Thứ Hai, 13 tháng 6, 2022

ĐỪNG KỂ TÊN TÔI (KỲ 4)

 


ĐỪNG KỂ TÊN TÔI (KỲ 4)

Truyện ký của Phan Thúy Hà

22.

Đơn vị lên xe về Tây Ninh. Hành quân bộ xuống Củ Chi. Người dân bí mật dẫn cả sư đoàn vào làng. Ngay giữa lòng địch mà sao dân ở đây vẫn sinh hoạt bình thường. Ban đêm đoàn điện ảnh cơ động hát hò biểu diễn dưới vòm cây. Buổi trưa anh em mắc võng nằm đung đưa giữa các cây xoài.

Nhiệm vụ trên giao sư đoàn 320 phải đánh căn cứ Đồng Dù, cánh cửa đi vào thủ đô Sài Gòn.

Đêm trước chiến dịch chị chủ nhà nói nhỏ, cộng sản đánh vào Đồng Dù lần này nữa là lần thứ chín rồi đó. Các năm trước đánh được mấy giờ là chúng nó lấy lại, lần nào lâu nhất là được một ngày một đêm. Cộng sản hy sinh ở đó quá nhiều. Dân ở đây nhờn rồi giờ thấy đánh nhau ở Đồng Dù là đi hôi của.

Bảy giờ sáng ngày 28 tháng 4. Cán bộ trung đội trở lên có mặt tại tiểu đoàn bộ để nhận nhiệm vụ trên sa bàn. Sa bàn làm bằng đất giữa bãi hoang ngoài đồng ruộng. Toàn bộ căn cứ Đồng Dù được rút nhỏ lại chừng ba mươi mét. Bao gồm: 120 lô cốt vòng ngoài; 17 lớp hàng rào; Hai cổng chính; 4 tuyến giao thông hào vây quanh; Phía giữa đồn có đường rải nhựa để địch đi lại các kho; Có 4 khu gia đình cách nhau 900m, ban chỉ huy sư đoàn địch đóng giữa.

Đại đội 2 là đại đội chủ công nhận nhiệm vụ mở cửa.

Trung đội của tôi là trung đội chủ công được phân công cắm cờ lên nóc hầm sư đoàn chỉ huy sư đoàn địch.

Hôm nay tôi quyết định mặc chiếc áo mới. Tôi linh cảm có thể đây là lần ra trận cuối cùng.

Trận đánh cuối cùng? Tôi sẽ chết hay sau trận này là kết thúc? Tôi làm sao biết được. Chỉ cảm thấy một trận đánh kịch liệt trước mắt.

Nhà thơ Tố Hữu vào Tây Nguyên thấy anh em bộ đội quần áo rách nát, bẩn thỉu, về ngoài bắc ông đề nghị Bộ hậu cần cấp cho mỗi lính một bộ quần áo. Là chúng tôi nghe trên báo xuống vậy. Nói là một bộ nhưng thực tế mỗi người được một chiếc. Người có áo thì không có quần. Tôi được cấp chiếc áo. Tôi gọi đó là áo nhà thơ.

Hôm nay tôi mặc áo nhà thơ ra trận đánh lớn.

Ba giờ chiều ngày 28 tháng 4 lệnh xuất kích.

Bầu trời như sắp có cơn mưa lớn vì đen ngòm khói bom đạn pháo. Ba tiếng đồng hồ sau lại thấy đạn của ta như bó đuốc bay thẳng vào đồn địch. Máy bay địch thả pháo sáng và ném bom ở các hướng mà quân ta đang nổ súng. Pháo tầm xa phản lại vùng pháo ta vừa bay lên. Cứ thế hai bên như thách thức ai mạnh hơn, súng ai to hơn, ai gan lỳ hơn.

Chín giờ đêm chúng tôi lọt vào rừng cao su gần đồn địch và được bố trí nằm ngay ở góc vườn nhà thờ. Qua nhà thờ là tới đường 14, cách hàng rào thứ nhất 15 mét, cách đại đội 2 chừng 200 m.

Xong đội hình mai phục có lẽ tầm hai giờ sáng. Tôi cùng anh Hùng đại đội trưởng và anh Nhuần chính trị viên đi kiểm tra các trung đội một lượt. Đi vào các khu vườn của dân ngay phía sau dãy phố mà không có một tiếng chó sủa. Yên tĩnh lạ thường.

Đúng ba giờ sáng đại đội 2 điểm hỏa. Quả mìn mở cửa của lớp hàng rào thứ nhất bung lên. Tiếp tục lớp thứ hai, lớp thứ ba.

Vài phút sau địch đã xác định được hướng tấn công của ta. Từ trong đồn hỏa lực bắn ra. Hỏa lực đại đội 4 chi viện cho đại đội 2 không thấm vào đâu. Đại đội 2 bị gián đoạn lâu mới nổ tiếp được một quả.

Tôi bảo anh em phải dán mắt vào hai hướng đường nếu địch đến là nổ súng. Vừa chỉ huy anh em ở trung đội vừa lắng tai nghe về hướng đại đội 2.

17 lớp cửa mở. Giờ đã chín giờ sáng mà đại đội 2 mới mở đến lớp thứ 9. Với kinh nghiệm mở cửa tôi biết đại đội 2 bị thương vong nhiều.

Gần mười một giờ trưa, ông Cẩn chính trị viên trưởng của tiểu đoàn và anh Năm đại đội phó đại đội 1 tiến lại hướng chúng tôi. Lúc này lẽ ra ông Cẩn phải ở ban chỉ huy tiểu đoàn chứ sao lại đến tận trung đội tôi?

Ông Cẩn ra hiệu tôi lại gần hội ý. Ông nói: Bây giờ đồng chí Ngọc phải tập hợp anh em lại và kết nối bộc phá để mở cửa phụ nhằm thu hút lực lượng địch về phía mình để đại đội 2 dễ hoạt động.

Tôi nhận nhiệm vụ. Phân công mỗi tiểu đội kết cho được ba quả bộc phá. Yêu cầu một quả phải đủ dài 1.5m. Kết xong tôi sẽ mở lớp hàng rào đầu tiên. Chín quả phải mở được chín lớp. Còn hỏa lực bám sát anh em. Khi anh em ôm bộc phá lên mở cửa phải kiềm chế hỏa lực địch.

Đang ngồi kết bộc phá thì anh Năm và ban chỉ huy đại đội 1 lệnh cho trung đội tôi phải dừng động tác mở cửa và ngay lập tức phải vượt đường để chiếm lấy mặt đường phía đông đồn. Trong đồn địch đã kéo cờ trắng.

Tôi hô anh em tiến. Rời khỏi vị trí được năm mươi mét thì một khẩu đại liên bên nóc nhà thờ Tân Qui bắn xuống cản đường đội hình. Tôi lệnh cho anh Ca là xạ thủ B41 giập ngay hỏa lực địch. Tiếng nổ ầm, hỏa lực địch tắt và các mảnh vỏ tường xi măng nhà thờ bay xuống đầu chúng tôi đang tiến. Hỏa lực trong đồn địch bắn ra làm cho quân ta không tiếp cận được mặt đường dù chỉ còn năm mươi mét nữa.

Tôi giật khẩu B41 của anh Ca.

Vai trái dí sát tường nhà thờ vai phải là khẩu B41 tôi lấy thước ngắm chuẩn xác. Nín thở. Bóp cò. Quả B41 lao thẳng vào miệng lô cốt địch đang nhả đạn đỏ lừ về hướng quân ta. Cột khói trắng dựng lên.

Tôi tiếp tục hô tiến. Một chiếc xe bọc thép từ trong đồn vụt qua. Anh em bắn vuốt đuôi.

Sao không nổ súng? Anh Ca nói: Phía sau lưng quân ta nằm dày, phía trước là anh em trung đội.

Tôi thầm nghĩ, ta bị địch nghi binh rồi. Kéo cờ trắng mà chúng vẫn nổ súng không ngừng. Tất cả chúng tôi ôm súng lăn qua đường.

Bầu trời phố Tân Qui và căn cứ Đồng Dù mù mịt khói đen. Tiếng nổ rầm trời.

Giữa bãi tha ma có một con đường mòn chạy dọc từ cổng đồn ra phía đông. Bị quân ta chặn đánh địch nhằm hướng này chạy thoát. Chúng tôi bám trụ tại đây từ trưa và giờ đã gần hết buổi chiều. Vừa đánh vừa lấn tới phía cổng chính.

Bãi tha ma. Từng ngôi mộ làm điểm tựa cho cả ta và địch.

Trước mũi súng tôi xuất hiện một người con gái trẻ, tóc ngắn, tay cắp nón tay xách túi. Cô gọi to tên ai đó. Tôi đoán cô đi tìm người yêu hoặc chồng đang đâu đây quanh đồn địch. Cô không biết mình đang đi giữa làn đạn ta và địch.

Cô kia nằm xuống hoặc ra khỏi ngay trận địa. Tôi quát to.

Một cậu lính chạy lại: Báo cáo anh, ta bắt được thêm sáu mươi tù binh giờ phải làm sao?

Không còn đủ dây để trói nữa. Tôi lệnh: Lột hết vũ khí, giày tất, quần áo rồi đẩy xuống hố bom, cho hai thằng gác.

Tôi phát hiện một tốp địch nấp sau ngôi mộ. Lệnh cho xạ thủ B40. Xạ thủ bắn ba quả đều trượt. Vì địch có mô đất trên mộ che chắn.

Bảo anh em yểm trợ, tôi vòng sang trái. Lướt qua bụi cây bị chúng phát hiện ra. Viên đạn AR15 bắn trúng ngực. Tôi gục xuống giây lát.

Biết mình chưa chết, tôi lấy lại tinh thần. Giờ sao? Bò quay trở lại thì không đủ sức. Mà trúng thêm đạn cũng toi luôn. Tôi lấy lại tư thế nằm bắn. Nhìn thấy mấy chân địch thò ra. Lúc này chúng nó chú ý đến anh em đang nổ súng yểm trợ cho tôi.

Tôi nín thở bóp cò. Hai phát liên tục. Một thằng lăn ra khỏi điểm tựa. Tôi hô to: Hàng thì sống chống thì chết. Bắn luôn hai phát. Hô tiếp: Bỏ thì sống chống thì chết. Bắn thêm hai phát. Hô tiếp. Ba cái đầu nhô lên, sáu cánh tay giơ cao, từng đứa đứng dậy.

Máu trong ngực tôi đang phun ra phía sau lưng. Nếu đứng dậy có thằng phát hiện ra tôi trúng thương sẽ bắn trả. Bắn trả tôi chết chắc.

Tôi tư thế ngồi bắn. Tay ra hiệu ba đứa lại gần mình.

– Giơ tay lên. Bỏ súng xuống. Lại đây!

– Cởi giày. Cởi quần áo!

Tôi bắn hai phát xuống đất, trước mặt chúng.

– Thưa anh, bọn em có một thằng bị thương.

– Một thằng băng bó cho thằng kia. Một thằng lại đây.

Một thằng tiến lại sát trước mặt tôi.

– Mày ngồi xuống. Giơ hai tay lên.

Một tay tôi cầm súng kề dưới nách nó. Một tay tôi vịn vai nó đứng dậy. Lúc này chúng mới biết tôi bị thương.

Tôi nghe rõ tiếng máu mình đang chảy re re sau lưng. Áo mới mặc chưa thấm mồ hôi lần nào, máu chưa ngấm được vào sợi vải nên trôi theo lưng đọng thành cục nằm giữa và một bên thắt lưng.

– Cõng tao lại đằng kia.

Thằng to khỏe cõng tôi. Hai thằng kia dìu nhau đi sau. Bốn chúng tôi đi giữa tiếng đạn không phút nào ngơi giữa ta và địch. Hai bên đang giao tranh giữ dội. Thằng cõng tôi run lẩy bẩy.

– Đi đi, mặc xác nó. – Tôi cố hết sức lên giọng.

Tôi đang kiệt sức dần. Đầu óc choáng váng. Thấy nổ đom đóm mắt nhưng vẫn giả vờ mình không vấn đề gì.

Đi thêm hai mươi mét tôi thấy như không thở được nữa. Tôi thều thào. Mày đứng lại. Nó đứng lại và tôi tụt xuống khỏi lưng, tìm một tư thế khác dễ thở hơn để đi tiếp.

Tay trái bá vai, bụng dựa vào lưng và súng vẫn để nguyên dưới nách nó.

Tay phải luôn để ở vị trí nòng cò, lê xuyên từ nách trái sang nách phải của nó. Khẩu AK báng gấp của Tiệp mới cứng, vừa nhẹ vừa chính xác. Khẩu súng này tôi mới lấy được của địch.

Hai mươi phút sau chúng đưa tôi về đến tận nơi anh em đang nổ súng.

Buổi chiều, khi đến bãi tha ma tôi vừa nổ súng vừa đảo mắt quan sát xung quanh. Phản xạ của lính trinh sát khi đến một địa hình mới. Tôi thấy cách chừng ba trăm mét có nhà chòi của dân giữ dưa hấu.

Tôi nói với anh Quyền cho người lại nhà chòi tháo một đòn tay làm đòn khiêng tôi về đơn vị quân y. Và bảo anh Hường áp tải hai thằng tù binh khỏe nhất đang ngồi dưới hố bom lên khiêng tôi.

Tôi bàn giao nhiệm vụ cho anh Quyền và ba tiểu đội trưởng là Bình, Tưởng, Hùng. Dặn họ cố gắng bắt liên lạc với ban chỉ huy đại đội, tiểu đoàn. Ban chỉ huy đại đội bị lạc khi đi dọc đường phố Tân Qui. Một mình tôi chỉ huy cả bốn trung đội.

Tôi nghĩ mình sẽ không qua khỏi. Muốn nói nhiều hơn nữa. Nhưng rồi ngất xỉu khi nào không biết.

Lúc tỉnh lúc mê tôi nghe tiếng anh Hường đang quát tháo tù binh vì họ kêu đau chân đau vai. Hai tù binh đang khiêng tôi đi. Họ bị lột giày và chỉ mặc quần áo lót.

Tôi thiếp đi.

Trời xẩm tối. Tôi lại tỉnh. Thấy mình đang nằm trong một cái chợ. Xung quanh nhiều người dân.

Một người phụ nữ giọng hốt hoảng: Các chú bộ đội ơi cho tôi tiếp máu người này nhé, người này thiếu máu trầm trọng, yếu quá rồi.

Người phụ nữ mang chai máu khô đến. Cột chai máu vào cái cột đình của chợ. Người dân tản ra để chị thao tác truyền máu cho tôi.

Một bác đánh xe lam đến: Bộ đội cho tôi giúp một tay với. Cần chở thương binh đến bệnh viện nào tôi chở đi.

Anh y tá nghe hợp lý. Bảo bác xe lam chở tôi tới phẫu quân y trung đoàn.

Họ đặt nguyên cả đòn cáng ngang xe lam và mang theo chai máu đang truyền.

Đến nơi họ cáng tôi xuống, đặt ngang trên miệng hố pháo 120 ly của đơn vị hỏa lực vừa rời khỏi.

Anh y tá đi cùng tôi đến đây nói với hai anh vận tải: Các anh khẩn trương đưa anh này lên tuyến sư đoàn.

Hai anh vận tải khiêng tôi chạy. Tôi nằm trên cáng lúc tỉnh lúc mơ. Một tiếng dằn mạnh đau nhói. Từ từ các anh ơi tôi không thở được nữa. Đau quá các anh ơi đau quá các anh ơi. Tôi rên ư ử không thành tiếng.

Một trong hai người nói to. Đừng rên nữa, bọn tao đang cố hết sức đây.

Bất ngờ tôi nằm xoài giữa đám ruộng. Trời mưa, đêm tối. Các anh chạy nhanh quá vấp ngã. Tôi đau điếng. Vừa đau vừa rét. Một trong hai người lại nói: Chú mày thông cảm, đường trơn quá không nhìn thấy gì. Chú mày sẽ được cứu sống, không chết đâu mà lo. Bọn tao đang đi tắt cho nhanh.

Rồi họ lại bước chậm. Họ đang dò đường. Chân người đi trước giẫm phải cái ba lô. Họ dừng lại, lục tìm được tấm ni lông trùm lên người tôi. Tấm ni lông trùm lên tôi ấm hẳn.

Người đi trước nói như reo: Dưa hấu mày ơi, ăn đã.

Đường tắt qua ruộng dưa hấu. Hai người lần nữa thả phạch cáng xuống giữa ruộng. Tôi nói hai anh đặt chiếc mũ lên đầu cho dễ thở hơn, nằm phẳng thế này tôi không thở được. Họ đặt mũ vào gáy tôi. Họ đi tìm dưa hấu. Họ đi tìm dưa hấu ăn trong bao lâu tôi không biết.

– Chết cha không biết thằng thương binh đâu rồi.

– Tao và mày đi tìm hai hướng. Nhớ xát chân vào mặt đất khỏi bước qua cáng mà không biết.

Tôi nghe hai anh nói với nhau mà không sao lên tiếng được. Tôi ở đây. Các anh không tìm được chắc tôi chết ở đây trong đêm nay.

– Ơi thằng thương binh. Mày đang chỗ nào rên thật to lên.

– Bây giờ phải bảo nó rên thật to rồi ghé tai xuống đất nghe cho rõ.

– Ơi thằng thương binh sao khi cần rên mày không rên. Mày rên thật to để tao ghé tai xuống đất xem mày nằm ở góc nào.

Tôi không rên được, không làm sao rên được. Tôi còn sức đâu nữa mà rên hở các anh.

– Ơi thằng thương binh nếu mày chưa chết thì mày cố rên lên để bọn tao còn biết.

Tôi bắt đầu rên được. Tôi rên. Rên to. Bao nhiêu sức dồn hết vào mà rên.

– Hướng này mày ơi.

– Hướng nào?

– Hướng này.

– Hướng này là hướng nào.

– Rên tiếp đi nữa thằng thương binh ơi.

Tôi lịm đi.

Tôi nghe hai cái tát bộp bên tai rồi mở mắt. Tôi đang nằm trên bàn mổ. Bàn mổ là tấm liếp tre trải ni lông dựng lên trên sáu cái cọc tre. Đây là bệnh viện dã chiến cơ động.

– Quần áo đâu?

– Không biết.

– Lấy cho anh ta cái quần đùi.

Anh y sĩ mặc chiếc quần cho tôi. Tôi nhìn thấy đèn măng sông sáng. Hai anh vận tải khiêng tôi đến đây lúc mười giờ đêm.

Và giờ hai anh y tá khác khiêng tôi đến hầm phẫu. Hầm phẫu nửa chìm nửa nổi có treo một chiếc đèn bão.

Trên thảm rơm thương binh nằm san sát. Tất cả đều im lặng.

Tất cả đều im lặng. Tôi cũng im lặng. Nhìn ra ngoài trời đã hửng sáng.

Y tá đặt tôi ngồi giữa hai thương binh. Một người vừa tắt thở. Họ khiêng người đó ra và tôi thay vào chỗ trống.

Đầu óc tôi đã tỉnh táo. Tôi đau không nằm được. Nằm thì không thở được. Cứ ngồi hai tay ôm đầu gối. Buồn ngủ cứ thế mà ngủ.

Lúc này là tám giờ sáng ngày 30 tháng 4.

Trong người tôi lên từng cơn rét.

Tôi nhìn sang người anh đang nằm bên cạnh. Từ khi tôi vào đến giờ anh vẫn ngủ say.

Tôi rét run cầm cập. Nhìn thấy anh đang gối đầu lên cái bọc chiến đấu. Đó là cái bọc của người lính mỗi lần ra trận mang theo bên người. Cái bọc vẫn còn căng. Tôi đoán trong đó có quần áo dài hoặc cái gì đó để đắp. Trên người tôi lúc này vẫn chỉ một chiếc quần đùi.

Tôi lay anh dậy để xin mượn. Lay mãi. Tay tôi sờ vào vai anh. Sao lạnh thế này. Tôi mò xuống tay anh xuống chân anh. Lạnh ngắt. Anh đã chết từ khi nào. Cơ thể đã cứng đi rồi.

Tôi nhìn anh nói nhỏ: Anh ơi ta đều lính cả. Anh đi rồi thì anh có cái áo cái quần dài nào cho tôi. Tôi rét quá. Anh cho tôi xin anh nhé. Nói xong tôi đỡ đầu anh lấy cái bọc.

Trong bọc vẫn đầy đủ các loại đồ phục vụ chiến đấu. Tôi chỉ xin anh bộ quần áo dài. Buộc lại gọn gàng, kê lên đầu cho anh như khi nãy.

Y sĩ đi qua. Tôi báo ở đây có người chết rồi.

Nhân viên đưa cáng khiêng anh đi. Chỗ tôi ngồi rộng hơn một tý.

Mười phút sau y tá lại cáng một người khác nằm xuống chỗ anh. Khiêng một anh thương binh vào, khiêng hai cái xác ra. Chốc chốc lại như vậy. Đơn vị quân y của sư đoàn biết mấy chục cái lán như thế này.

Anh đi rồi. Hai hàng nước mắt tôi đầm đìa. Xót xa đồng đội. Chết cô đơn lạnh lẽo. Anh tên gì quê anh đâu người thân của anh là ai. Đêm qua nếu tôi không may thì cũng giống như anh vậy thôi.

Ba tháng sau bình phục trở về đơn vị tôi được anh y tá cho biết người phụ nữ truyền máu cho tôi là bác sĩ có phòng mạch riêng ở Tân Qui, huyện Hóc Môn. Chị cùng người dân tình nguyện đi cấp cứu thương binh.

Một chiều chủ nhật tôi nhờ anh y tá đưa đến nhà chị nói lời biết ơn người đã cứu mạng.

Chúng tôi đến vừa khi chị đang dắt xe ra khỏi cổng. Anh y tá giới thiệu tôi và nói qua lý do sao chúng tôi lại đến nhà.

Khác hẳn với vẻ hốt hoảng hôm cấp cứu tôi, khuôn mặt chị lúc này nhìn thật xa cách và thờ ơ. Hai anh em tự nhiên lúng túng. Chị nói: các chú bộ đội cứ chờ đây, hoặc đi đâu đó một lúc rồi quay lại, chị lên Sài Gòn có chút việc rồi về.

Ngồi chờ chị ở quán nước sát bên nhà một tiếng đồng hồ chị vẫn chưa về. Chúng tôi phải về đơn vị.

Chủ nhật tuần sau tôi lại đến. Cửa đóng. Tôi sang quán nước hôm trước ngồi. Trò chuyện một lúc người bán nước cho biết chị đã theo đường vượt biên cách đây hai hôm rồi. Chồng chị là đại úy Việt Nam Cộng hòa bị giết năm 1968. Bao nhiêu năm nay chị một mình nuôi con.

23.

Tôi được chuyển về điều trị tại khoa ngoại Viện quân y 175. Làm bệnh án và điều trị cho tôi là bác sĩ Lân.

Qua mười ngày tôi vẫn đang trong tình trạng khó thở. Sức khỏe suy kiệt.

Mỗi buổi sáng bệnh nhân tiêu chuẩn được một cái bánh mỳ và hộp sữa. Sáng nay tôi mệt lả không ăn nổi. Bác sĩ Lân đến tiêm. Mọi khi y tá tiêm nhưng không hiểu sao sáng nay lại là bác sĩ. Rút kim tiêm xong tôi lịm đi không biết gì nữa.

Tỉnh dậy tôi nghe anh bệnh nhân giường bên cạnh tường thuật lại chuyện đã xảy ra với mình. Sau khi tiêm xong tôi không kéo quần lên, không quay người lại, không bỏ chân xuống. Anh sang lắc người tôi nhắc nhở thì biết tôi đã mê man. Anh gọi bác sĩ đang thăm khám phòng bên kia. Các phòng ngăn cách bằng tấm kính nên từ phòng này nhìn rõ sang phòng kia. Các bác sĩ có mặt. Họ lật người tôi lại, đo huyết áp, kéo xem tròng mắt. Không rõ tôi bị sốc thuốc, thuốc quá liều hay vì lý do gì, chỉ biết sau đó bác sĩ Lân tiêm thuốc cho tôi rồi quan sát chờ tôi tỉnh dậy.

Từ hôm đó tôi trở thành bệnh nhân đặc biệt, được bác sĩ Lân quan tâm nhiều hơn những bệnh nhân khác. Mỗi ngày tôi phải tiêm ba lần. Tôi nằm sấp. Bác sĩ Lân chọc một phát kéo ra từ phổi một xi lanh đỏ ngầu máu mủ. Tôi bị tắc động mạch phổi. Đó chính là nguyên nhân khiến khó thở.

Số thuốc tôi phải tiêm và uống trong suốt gần ba tháng nằm viện nhiều không biết bao mà kể. Mỗi ngày ba phát tiêm. Sang tháng thứ ba giảm xuống còn hai phát mỗi ngày.

Bác sĩ Lân hàng ngày xuống thăm, động viên tinh thần tôi. Những hôm không phải phiên trực anh cũng ghé qua vài phút hỏi han dăm ba câu vui vẻ. Tôi cảm nhận được sự quan tâm chân thành anh dành cho mình.

Tôi bắt đầu ngồi dậy rồi đi lom khom. Một buổi chiều ăn cơm xong bác sĩ Lân qua rủ tôi sang nhà chơi cho thay đổi không khí. Ngôi nhà anh ở trong khuôn viên bệnh viện.

Tôi đồng ý đi. Anh dắt tôi từng bước chậm chạp. Một tay tôi cầm nạng một tay dựa vào anh như đứa trẻ lần đầu tập đi.

Ngôi nhà anh thật gọn gàng, ấm cúng. Vợ anh là chị Sâm giọng nhỏ nhẹ từ tốn. Chị pha trà. Đưa ra một đĩa bánh kẹo. Những đứa con đi lại quanh phòng quanh chỗ tôi ngồi nhìn tôi vẻ tò mò và quý mến. Chị giới thiệu mình là nhân viên điều dưỡng bệnh viện Chợ Rẫy. Không khí thân mật buổi tối giúp tôi bớt ngại ngùng khi lần đầu tiên bước vào một ngôi nhà ở Sài Gòn.

Anh dắt vài lần, sau đó tôi tự sang một mình. Nằm viện mãi cũng buồn, tôi lại dậy chống nạng đến chơi với bọn trẻ. Chúng hỏi tôi những câu trẻ nhỏ vốn hay tò mò. Câu nào tôi không trả lời được thì cười trừ.

Một lần chị mang kem cốc ra mời tôi. Tôi xúc một thìa. Kem ngon quá. Tôi định xúc thêm thìa nữa bỗng giật mình cảnh giác. Lỡ người ta bỏ thuốc độc thì sao. Tôi nhớ lời thủ trưởng nhắc nhở hôm ở Tuy Hòa. Bây giờ tình hình đang hỗn loạn khó phân biệt địch ta. Trong lòng tôi xúc động. Trong lòng tôi muốn đón nhận muốn san sẻ tâm tư nhưng phút chốc ấy đột nhiên tôi thả chiếc thìa xuống bên cạnh cốc kem rồi từ tốn nói với chị em ăn thế đủ rồi. Vị kem lạnh lần đầu tiên nếm thử thấm lưỡi tôi tới ngày hôm nay.

Chị Hai – chị gái của anh chị lần đầu tiên gặp tôi đã trò chuyện như quen thân từ lâu rồi. Có lẽ anh chị đã nói sơ qua về tôi cho chị biết.

Chị Hai hỏi tôi ngoài Bắc cung cách làm ăn kinh tế ra sao. Họ cũng là dân Bắc nhưng di cư vào Nam năm 1954. Tôi trả lời rằng chúng tôi làm ruộng, thành lập tổ hợp tác xã. Chị chăm chú lắng nghe tôi nói. Tôi mặc cảm bệnh tật nhưng trong lòng kiêu hãnh là anh bộ đội giải phóng. Tôi trả lời rành rẽ những thắc mắc của chị về bà con ngoài Bắc.

Ngoài Bắc làm ăn theo kiểu gì là câu tôi được nghe những người Sài Gòn hỏi thêm nhiều lần sau đó nữa. Một người phụ nữ đã chê cười khi nghe tôi nói ngoài quê mình làm ăn theo cung cách hợp tác xã.

“Chú này, nếu làm như vậy thì đầu óc con người ta ngày càng ngu đi nhỉ”. Tôi nóng mặt vì tự ái. Tôi điềm đạm trả lời: “Cái đó là tùy suy nghĩ của chị thôi. Ngu hay không là tự cá nhân đó phát triển hay không”.

Chị tiếp tục: “Đó là chú bảo thủ. Riêng quan điểm tôi cách thức làm ăn như vậy là không tự do phát triển. Đợi đội trưởng đánh kẻng rồi dân mới cầm cuốc mang cày đi. Đội trưởng chưa đánh kẻng thì ngồi ở nhà chờ. Ngoài làm ruộng ra không biết mở rộng ra làm kinh tế thì làm sao phát triển”.

Tôi kiềm chế. Mình là bộ đội. Họ là dân. Bộ đội với dân như cá với nước, mình phải giữ lời ăn tiếng nói để đi dân nhớ ở dân thương, dù lý do gì thì gây hiềm khích là không nên.

Có chỉ thị các gia đình cán bộ không được ở trong khu vực bệnh viện nữa. Gia đình bác sĩ Lân đi tìm mua nhà ngoài phố. Anh bảo tôi cùng đi xem một ngôi nhà dự tính sẽ mua. Tôi nói, anh tin tưởng, tôn trọng thì nói thế chứ em ở quê vào rừng đánh trận rồi trên rừng về đây biết gì chuyện mua bán.

Chị thuyết phục tôi đi cùng anh. Chị nói có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm.

Thật sao, có tôi đi cùng anh chị mới yên tâm? Tôi cảm thấy sự khách sáo trong câu chị nói. Tôi đang buồn, được đi ra ngoài thì vui. Đây cũng là dịp được thăm thú Sài Gòn.

Ngôi nhà hai tầng khang trang lộng lẫy. Vừa đặt chân vào tôi thấy choáng ngợp. Đây là phòng khách, đây phòng ngủ, đây phòng bếp, đây phòng vệ sinh. Tôi đi theo anh chỉ dẫn. Hôm ở Tây Nguyên học về chính trị chúng tôi đã được cho biết rằng trong Sài Gòn làm nhà cao tầng vì đất chật hẹp chứ không rộng rãi như ngoài ta. Trong kia hào nhoáng giàu có là vẻ bên ngoài. Vẻ hào nhoáng đó là do đế quốc Mỹ đầu tư. Tôi nghĩ tới lời cảnh tỉnh đó nên nhanh chóng lấy lại sự thăng bằng. Anh nói giá nhà là bao nhiêu cây vàng gì đó rồi hỏi ý kiến tôi ra sao. Tôi trả lời thật bình thản, ngôi nhà này cũng tuyệt vời đấy, có ưu điểm gần bệnh viện anh đi làm.

Mấy hôm nay bác sĩ Lân trầm ngâm, buồn bã. Anh đến giường bệnh tôi ngồi. Hai chúng tôi đi dạo quanh khuôn viên bệnh viện.

– Anh nghe đài thành phố nói liên tục không?

– Tôi có nghe liên tục.

– Anh sĩ quan quân hàm đại úy anh phải chấp hành. Anh nên ra đăng ký tại phường. Người ta yêu cầu anh làm đơn gì anh làm nấy, yêu cầu anh đăng ký tên tuổi thế nào anh cứ làm như thế. Anh là bác sĩ quân y. Anh chữa bệnh cho quân nhân. Không việc gì phải sợ. Học tập cải tạo vài năm anh về.

Ngày tôi ra viện chị Sâm đưa một túi bánh kẹo, thuốc lá đến chia tay tôi.

Cảm ơn gia đình chị. Em chỉ xin một gói kẹo và một gói thuốc mang về làm quà anh em ở đơn vị. Còn lại em xin phép không nhận. Bọn em đời lính không được dùng những khoản này. Em mang về rồi đơn vị họ cho rằng em lấy khi đang đánh nhau. Đó chính là chiến lợi phẩm. Mà là chiến lợi phẩm thì thuộc vào mồ hôi xương máu của đồng đội đã ngã xuống. Quan điểm chúng em dùng những thứ này là có tội với đồng đội. Nếu chị có lòng thì đợi khi ra quân chị cho bao nhiêu em cũng lấy.

Tôi về Tây Nguyên nhận được thư chị. Chị hỏi thăm vết thương tôi thế nào rồi, đã về Bắc chưa, bọn trẻ và chị Hai ở đây luôn nhắc tới tôi và mong sớm có ngày gặp lại. Cuối thư chị báo tin anh Lân nghe lời tôi đã ra phường đăng ký và hiện đang đi học tập cải tạo.

Tôi chưa kịp viết thư trả lời thì chục ngày sau nhận tiếp được lá thư nữa. Chị cho tôi địa chỉ nơi anh đang học tập cải tạo, mong tôi viết thư động viên anh.

Lá thư tiếp nữa. Tôi nghĩ ra từng lời thật mạnh mẽ động viên chị. Chị viết thư trả lời ngay khi nhận được thư tôi. Tôi cảm nhận được cái gì đó gấp gáp mà chị khó nói ra.

Tôi chỉ là một thằng lính. Tôi chỉ biết tới vậy thôi. Tôi không muốn chị buồn. Tôi không biết nói gì. Tôi ngại ngùng. Chị viết thư lên tôi im lặng.

Lá thư cuối cùng tôi nhận được viết ngày 8 tháng 12 năm 1975.

“Anh đã đi tập trung cải tạo từ ngày 23/6 đến nay gần sáu tháng chưa được về. Chị vừa làm việc vừa nuôi các cháu vừa lo không biết sức khỏe anh ra sao. Chị và chị Hai cứ gầy mòn đi. Tại tính đàn bà hay lo. Vả lại từ trước tới nay sum họp một nhà quen rồi, bây giờ xa cách không gặp được mặt nhau là chị lo nghĩ liên miên mất cả ăn ngủ nên gầy mòn chứ chị được biết chính quyền cách mạng khoan hồng, cho cơ hội cải tạo và lo cho áo cơm đầy đủ chị cũng vững tin.

Gia đình chị có ông chú ruột hiện là Đảng viên – cán bộ giáo dục, cơ sở hoạt động cho cách mạng tại Nam Việt Nam từ 1945 tới nay. Anh đã tận tình giúp đỡ cho gia đình chú trong hai lần bị bắt tù đày Côn Đảo. Chú chị có làm giấy bảo lãnh cho anh và kêu theo đơn xin của chị có thị thực chính quyền địa phương đầy đủ. Không biết đơn có được cứu xét hay không mà hai tháng nay chị chưa được thư anh. Em có thể viết thư thăm anh được không? Nếu được lá thư của em sẽ là nguồn an ủi lớn cho anh đó.

Các cháu đi học cả rồi và học giỏi nữa. Các cháu rất nhớ chú Ngọc và mến yêu chúc chú sớm được sum họp gia đình – cũng như các cháu hằng mong tin ba Lân vậy.

Chị cầu xin ơn trên cho anh, chị, chị Hai và các cháu sẽ được cùng em họp mặt trong một bữa cơm gia đình thân thiết.

Chị Sâm”.

24.

Những ngày nằm viện mệt mỏi, chán chường. Nhờ quen được gia đình bác sĩ Lân thỉnh thoảng có người trò chuyện cũng khuây khỏa chút nào. Nhưng đến nhiều tôi cũng ngại.

Phòng bệnh tôi ở tầng hai. Hàng ngày cứ chống nạng đi từ tầng hai xuống tầng một. Rồi từ tầng một leo lên tầng hai. Hôm nào khỏe hơn thì mon men ra ngoài cổng viện đứng nhìn đường phố.

Đường phố ồn ào nhộn nhịp đối lập với tâm trạng bơ vơ lạc lõng. Bao nhiêu năm xông pha trận mạc bị thương chân thấp chân cao vẫn lao vào trận địa mà giờ hom hem yếu ớt. Sức khỏe thế này rồi không biết còn làm được gì nữa.

Nằm viện một tháng rồi đơn vị không biết. Sau này tôi mới biết đơn vị đã ghi tôi vào danh sách liệt sĩ. May là họ chưa gửi giấy báo tử về quê. Cuối ngày 29 tháng 4 y tá đại đội và ban chỉ huy đại đội nhìn sắc mặt và thể trạng tôi khi đưa lên xe người dân đi cấp cứu họ nghĩ rằng tôi không thể qua khỏi. Khi tôi về đơn vị thì quân trang tôi người ta mang đi. Cuốn sổ giấu trong đáy ba lô mang theo bên mình hơn bốn năm qua cũng bị lấy mất.

Cùng phòng bệnh tôi có anh Lạc người Hà Bắc. Anh bị thương đã bình phục nhưng chưa ra viện. Ngày nào anh cũng đi chơi. Sáng đi tối về. Ra đi tay không nhưng lần nào về cũng mang theo một túi quà. Anh nói bà con ngoài Bắc của anh trong này nhiều. Quen người này họ lại giới thiệu anh cho người khác. Anh đến chơi từng nhà. Tôi chẳng ham quà cáp gì nhưng nhìn anh đi đi về về vui vẻ tôi thèm lắm.

– Anh cho em đi theo với.

– Đi làm gì?

– Ở nhà bồn chồn.

– Ờ, ngoài cổng viện tao có bà đồng hương.

Anh dẫn tôi sang bên kia đường. Hai anh em vào một hàng quán ngồi. Chủ quán là bà cụ nhìn hiền hậu, gần gũi. Anh giới thiệu tôi là bạn điều trị cùng phòng. Ngồi chơi độ chục phút thấy anh nói nhỏ câu gì đó với bà chủ quán và quay sang bảo tôi cứ ở đây chơi chờ anh trưa về.

Gọi là quán nhưng chỉ là bàn ghế đặt ở bên hiên ngôi nhà nhỏ. Trên bàn bày bán một ít kẹo bánh và trái cây xoài, cóc.

Bà cụ hỏi chuyện tôi vài ba câu lấy lệ.

Tôi ngồi lặng lẽ. Nhìn ra đường phố. Thằng Pháp rút về để lại nhiều lợi thế cho thằng Mỹ. Thằng Mỹ tiếp tục đầu tư tô thắm cho thành phố này ngày thêm hiện đại để mua chuộc người dân đi theo. Thành phố đẹp nhưng lòng người bị chia cắt. Thật là buồn và đáng tiếc biết bao. Tôi miên man nghĩ.

Anh Lạc vẫn chưa về. Tôi ngồi lâu sốt ruột lắm rồi. Nghĩ đi nghĩ lại cũng chẳng có gì mới mẻ hơn. Tôi muốn về nhưng một mình không dám sang đường. Bước chân tôi đang run, đường thì đông. Tôi không dám.

– Anh ơi vào đây.

Một cô gái ngồi trong nhà, ghé mắt qua cửa sổ vẫy tay tôi. Tôi quay lại. Cô nhìn tôi cười làm quen.

Bà chủ quán giới thiệu đó là cháu ngoại bà.

– Vào đây nói chuyện với em.

Cô gái bước ra kéo tay tôi đi vào không để cho tôi do dự.

Cô gái học sắp xong lớp 12.

Em sống với bà ngoại từ khi hai tuổi. Mẹ ở Đà Nẵng với các em. Ba là sĩ quan Cộng hòa.

– Giờ anh ở lại ăn trưa với em và bà. Em nấu cơm xong rồi.

– Anh không ăn. Anh có tiêu chuẩn cơm trong bệnh viện. Giờ em sắp xếp làm sao đưa anh sang đường anh về.

– Em không đưa được. Anh Lạc dặn anh chờ. Em mà tự ý đưa anh về là bị mắng.

Tôi đành phải nán lại chờ anh Lạc. Rời rạc trả lời từng câu hỏi của em. Cô gái ngay lần đầu gặp tôi đã cảm mến nhưng vì lúc này tôi mệt quá. Tôi đói hoa mắt.

Đến một giờ rưỡi chiều anh Lạc mới về. Em dọn cơm ra mâm. Anh Lạc bảo tôi ngồi xuống ăn nhanh còn về.

“Có thuốc độc không?”, tôi ghé tai anh Lạc hỏi thầm. “Tầm bậy. Bà già đồng hương. Bà nhận tao là con tinh thần. Tao ăn đây nhiều bữa rồi”.

Lần đầu tiên đi ra ngoài bệnh viện. Cô gái xa lạ mềm mỏng thế kia. Tôi dặn mình không được chủ quan. Nhưng đói quá rồi, tôi đưa bát cho anh Lạc xới cơm.

Hôm sau tôi lại theo anh Lạc ra quán bà cháu ngồi. Anh Lạc đi, mình tôi ở lại.

Anh quê ở đâu? Đi lính thế nào? Bao giờ anh về thăm mẹ?

Cô gái hỏi. Tôi trả lời. Trả lời kỹ càng, chân thật cho đến khi nào cô hết thắc mắc.

– Anh uống nước nhé?

– Em gọt xoài cho anh ăn nhé?

Tôi lắc đầu. Tôi bớt đề phòng rồi nhưng người vẫn đang mệt, không muốn ăn uống gì. Từ 53 kg tôi lúc này còn 36 kg. Chân tay nổi gân xanh. Đi chống nạng. Ngực quấn băng. Diễn đạt từng câu chậm chạp.

– Anh vào giường nằm nghỉ một chút đi.

Tôi vào giường nằm. Thấy mình yếu đuối như đứa trẻ.

– Em đọc sách cho anh nghe nhé.

Cô gái mang sách ra đọc. Một cuốn tiểu thuyết. Tôi nằm mơ màng. Em kéo ghế ngồi sát bên. Tôi nghe. Chẳng biết em đang đọc gì. Tiếng cô gái Sài Gòn nhỏ nhẹ êm ru.

– Em đọc thế này anh có hiểu không?

– Có. Nhưng em đọc chậm hơn một chút được không.

– Anh Lạc về rồi. Mai anh ra em đọc tiếp nhé.

Ngày hôm sau trời mưa tôi không ra. Buổi tối anh Lạc đi chơi về đưa cho tôi một mảnh giấy. Mày có thư này.

Mảnh giấy viết một mặt, mặt kia gấp lại thay phong bì thư.

“Anh thân! Mấy ngày tâm sự với anh cảm thấy rất vui. Hôm nay anh không ra cảm thấy nhớ. Em mong anh chóng lành bệnh và thường xuyên ra tâm sự để em hiểu được miền Bắc là thế nào và xã hội chủ nghĩa là thế nào”.

Tôi đã đỡ mệt, có thể nói chuyện được nhiều hơn mấy hôm trước. Em ngồi bên tôi lắng nghe như cô học trò ngoan.

Thế nào là xã hội chủ nghĩa? Xã hội chủ nghĩa là một xã hội do một Đảng lãnh đạo. Xã hội chủ nghĩa miền Bắc giống như xã hội chủ nghĩa thế giới nói chung. Hiện nay trên thế giới có 100 nước xã hội chủ nghĩa. Đều là những nước lớn, ví dụ như Liên Xô, Trung Quốc.

Xã hội chủ nghĩa miền Bắc cung cách làm ăn như thế nào?

Xã hội chủ nghĩa có xã, phường, tổ… với những tên gọi khác nhau nhưng đều là những tổ chức giúp cho chính quyền đứng vững. Xã hội chủ nghĩa ngoài miền Bắc bắt đầu từ đội sản xuất, sau đó là hợp tác xã sản xuất. Những đội sản xuất tập hợp lại thành một hợp tác xã. Trong hợp tác xã có hợp tác xã chăn nuôi, hợp tác xã nông nghiệp, hợp tác xã công nghiệp.

– Hợp tác xã công nghiệp làm gì?

– Hợp tác xã công nghiệp ở địa phương anh chưa có. Địa phương anh chưa có nhưng nơi khác có rồi.

– Lứa tuổi như bọn em rồi sẽ làm thế nào và được làm gì?

– Lứa tuổi bọn em học hết cấp ba thì thi vào trung cấp, cao đẳng, đại học theo khả năng và lựa chọn. Thi đỗ trường nào thì học trường đó. Học xong đi phục vụ đúng theo nghề mình đã học.

– Cụ thể giờ em nên làm gì?

– Em phải phấn đấu vào đoàn thanh niên cộng sản.

– Đoàn thanh niên cộng sản là thế nào?

– Đoàn thanh niên cộng sản giống như trong này gọi là đoàn thanh niên cộng hòa. Là đầu tàu gương mẫu. Ví dụ trong phường ta có 100 hộ. Thành lập ra hai chi đoàn. Năm mươi người trong một chi đoàn thì chọn ra một người sáng suốt nhất, nhanh nhẹn nhất, tháo vát nhất làm phân đoàn trưởng. Đoàn viên có nhiệm vụ làm những việc khó. Xem tổ dân phố cần giúp gì thì giúp.

– Riêng em cần phải làm gì và được làm gì?

– Em phải là người tiên phong, gương mẫu. Tình nguyện làm việc khó. Tình nguyện gánh vác việc gì đó mà xã hội đang cần.

Em không hỏi nữa. Trầm ngâm một lúc rồi bảo: Em đọc sách cho anh nghe tiếp nhé.

Em đã nhận một lá thư tôi viết. Em nói chữ tôi viết hơi nhỏ, khó đọc. Nhìn nét chữ anh em thấy số vất vả. Thư anh viết cũng không được văn chương cho lắm.

Hôm sau em rủ tôi đi dạo phố.

Đi với em đằng này một chút. Em chủ động khoác tay tôi.

Ở ngã ba Gò Vấp có một cửa hàng chụp ảnh. Em kéo tôi vào xem. Em chỉ từng bức ảnh chụp các đôi lứa treo trên tường.

– Đẹp không anh?

– Đẹp.

Chỉ vào bức ảnh khác.

– Đẹp không anh?

– Đẹp.

– Đẹp không anh?

– Đẹp.

Chúng tôi ra khỏi cửa hàng.

– Đi cùng em lại nhà đứa bạn để mượn sách.

Em lại khoác tay tôi. Em nói mình giờ chỉ còn người bạn gái thân này.

Ngôi nhà hai tầng có giàn cây xanh um tùm.

– Anh ngồi đây chờ em xíu.

Em leo lên cầu thang ngoài rồi mất hút phía sau. Tôi không biết em đi đâu.

Tôi ngồi ở ghế chờ ngoài hành lang. Có lẽ đây là sảnh một phòng khách sang trọng. Phòng khách đóng cửa. Im vắng.

Trời đột ngột đổ mưa rào. Tiếp theo là những tiếng súng nổ rất gần. Tiếng súng như phát ra từ con ngõ bên ngoài. Quán tính người lính khiến tôi rùng mình. Tôi không có súng trong người, sức đang yếu, giờ ai nhảy ra bóp cổ mình cũng không chống cự được. Tôi bất cẩn quá, mất cảnh giác quá khi đi theo cô gái này tới đây. Kiểu này lại chết vô danh rồi. Tôi thấy mình thật ngớ ngẩn.

Em chạy vụt về giữa mưa. Tóc ướt đẫm.

Em kéo tôi lại cuối hiên nhà rồi ôm chặt tôi.

– Anh có sợ không?

– Anh có sợ.

Ngày mai tôi ra viện. Đơn vị đã biết tôi còn sống.

Tôi trở về đơn vị tiếp tục nhận nhiệm vụ lên Tây Nguyên chiến đấu với Fulro.

Bà ngoại nói, cháu đi rồi cố quay trở lại chơi. Quen nhau rồi giờ xa cách buồn.

Em hỏi khi nào anh trở lại.

Anh không biết.

Tôi còn ở Sài Gòn một tháng nữa mới lên Tây Nguyên. Ở cách bệnh viện mười lăm cây số. Tôi muốn tới thăm em nhưng không đi được. Mỗi tuần chúng tôi chỉ được ra ngoài một tiếng đồng hồ vào chủ nhật. Nhưng đó không phải là lý do chính. Lý do là tôi không có xu nào trong người. Không có tiền làm sao dám đi thăm bạn gái.

Tôi lên Tây Nguyên. Muốn viết thư về cho em nhưng không biết viết thế nào. Chữ tôi xấu. Không biết cách diễn đạt. Tôi ngại.

Cuối tháng 12 năm 1975 tôi viết thư nhắn qua chị Sâm nhờ chị hỏi tin về em. Chị Sâm viết thư lên báo tin cô gái ấy đã đi dạy học tình nguyện ở Tây Ninh. Nơi cô dạy là một huyện giáp với Campuchia.

Nhận được tin tôi xót xa. Mỗi ngày tôi lại cầu mong em bình yên. Nhớ lại buổi trò chuyện hôm nào lòng tôi day dứt.

Cuối năm 1976 tôi được phép về quê.

Tôi rời nhà đi chiến trường đã năm năm.

Vườn hoang, ngôi nhà trống không ọp ẹp. Em gái đi ra Bắc học nghề. Chỉ còn mẹ già yếu ở một mình. Cảnh nhà thế này sao tôi bỏ mẹ mà đi được. Tôi vào đơn vị làm thủ tục ra quân. Về nhà chặt tranh tre cuốc xới vườn dựng lại nhà cùng mẹ kiếm bữa ăn qua ngày.

Những lá thư của em giờ tôi mới đọc. Em gửi thư về cho tôi qua địa chỉ của mẹ ở quê.

Đêm khuya mẹ đã ngủ giấc bình yên khi con trai nguyên vẹn trở về. Tôi mở từng lá thư. Nước mắt tôi chảy tràn. Tuổi trẻ của tôi đâu ai đã cướp đi tuổi trẻ của tôi.

Sài Gòn ngày 29.7.1975

Anh đi ngót hai tuần rồi mà em không nhận được một lá thư.

Em thiệt là khổ tâm khi gửi thư cho anh mà phải nhờ qua địa chỉ của mẹ anh. Thiệt là khó khăn cho em quá. Ở hoàn cảnh của em thì anh nghĩ làm sao?

Anh đang buồn hay đang vui? Buồn hay vui thì cũng quay lại thăm em anh nhé.

Ở đây em buồn nhiều. Bạn bè chỉ có một đứa bạn gái thân. Gia đình thì bị xuyên tạc. Tiền bạc eo hẹp. Bà thì ngày càng già yếu.

Em chán đến độ muốn đi tu để dứt hết mọi khổ tâm. Em tin tưởng phật. Phật cứu rỗi ta lúc khổ đau.

Khi em nói chuyện muốn đi tu anh đã khuyên em nên vì gia đình, vì xã hội mà đừng bỏ hết. Gác hết sự đời mà đi tu thì không tốt. Em quý trọng lời anh vô cùng.

Sài Gòn ngày 20.8.1975

Tại sao ba mẹ bỏ rơi em? Vì nghèo quá không nuôi được em hay vì lý do gì khác? Em có ba mẹ mà không cảm nhận được tình thương yêu của ba mẹ dành cho mình.

Lá thư thứ hai em viết cho anh. Lá thư trước anh đã nhận được chưa mà sao không hồi âm cho em. Em lo lắng quá, không biết anh thế nào. Trả lời gấp cho em anh nhé.

Ở quê anh có mẹ già. Anh thật hạnh phúc khi có mẹ yêu thương. Mẹ đã khóc thương anh khi anh ở xa làm nhiệm vụ người lính. Giờ anh đã về với mẹ, với làng quê nghèo khổ nhưng nhiều tình yêu thương.

Em là con gái thị thành không biết làm ruộng. Gia đình anh có chấp nhận một người như em không?

Sài Gòn ngày 15.10.1975

Đây là lá thư thứ sáu em viết cho anh rồi.

Anh đã hiểu hoàn cảnh gia đình em. Những lời chê cười, đàm tiếu của thiên hạ không làm em sợ. Em có làm gì xấu đâu mà phải sợ.

Quen một người như em anh có sợ bị ảnh hưởng danh dự không? Bạn bè sẽ nghĩ gì và anh sẽ trả lời với họ ra sao?

Tại sao em và anh quen nhau? Có phải do chiến tranh mà quen nhau không? Chiến tranh đã gây tang tóc cho quê hương anh và quê hương em miền Nam. Giữa hai miền Nam Bắc sau này em mong đừng bao giờ còn cảnh máu thịt tuôn rơi.

Lòng em xót xa.

Em biết anh là người tốt. Con người đạo đức không lấy cảnh đau của người khác mà làm vui cho mình.

Quê hương thanh bình anh sẽ bớt cực khổ. Mẹ anh sẽ không phải sống cảnh xa con trai nữa. Những người làng quê anh không còn đau khổ.

Anh khuyên em tương lai là ở tuổi trẻ nhưng bây giờ em thấy cuộc đời mình vô vị. Em muốn dứt xã hội. Em muốn tránh xa loài người độc ác.

Sài Gòn ngày 20.10.1975

Em muốn báo cho anh một tin vui, là em vừa nhập đoàn thanh nữ sáng nay. Em muốn gánh vác một phần nào công việc xã hội.

Nhận được thư lần này anh hãy trả lời gấp cho em nhé.

*

Người đàn bà trườn bên bờ sông. Người đàn bà chửa với cái bụng kềnh càng. Chị kia sao vậy. Người đàn bà hành động nhanh hơn. Chị muốn chết sao. Chị đã lăn từ trên bờ xuống bãi.

Anh chạy vào nhà mở ba lô lấy tăng võng. Chị đã sổ ra, trên tăng võng vừa trải.

Anh chặt cây tre làm đòn cáng. Tìm thêm người khiêng mẹ con về trạm xá. Anh mang tăng võng ướt đẫm màu máu và nước ối ra sông. Tại sao là chuyện như thế này xảy ra trong buổi sáng anh trở về?

Người đàn bà từ nơi nào đến không ai hay. Hai ngày sau chị bỏ đi. Đứa con ở lại. Một người lính nhận làm cha. Bên sông Ngàn Sâu, con lớn lên cùng dân làng.

*

Năm 1982 chú vào Sài Gòn. Chú đến khóm 5 Gò Vấp tìm ngôi nhà cũ. Nhà cũ vẫn ở đó, chưa thay đổi gì. Bà ngoại đã mất. Cô ấy đi dạy ở Tây Ninh một năm phải về vì chiến tranh biên giới. Đến năm 1979 có người bảo lãnh cho sang Pháp.

Tiếp chuyện chú lúc này là người mẹ. Ba của cô vẫn đang ở trại cải tạo Tây Ninh. Chú xin hỏi có cách gì để liên lạc với cô ấy. Người mẹ nói, không quen nhau nữa thì thôi, phong tục tâp quán trong này là vậy. Chú ở lại Sài Gòn thêm thời gian nữa tính kế mưu sinh nhưng không dễ dàng, trở về yên phận làm người nông dân. Nhà bên sông Ngàn Sâu mỗi năm mấy đợt lũ tràn về.

Chú không còn nhớ gì nữa. Không còn nhớ được gì nữa. Những lá thư này. Khuôn mặt ánh mắt này. Chiến trường. Xác chết. Đường số 7.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét