MIỀN CỎ TƠ
Dương Thu
Hương
Trân bỏ thêm một cành củi khô vào đống lửa. Một nhành trầm bầu còn dính những chiếc lá lăn tăn khô xác. Ngọn lửa liếm vào cành trầm bầu, hực lên liền. Thứ cây này đốt thiệt dư. Xung quanh anh, trên cái nền nhà trống, trên lối cát và miệt vườn hoang đằng kia còn rải rác nhiều củi. Có thể đốt suốt đêm nay cũng không hết. Trận bom cuối cùng trước ngày hoà bình đã phạt trụi những rặng trầm bầu. Cành lá chúng rơi xuống, gió thổi khô đi, còn mãi cho đến giờ.
Trân biết rõ những cây trầm
bầu đó từ hồi thơ ấu, anh cúi nhặt chiếc que sắt dưới chân, cời lửa: đó là chiếc
que thông nòng đã cong queo, không biết ai bỏ lại. Lòng tro rỗng thành một khoảng
trống, gió lùa vào và ngọn lửa bốc lên. ánh lửa soi lên mặt anh, ánh lửa lay động
trên khoảng đất làm trống trải, trên những lùm lá sòi dại và vài ngọn rau dừa
còn sống sót. Cuối cùng, ngoài xa kia - nơi luồng ánh sáng rực rỡ chỉ còn là những
làn sóng mờ run rẩy là một mái nhà tranh nằm im lặng, mảnh tôn ghép tường chốc
chốc lại rạng lên một lằn trắng chập chờn.
Từ căn nhà ấy một đứa bé tí
tới phía anh, tay nó cầm cây đèn sắt.
- Thưa chú, cho con xin chút
lửa.
- Lại đây.
Thằng bé đến gần, chìa cây
đèn ra. Trân châm lửa cho nó. Gió dữ quá, ngọn lửa tắt mấy lần. Ðèn cháy rồi,
thằng bé lễ phép chào anh:
- Con xin cảm ơn chú.
Một tay khum khum che cổ
đèn, nó thận trọng đi về phía nhà mình. Trân nhìn theo, anh nhận thấy dáng điệu
của đứa bé thật cẩn trọng và khôn ngoan. Nó gầy, mặc chiếc quần đùi ngắn cũn cỡn.
Hình như nó có một mụn ruồi nơi đuôi mắt trái, anh thoáng nhận ra điều đó khi
ngẩng lên đưa lại cây đèn...
Một đứa con trai!
Trân bóp cánh tay cụt và
nhìn ngọn lửa nhảy nhót.
Một đứa con trai! Anh đã từng
có một đứa con trai lanh lợi, có làn môi đỏ au và một mụn ruồi nơi
đuôi mắt phải. Nó thường mặc quần cụt màu mận tím và chiếc áo thun xanh kẻ sọc.
Khi vợ Trân còn chung tình với
anh, đứa con nhỏ thường đeo lấy cổ bố và nói những lời ngọt ngào. Gian nhà nhỏ
tối om vì tắt hết đèn chỉ có tiếng đứa con nhỏ và lời thầm thì của người vợ
vang lên. Chốc lát người mẹ lại bảo đứa con:
- Khẽ chứ, khẽ chứ, ông kẹ bắt
bây giờ...
Nhưng ông kẹ cũng không làm
cho đứa trẻ sợ hãi, nó ôm chặt lấy cổ bố ríu ran. Thật là một điều lạ lùng, những
đứa con sớm xa bố thường ít chịu nhìn nhận hoặc bày tỏ tình cảm với cha chúng.
Nhưng con anh càng xa cách nhiều lại càng nồng nhiệt trong những giây phút gặp
gỡ hiếm hoi. Phải chăng trong đầu óc non nớt của nó, đã sớm có những ý thức về
tình phụ tử. Cũng có thể ngay từ buổi ban đầu, giữa hai cha con đã nảy sinh một
mối tương giao khó giải thích. Trân thường ôm con vào lòng, sờ nắn chân tay, áp
khuôn mặt nhỏ bé vào mặt mình, ngửi mùi thơm da thịt, hít hơi thở thân quen của
đứa trẻ. Ðôi lúc ánh đèn bên ngoài lại lọt qua khe cửa soi vào mặt thằng bé và
Trân lại nhìn thấy đôi mắt long lanh của nó với mụn ruồi, mụn ruồi xinh xẻo nơi
đuôi mắt phải.
- Ba ơi, bao giờ ba lại về?...
Thằng nhỏ áp miệng vào cổ
anh nói thầm, tay nó lùa lên tóc cha gỡ những mảnh đất khô. Trân ôm con, xoa tấm
lưng gầy của thằng nhỏ. Tay anh lần từng đốt xương sống rồi vuốt ve mãi cặp
mông bé tí teo ...
Vợ Trân đã bỏ anh. Ðó là một
người đàn bà xinh đẹp mà suốt thời trai trẻ anh say mê. Cô ta tuy gốc gác là
gái quê nhưng rất trắng. Khuôn mặt khả ái, cặp mắt một mí có làn mi cong, đôi
môi chín mọng lúc nào cũng như he hé mở. Hồi còn con gái, cô cũng yêu Trân đắm
đuối. Hai người sung sướng mà lấy nhau, không một chút đắn đo, như mọi lứa đôi
khác ở cái tuổi hai mươi và nghĩ rằng tình chồng vợ sẽ bền chặt đến trọn đời.
Mấy năm đầu tiên khi Trân đi
hoạt động, mọi sự vẫn như thường. Một hai tháng anh lại tạt về nhà, cô vợ chuẩn
bị sẵn cho chồng dăm tút thuốc với nửa cân đường phèn. Lúc chia tay hai người bịn
rịn đến cả giờ đồng hồ không thể rời nhau. Nhưng rồi Trân phải đi xa. Và cuộc sống
có nhiều biến động mới. Thôn làng anh đã thành thị hoá. Ðất đai, vườn tược biến
mất, chỉ còn một vành cát trắng trơ trụi. Dân làng, những người không đi theo
cách mạng lên xanh hoặc không bị bắt lính đều bạt ra các thị trấn làm ăn. Vợ
anh xin được môn bài bàn hàng tạp hoá, cô mở tiệm và dần dần khá giả. Ðầy đủ,
an nhàn, cô trẻ đẹp lên nhiều, có phần còn mỡ màng hơn hồi con gái. Vợ Trân để
kiểu tóc khác xưa, mặc những bộ quần áo tân kỳ. Tụi sĩ quan và lính tráng Ðông
Hà gọi cô chủ tiệm đồ tạp hoá là: Nàng búp bê Nhật Bổn. Chúng lượn quanh nàng
như những vệ tinh.
Thế rồi, việc gì đến nó sẽ tự
đến. Tên thiếu tá an ninh mê vợ Trân. Y ba mươi hai tuổi, gốc người Huế, đẹp
trai và lịch lãm. Cô vợ Trâm chống cự không nhiều nhặn gì lắm và thực tâm cũng
có ưng thuận y. Một bên, là người chồng đi biền biệt hàng năm không thấy về, mặt
mày hốc hác, áo quần đầy bụi đất hôi hám. Một bên, là người tình trẻ đẹp, lịch
sự hào hoa, đầu tóc mượt mà thơm nức, luôn luôn đến và đem theo mọi thứ chiêu
đãi vật chất cũng như tinh thần. Một bên, là những kỷ niệm của tình đầu trong
trắng, tuy êm đềm đẹp đẽ nhưng đã lùi vào quá khứ xa xôi. Một bên, là những đam
mê sôi sục, đầy ma lực gắn liền với những đòi hỏi cấp thiết trong đời sống hiện
tại...
Ngọn lửa đã thôi reo phần phật,
nó chỉ còn cháy lom đom. Những cục than hồng phủ một lớp tàn trắng mịn. Trân đứng
dậy lượm vài cành củi khô xếp lên và thổi cho bếp lửa bùng cháy. Anh rất thích
nhìn ngọn lửa đỏ rừng rực, hắt lên một quầng sáng ấm áp và vui tươi. Những năm ở
rừng anh đã quen đốt lửa vào những đêm đông và cả những đêm hè. Từng thân gỗ to
một người ôm chụm lại, chúng cháy từ chập tối tới mờ sáng tinh mơ mới hết. Trân
thường ngồi một bên, lâu lâu lại đẩy củi vào, ngọn lửa nhảy múa trước mặt anh,
tạo thành những hình ảnh và màu sắc kỳ lạ, Khi thì nó có màu đỏ, khi vàng, khi
gần như trắng. Ðôi khi ngọn lửa có cái lõi màu lam. Lúc đó anh biết rằng trong
đám tro có lẫn một chiếc vỏ đạn đồng.
Kể từ ngày giải phóng đến
hôm nay anh mới lại được ngồi trước một đống lửa, trong cái đêm yên ả như thế
này.
Có người nào đó đang đi tới
từ phía căn nhà nhỏ trước mặt Trân. Một người đàn bà. Trong ánh lửa chập chờn
trông thân hình chị như bị vuốt dài ra. Những nếp áo dưới luồng ánh sáng mờ
rung rinh vây phủ trở nên óng ánh như may bằng một thứ nhung tơ. Người đàn bà
thon thả bước, mỗi lúc nhìn chị một rõ hơn. Ðó là một phụ nữ trạc ba mươi tuổi,
dáng mảnh dẻ nhưng rắn chắc. Chị mặc một chiếc áo xanh, màu xanh lá khiến Trân
có cảm giác như chị bước ra từ một khu rừng chứ không phải từ một thôn đã bị
tàn phá trơ màu cát trắng.
Người đàn bà bước đến trước
mặt Trân, cúi đầu lư phép nói:
- Xin anh châm giùm chút lửa.
Chị chìa cây đèn sắt nơi tay
ra. Ðúng là cây đèn của thằng nhỏ mặc quần cụt. Như đoán được ý nghĩ của Trân
chị nói thêm:
- Trời gió dữ quá, cháu nó
mang đèn về đặt vội lên bàn thiên nên tắt rụi ngay.
Giọng người đàn bà êm dịu,
và cách nói của chị thật dễ nghe. Trân cười tự nhiên, cầm lấy cây đèn:
- Có sao đâu, chị đưa tôi châm
cho.
Anh lấy cái vỏ mía khô quắt
châm lửa vào tim đèn. Sợi bấc bén cháy ngay nhưng ngọn lửa bị gió thổi bạt đi,
lắt lay như muốn tắt. Trân khum khum bàn tay che gió, chờ cho ngọn lửa bốc thật
to mới đưa cây đèn cho người đàn bà.
Lúc ngẩng lên anh thoáng đưa
mắt nhìn chị. Một gương mặt xương gầy nhưng rạng rỡ, cặp mày dài và đen. Những
sợi lông tơ trên má rung động khi chị cười.
- Cảm ơn anh nghe, không có
anh, lại phải xách đèn bão lên xóm trên xin lửa.
Trân cười xoà, qua hạt lửa
vàng thắm của ngọn đèn anh thấy đôi mi người đàn bà hạ thấp, chị chưa dám một lần
nhìn thẳng vào mặt anh. Người đàn bà chào Trân và quay đi. Bóng chị mỗi lúc một
nhỏ dần trên lối cát. ánh lửa như một đợt sóng lan mãi ra xa rọi lên làn áo
xanh và những nếp lụa bay phần phật trên tấm thân rắn chắc của chị.
Trân khơi chiếc que thông
nòng vào đống lửa. Mấy vành củi khô bén nổ lép bép, ngọn lửa vụt bốc cao soi rõ
bóng của người đàn bà trước khi chị rẽ ngoặt vào ngôi nhà tranh. Ngọn lửa soi
vào mặt kính chiếc đồng hồ đeo tay của Trân: đã tám giờ mười lăm rồi. Trân bỗng
thấy mệt mỏi, anh rút tấm ni lông trong ba lô ra trải và nằm xuống. Trời trong
suốt, đầy sao. Những ngôi sao toả ra một thứ ánh sáng tương phản với màu lửa đỏ,
một thứ ánh sáng sắc nhọn lấp láy, có màu xanh như lá mạ non. Trân không thuộc
hết tên sao. Hồi bé, có đôi lần cha anh chỉ cho biết những chòm sao tua rua,
sao thần nông, con vịt trời... và dạy cách đoán thời tiết. Những điều cha anh bảo
Trân đã quên rồi, lớn lên là anh đi đánh giặc. Những kinh nghiệm chiến đấu đã
thay thế cho những kinh nghiệm mùa màng. Bây giờ, anh nằm nhìn vòm trời rờ rỡ
ngàn vạn ngôi sao. Những vì sao. Những vì sao. Chúng ở xa con người đến thế.
Nào ai có thể biết được ngôi sao nào nuôi sự sống và ngôi sao nào mang luồng
khí độc của tử thần. Ðến con người, con người ở một bên ta mà... Trân bỗng thở
dài, anh chợt nhận ra mình đang quay lại với nỗi bi thảm riêng tư. Vợ anh đã phản
bội anh. Ðứa con trai của Trân hiện giờ ở đâu?... Một người cùng phố kể rằng nó
không chịu gọi tên thiếu tá nguỵ là ba, nó cũng không khi nào nói chuyện với mẹ.
Vợ Trân phải gửi nó cho một trường nuôi trẻ lưu trú ở Huế. Ngay sau ngày giải
phóng anh đã đi tìm con, suốt ba tháng ròng không ra manh mối... Vợ anh đã bỏ
đi Mỹ với tên thiếu tá nguỵ đẹp trai. Bỏ đi không một lời. Ðôi lúc Trân nhớ lại
những hình ảnh sinh động của cuộc sống trước kia, anh vẫn tự hỏi mình: Vì sao
anh yêu cô ta đến thế? ... Một người bạn gái cùng quê hương, một thiếu nữ xinh
đẹp có sức hấp dẫn bất cứ chàng trai nào đến tuổi yêu đương, một người đàn bà
thân thể đầy sinh lực và sự khêu gợi... Có thể là như thế... Nhưng còn một điều
ngoài tất cả những yếu tố đó, một điều lớn lao trọng đại mà ở tuổi hai mươi và ở
trong hoàn cảnh sống bình thường anh không thể nào biết được. Ðiều lớn lao nhất
trong mỗi người đàn bà, chỉ có qua cuộc chiến tranh này ta mới hiểu được mà
thôi.
Trân nghiêng mình lại, anh đẩy
mấy cành củi vào đống lửa cho khỏi tắt. Xung quanh anh, những mảnh vườn trống,
những nền gạch vỡ lô nhô, bóng vài bụi trâm bầu thấp lè tè như những chiếc nấm.
Một chiếc lon đồ hộp lăn lóc giữa lối đi, thỉnh thoảng lại sáng loé lên vì ngọn
lửa hắt vào. Xóm làng bây giờ còn có vậy. Mảnh đất mà anh đang nằm đây ngày xưa
là ngôi nhà bà gian của cha mẹ anh. Phía trước nó có một vườn đào tiên với hai
dãy cau chạy dọc theo hai bên cổng. Giờ đây cây cối đã cháy rụi, chỉ còn trơ
cái nền gạch bị nạy loang lổ với khúc đà gỗ cháy sót đen sì. Dân làng tan tác
đi các ngả giờ mới lác đác rủ nhau về. Ngoài gian nhà tranh của mẹ con người
đàn bà mặc áo xanh còn dăm bảy nóc nhà đó hắt ra le lói. Nhà riêng của vợ chồng
Trân trước cũng ở xóm đó, bây giờ có lẽ cũng chỉ còn lại cái nền, nhưng Trân
không muốn đến thăm, có lẽ vì nó sẽ lại nhắc cho anh những kỷ niệm đắng cay.
Ðêm chợt vang lên những âm
thanh lao xao, nhè nhẹ. Rồi có tiếng chân bước. Trân ngẩng đâu lên anh thấy thằng
bé bận quần cụt đang đi đến, tay nó ôm một bọc gì đó trước bụng. Thằng bé đến
bên Trân, nhoẻn miệng cười, nó quỳ xuống và thả hai vạt áo. Một mớ khoai rơi xuống,
lăn lóc trên mặt đất. Những củ khoan của miền quê Quảng Trị, tròn và có lần vỏ
dày màu tím đỏ. Trân ngồi nhỏm dậy, kéo thằng nhỏ lại. Nó ngồi xuống một bên bẽn
lẽn nói: - Má con nhủ đem mấy củ khoai sang, chú lùi ăn cho vui.
Trân thoáng ngỡ ngàng một
chút, rồi anh gật đầu:
- Cháu ở đây với chú, tai
lùi khoan cùng ăn chơi.
- Dạ, nhưng má con dặn đem
khoai sang cho chú rồi về.
- Nếu vậy chú không nhận
đâu, ăm một mình buồn lắm.
Thằng nhỏ ngồi im, chần chừ.
Trân nói thêm:
- Rồi chú nói với má cho, má
không la đâu.
- Dạ...
Ðứa bé vừa cười vưa thở một
hơi dài nhè nhẹ. Nó yên tâm co chân ngồi bệt xuống cát, hai tay ôm vòng lấy đầu
gối.
Trân lấy que sắt cời than ra
dàn thành một lớp mỏng, anh phủ tro lên rồi xếp khoai trên đó, những củ khoai đặt
so le rục đầu vào nhau rất khít. Xong xuôi Trân lại rải tro và than lên. Lớp
than và tro nòng vun cao như một đống nấm nhỏ.
- Giờ thì xong rồi đấy, ta
chỉ cần ngồi chờ khoai chín thôi.
Trâu bảo chú bé. Anh móc bao
thuốc trong túi áo ra ngửi, mùi thuốc thơm nồng bốc lên dư chịu. Bao thuốc để
trong người, lúc nào cũng âm ẩm. Trân rút điếu thuốc, anh không đưa lên miệng
ngay mà châm vào một hòn than đang cháy. ống tay áo bên trái vẫn gài vào túi bỗng
rơi thõng ra. Chú bé theo dõi Trân, mặt nó hiện lên sự sửng sốt. Có lẽ bây giờ
nó mới nhận thấy anh chỉ còn có một cánh tay. Trân không để ý đến điều đó, anh
rít một hơi thuốc, khoan khoái thở ra những làn khói trắng. Gió ngoài mạn biển
thổi vào càng về đêm càng mát lạnh, nó làm dịu đi những nỗi đau và thức dậy những
hy vọng xa vời.
- Này, cháu lên mấy tuổi?
- Cháu lên bảy.
- Cháu đi học chưa?
- Dạ, cháu học ở nhà thôi,
má cháu bày ...
Chú bé trả lời Trân và liếc
nhìn anh với cái vẻ mỗi lúc mỗi ái ngại và tò mò. Thấy Trân duỗi dài chân, lăn
mình trên mảnh nilông nó ấp úng hỏi:
- Chú... chú định ngủ ở đây sao?
- Ừ, chú ngủ ở đây.
- Chú không có nhà à?
- Không, chú không có nhà.
Trân thong thả trả lời.
Chú bé xây mặt đi. ánh lửa
in lên cái cổ mềm mại của nó một vệt hồng hồng. Xưa kia, ánh trăng đã từng lọt
qua khe cửa và in lên gáy đữa con trai anh những vế sáng màu ngà... Những vệt
sáng in lên làn da non nớt của trẻ thơ, sao dịu dàng, sao rụng động trái tim
con người đến thế?
Chú bé vẫn đăm đăm nhìn đống
lửa, nét mặt trở nên trang nghiêm. Chợt nó quay lại:
- Chú không sợ cảm hay sao?
Má cháu bảo ngủ ngoài trời dư bệnh lắm.
- Không, chú không sợ, chú
quen rồi.
Trân trả lời, giọng khàn
khàn. Anh bỗng cảm thấy một cái gì đó, gần như sự mủi lòng, làm cay sống mũi.
Ðã từ lâu rồi, anh chưa được nghe lời hỏi han chằm bặp của một đứa trẻ.
Thằng bé ngồi nhỏm dậy, nhìn
anh:
- Ðừng, không quen được đâu.
Ba cháu đó, khoẻ gấp năm lần chú mà cũng đau chết, má cháu bảo chết vì ngủ rừng
nhiều.
Nó hạ giọng thầm thì:
- Ðêm. ở ngoài trời có con
ma mặc áo trắng đi lang thang, nó tìm bắt những người không nhà cửa...
Trân kéo thằng bé lại bên
mình, dịu dàng xoa tóc nó:
- Ai nói chuyện tầm bậy đó,
má cháu hả?...
Cháu bé lắc đầu quả quyết:
- Không tầm bậy đâu, thiệt
đó mà... Chú không nghe rồi chú lại chết mất như ba cháu thôi.
Rồi nó nhìn anh với vẻ lo ngại
chân thành. Ðôi mắt nhỏ phản chiếu ánh lửa ngời lên như nước, những sợi mi
thưa, mảnh in bóng lên bờ mắt khiến gương mặt thon thon của đứa bé càng giống
hình ảnh của một ông hoàng tý hon nào đó lạc trong những cuốn truyện thần tiên.
Ðống lửa vẫn cháy rừng rực,
thỉnh thoảng những tàn lửa vụt bay lên như những vì sao đỏ, chúng vội vã cháy rồi
vội vã tắt trước khi rơi xuống. Trân liếc nhìn mụn ruồi nơi đuôi mắt phải của
chú bé. Anh hỏi:
- Ba cháu đâu?
- Ba cháu chết rồi mà, cháu
vừa kể cho chú nghe thôi.
Chú bé trả lời anh, giọng
trách móc.
- Ừ... à à, thế mà chú quên
- Trân cười xí xoá - Ba cháu làm gì?
- Ba cháu lên Xanh - Thằng
bé nói rành rọt - Ba cháu đi đánh Mỹ bị chết vì sốt rét. Má cháu bảo tại bà ngủ
rừng nhiều. Ba cháu chết hồi cháu mới được hai tháng, cháu chưa biết mặt ba
đâu.
- Thế má chau khi đó làm
chi?
- Má cháu làm cấp dưỡng cho
đơn vị của chú Sáu. Giải phóng rồi nội nhủ má con cháu về đây.
- Thế trước nhà cháu ở đâu?
- Ở Quảng Nam, ở đó quế nhiều
lắm chú à. Dưới biển họ đem khô cá chuồn lên đổi quế.
- Ba cháu quê ở đây hả?
- Dạ, ba cháu quê đây.
Ra thế, ba chú bé là người đồng
hương với anh, còn mẹ chú là người Quảng Nam, giọng nói của chú bé pha trộn âm
hưởng của cả hai xứ sở.
Chú bé đã theo mẹ trở về quê
cha.
Trân thoáng bâng khuâng. Anh
biết rằng rất ít người đàn bà chồng chết rồi mà còn đưa con về quê nội. Nhất là
quê anh, một vùng đất dữ dằn, gió nóng, cát bụi, đất đai cằn cỗi. Người đàn bà
áo xanh phải có một tình yêu thuỷ chung và sâu sắc lắm mới có thể quyết định
như vậy. Chị đưa con về đây, cho nó sống trên mảnh đất này, ăn củ khoai cha nó
đã từng ăn, uống ngụm nước cha nó đã từng uống, dưới bầu trời đầy sao của miền
quê Quảng Trị.
Có một người vợ như vậy thật
hạnh phúc. Hạnh phúc... Trong cuộc đời riêng mọi ngươi đều may mắn hơn ta...
Trân chợt nhận ra anh có một thoáng ghen tị với người đồng chí chưa quen biết
đã hy sinh và với bao nhiêu bạn bè quen thuộc.
Ngọn lửa bỗng xoay chiều thổi
tạt khói vào mặt Trân. Anh nhắm mắt. Trong đầu lại chờn vờn những hình ảnh cũ:
Cái cổ mảnh khảnh của đứa con trai in một vệt sáng màu ngà. Hình ảnh của chính
anh lang thang trên những con đường Huế, và Ðà Nẵng hết cô nhi viện này đến trường
mồ côi khác, những trưa nóng nực, chói chang và ồn ào đến chóng mặt, những chiều
mưa ướt, đám mây xám nặng trĩu dồn tụ nơi chân trời, anh đứng cô đơn trên hè phố,
nhìn đám người giường ô đi qua...
- Sao chú im lặng thế? Chú
ngủ rồi à?
Ðứa bé cao giọng hỏi làm
Trân giật mình. Anh mở mắt. Ðống lửa vẫn cháy rất to, đỏ hồng. Còn chú bé đang
chăm chú nhìn anh, môi nó tươi như màu bông trang.
- Chú buồn ngủ chưa? Cháu bới
khoai ăn nghe! Trân vùng dậy, anh ngồi tựa lưng vào chiếc ba lô con cóc:
- Phải đấy, cháu bới khoai
ăn đi.
Chú bé nhanh nhẹn lấy cây
que sắt gạt lớp tro bên trên, nó gạt rất nhẹ những hòn than đã cháy hết, chỉ
còn tro tàn trắng vẫn lả tả bay lên, xộc vào mũi. Ðứa bé quay đi, hắt hơi liền
hai cái rồi nhón từng củ khoai, đập nhẹ cho bụi tro bay đi, xếp lên mảng lá chuối
héo mà ban chiều Trân gói đồ ăn mang theo.
- Chú ăn khoai ạ!
Thằng bé mời Trân, còn nó
thì phủi tay vào nhau và ngồi bó gói, khuôn mặt nhò trang trọng như mặt một cụ
già.
Trân bóc khoai, anh thổi cho
những ngón tay bớt nóng:
- Cháu nghĩ gì vậy?
- Cháu nghĩ đến chú.
- Sao cơ?
- Chú không có nhà, mà má
con cháu thì có những hai cái nhà: Một nhà ông bà nội ở xóm Côi - Nó giơ tau chỉ
cụm nhà mới dựng, đèn le lối - Một nhà ở đây.
Thằng bé ngưng lại một chút
rồi nó nói tiếp, giọng quả quyết:
- Này, hay chú vào ngủ nhà
cháu đi. Nhà cháu chỉ có hai má con, sợ lắm, đêm nào cũng phải thắp đèn.
- Hả?...
Trân bối rối - anh chưa biết
trả lời đứa bé ra sao. Nó vẫn nhìn anh chờ đợi, cặp mắt đen mở rộng, long lanh.
- Chú ngủ ngoài này đau bệnh
chết đây. Trong nhà cháu có giường, có cả mùng vuông, thứ thiệt đẹp...
Nó nói, như dỗ dành, Trân
nhìn ngôi nhà heo hút chìm trong khoảng tối mờ với dăm bóng cây, anh bỗng cảm
thông với nỗi quạnh hiu của chú bé. Nó có mẹ rồi, nhưng nó vẫn cô đơn và như
anh, nó cũng cần người bầu bạn.
- Kìa, chú?
Ðứa bé giục giã, mắt nó dán
vào miệng Trân, nôn nóng chờ đợi. Trân lúng túng, anh chưa biết tìm cách nào
nói cho phải.
- Ừ, à, để chú xem đã.
Nói xong, mặt Trân nóng lên,
máu chảy giần giật hai bên tai. Chính anh cũng ngạc nhiên vì thấy mình dao động
như vậy. Câu chuyện của chú bé làm xao xuyến tâm hồn Trân, nơi mà anh đã tưởng
chừng nguôi lạnh mãi mãi.
Ðứa bé vụt đứng dậy:
- Cháu vào bảo má nghe.
- Khoan, khoan, nghe chú nói
đã.
Trâu hốt hoảng níu tay đứa
bé, hốt hoảng đến líu cả lưỡi.
Người đàn bà xa lạ kia sẽ
nghĩ gì khi đứa con tự nhiên nói lên những đề nghị kỳ quặc như thế.
Trong thâm tâm, Trân kính trọng
chị, anh rất sợ chị hiểu lầm, nhất là đối với vợ của một người đồng chí đã hy
sinh.
- Chú nói điều này nghe...
Ðứa bé đứng lại, chờ đợi.
Trâu kéo nó ngối xuống, anh tìm cách hoãn binh. - Hãy còn sớm, cháu ăn khoai với
chú cho hết đã.
- Dạ!
Thằng bé ngoan ngoãn nhặt một
củ khoai, nhưng trước khi bóc nó lại giao hẹn:
- Chặp nữa chú phải sang ngủ
nhà cháu nghe!
Trân không trả lời, anh cắn
một miếng khoai thật to, thở hà hà làn hơi nóng:
- Chà, ngon thiệt!
Ðúng lúc đó vang lên tiếng gọi
của người đàn bà:
- Lâm ơi, về ngủ con...
Tiếng gọi lặp lại lần thứ
hai và người mẹ đi tới. Vẫn dáng đi đẹp đẽ làm Trân sửng sốt lúc đầu, vẫn tà áo
xanh trong ánh lửa soi rọi, lấp láy những ánh vàng tươi thắm.
Trân vứt mảnh vỏ khoan vào đống
lửa, luống cuống xoa tay vào đâu gói. Người đàn bà đến gần và nói:
- Xin phép anh cho cháu về
kéo khuya.
- Dạ, chị cho cháu về.
Trân trả lời, anh thầm mong
đứa bé theo mẹ về ngay và quên đi câu chuyện ban nãy. Nhưng nó đã hấp tấp nói:
- Khi hồi chú bảo về nhà
cháu mà?
Tim Trân đập thình thịch,
anh chưa kịp thanh minh thì thằng nhỏ tiếp luôn:
- Má ơi, chú ấy không có
nhà, con nhủ chú về nhà mình ngủ cho khỏi đau má nghe!
Người đàn bà cúi đầu xuống,
môi mấp máy nhưng không thành tiếng, có lẽ cũng bàng hoàng và ngượng ngập. Trân
thấy mặt mình nóng ran, anh sượng sùng cười, nửa như phân trần, nửa như chữa thẹn:
- Thằng nhỏ ký quá.
Hai người cùng im lặng. Và
đêm vang lên tiếng gió, tiếng lửa reo phần phật, tiếng nỉ non êm dịu của những
côn trùng ngoài đám ruộng khoai mới trồng.
Lâu rồi người đàn bà cũng
nói:
- Anh định ngủ ngoài này
sao? Hồi trước đánh giặc ngủ bụi ngủ bờ chi cũng được. Chứ nước nhà thống nhất
rồi...
- Không , tôi quen rồi. Vả lại
đốt lửa cả đêm hơi giá cũng tan hết...
Trân nói hấp tấp, anh nghe
tiếng mình nói và nhận thấy nó biến đổi. Có chi ấm áp bao phủ khắp người Trân,
dịu dàng và thuần khiết hơn cả hơi ấm của ngọn lửa, nó khiến anh vừa muốn chìm
xuống một cơn mơ màng lại vừa nô nức và xao xuyến.
Người đàn bà vẫn đăm đăm
nhìn ngọn lửa, chị nói, giọng nhỏ và trầm, gần như tiếng thầm thì:
- Tôi biết anh...
Lưỡng lự một chút chị ta nói
tiếp, rành rẽ hơn:
- Tôi biết hoàn cảnh của
anh, ông nội cháu kể...
Trân cắn môi, anh nhìn chị với
vẻ biết ơn và không nói gì thêm.
Thằng nhỏ đứng lên, phủi những
hạt cát bám ở đũng quần:
- Chú về nhà cháu chứ?
- Bữa khác, bữa khác, - Trân
vội vã trả lời - Ðêm nay chú còn bận, đêm nay chú phải gác.
Thằng bé không chịu:
- Giải phóng rồi còn Mỹ, nguỵ
đâu mà gác?
- Còn, còn chứ, không có người
gác là chúng quay lại ngay.
Người đàn bà cúi xuống kéo
tay con:
- Cứ nói lôi thôi mãi, Lâm!
Rồi chị quay sang Trân:
- Tôi nhủ cháu đem mảnh tăng
sang cho anh che sương ngủ tạm.
- Thôi, tôi ngủ như vầy cũng
được mà...
Trân từ chối, nhưng người
đàn bà đã cao giọng nói với đứa bé:
- Về con, đem cho chú mượn mảnh
tăng rồi đi ngủ. Sáng mai còn đi vun khoan sớm.
Chị xoay lưng đi rất nhanh,
trước khi đó ánh mắt chị lướt qua như một lời chào. Trân chưa kịp có một cử chỉ
đáp lư thì hai mẹ con chị đã bước đi. Thằng nhỏ níu lấy áo mẹ, chạy gấp gấp.
Còn người đàn bà bước đi với dáng điệu thanh thoát nhẹ nhàng. ánh lửa nhóng
nhánh trên lần lụa xanh, biến thành một thứ màu sáng rạng rỡ, tươi non. Trân
nheo mắt, ngọn lửa nhảy nhót trước mặt anh, lan toả trên đôi vai tròn trặn của
người đàn bà và làm màu áo chị rực lên như một miền cỏ dậy, một miền cỏ tơ với
những sợi cỏ xanh óng ánh trơn mượt - Một miền cỏ đang mọc rờ rỡ trên những
vùng đai trắng quê anh.
Tháng
mười 1976
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét