỏi được thủ tục làm chế độ chất độc da cam
cho những người mất giấy tờ. Tới nhà mới biết chị vừa mất. Chồng chị đã mất
trước đó sáu năm. Anh là thương binh, chị bị nhiễm chất độc không sinh được
con. Từ ngày anh mất chị trở nên điên điên dại dại. Lần cuối cùng tôi về thăm
chị lúc chị còn tỉnh. Chị nhờ tôi bằng cách gì đó được hưởng chế độ chất độc da
cam vì chị không ra đồng cấy cày được nữa.
Tôi ra chợ mua một nắm lá
lốt về nấu canh. Nhớ bữa ăn vội vàng ở phẫu. Không ai ăn cùng tôi. Vị canh lá
lốt hình như đã khác xưa mà tôi thì không sao khác đi
được.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét