Dương Thu Hương
Khi tôi chuyển đến N, một thị trấn
nhỏ vùng biên giới, bà cô ruột của tôi lại từ đó rời về Hà nội với đứa con gái
duy nhất vừa lấy chồng. Bởi thế, bà để lại cho tôi, với giá rất rẻ, hầu như
việc lấy tiền chỉ là một sự tượng trưng.
Nhà của cô tôi là một trong sáu căn
nhà xây áp tường nhau, kéo một vệt dài ven phố bờ sống. Cô tôi bảo dãy nhà này
của một Hoa kiều làm nghề thầu khoán xây vào cuối thời kháng Pháp rồi bán lại
cho các chủ, mỗi căn giá bốn lạng vàng. Sáu căn nhà giống nhau như sáu giọt
nước. Tất cả đều là nhà một tầng, lợp ngói máng rất cao. Mái trước dốc, mái sau
thoải thoải kéo dài cho tới sân nhà bếp. Nhà nào cũng có một cửa ra vào và hai
cửa sổ lớn cánh bằng gỗ lắp có thể mở cửa bán hàng. Mỗi nhà có hai buồng và một
gian gác xép bằng gỗ lim. Trên khoảng tường cao áp mái, người ta đục một lỗ cửa
đắp hình hoa thị. Do lỗ cửa này, những câu chuyện trong nhà không thể che giấu
người bên cạnh. Khi tôi dọn đến, ô cửa bên trái đã bị trát kín từ lâu. Lớp vữa
khô còn in rõ những nhát bay vụng về. Ô cửa tường bên phải vẫn để ngỏ.
Cô tôi giải thích:
- Cái cửa kia thông sang gian gác
nhà Lý Ung nên phải trát kín đi. Lão ấy mặt dơi tai chuột, gian giảo lắm. Còn
cái cửa này cứ để nguyên cũng được. Bên ấy là nhà chú Lý Xuân. Chú ấy là người
hiền lành, ngay thật...
Vợ tôi im lặng nhìn tôi.
Tôi mỉm cười:
- Thế là ta có hai hàng xóm trái màu
đấy. Nhớ lời cô dặn mà xem xét...
Cô tôi còn dặn dò chúng tôi một lô
kinh nghiệm sống, cách xử thế, những việc linh tinh, những nhân vật đáng chú ý
ở cái phố miền sơn cước mà bà đã sống quá nửa cuộc đời. Sau đó cô đi xem xét
lại toàn bộ căn nhà với vẻ bịn rịn rồi bảo tôi đưa ra ga. Khi làn khói trắng
của còn tàu tắt dần giữa các vách đá tôi quay lại thị trấn. Con đường bụi mờ mờ
trải dưới chân tôi vệt son dài hoang dã. Một nỗi lo âu mơ hồ đè nặng trong tim:
Tôi sắp sửa sống ở một vùng đất mới, với những con người mới. Không có ai quen
thuộc ở nơi đây. Phải, mối quan hệ lớn nhất bây giờ là quan hệ với những người
hàng xóm...
Chiều hôm ấy, cơm xong tôi lững thững ra sân. Trời êm ả. Mùi hoa móng rồng ở
bức tường sau bếp toả ra thơm nức. Tôi ngồi xuống ghế, nhìn những vách núi rực
nắng chồng chất ở chân trời phía Tây. Tiếng một người bất chợt cất lên:
- Anh chị mới đến ở đây?...
Tôi quay lai. Bên kia hàng rao trồng
đậu đũa, một người đàn ông tươi cười nhìn tôi, hàm răng lấp lánh.
Ngay tức khắc, tôi hiểu đó chính là
Lý Xuân. Tôi vồn vã trả lời:
- Chúng tôi mới chuyển công tác lên
đây. Cô tôi để lại cho cái nhà này...
Người đàn ông gật đầu lia lịa:
- Ô, lên đây ở cho vui... anh em áo
ngắn cả mà. Trước bà Ân với nhà tôi cũng quí nhau lắm...
Chúng tôi cùng giới thiệu tên mình.
Người hàng xóm gương mặt đỏ hồng, tơi tắn. Mái đầu cắt ngắn trên cổ vạm vỡ.
Ngực rộng. tấm thân rắn chắc nổi lên những bắp thịt nh những múi thừng. Anh ta
cởi bộ quần áo thợ ra, bỏ mũ đập cho sạch bụi rồi ngồi xuống gốc một cây liễu
cưa cụt làm ghế. Mặt gỗ ngồi nhiều đã nhẵn bóng nhưng ở nơi gốc cây, chồi non
đâm tủa lên một đuôi công xanh mớt. Lý Xuân ngồi trên chiếc ghế tự tạo đó với dáng
điệu của một ông vua ngồi lên ngai vàng của mình. Anh ta vừa phe phẩy chiếc mũ
vừa khoan khoái ngắm nhìn vườn tược, khóm đậu xum xuê và những vòi hoa tím nhạt
nở lốm đốm khắp hàng rào. Vẻ mạt mãn nguyện hồn nhiên của anh ta làm tôi có
thiện cảm:
- Ít ra thì mình cũng đã có một
người hàng xóm tin cậy được... Tôi thầm nghĩ.
Trong bếp nhà Lý Xuân, một phụ nữ
bưng mâm cơm bước ra. Người đàn ông quay lại nhìn vợ đon đả:
- A Phượng này, anh chị Ngọc ở dưới
xuôi mới lên ở bên thím Ân, hàng xóm mới của nhà mình đấy...
Người đàn bà khẽ cúi chào rồi bước
thẳng lên nhà trên. Tôi cảm thấy trong dáng điệu của chị ta, có ẩn giấu một vẻ
kênh kiệu kín đáo. Lát sau người vợ cất tiếng gọi:
- Lên ăn cơm Lý Xuân à...
Anh chồng nhỏm dậy:
- Để tôi xay xong cối bột đã nhé.
Dứt lời anh ta chạy vào bếp, khuân
một chiếc cối đá cỡ đại ra sân. Xong, lại bê ra một thúng gạo ngâm và một soong
nước. Ngồi lên gốc liễu, anh ta chạng hai chân ôm lấy chiếc cối, cầm cần tay.
Thế rồi, một tay giội nước, vun gạo, một tay quay vèo vèo liên lục. Chỉ độ một
giờ sau Lý Xuân đã xay xong cối bột. Anh ta đứng dậy nhìn tôi cười hể hả:
- Tôi là thợ cơ khí của thị trấn...
Tối về làm bánh cài thiện thêm. Anh thấy không? ... tôi làm trong chớp mắt là
xong thôi mà...
Tôi gật đầu đồng tình với người đàn
ông tràn trề sức sống đó. Lý Xuân cất dọn mọi thứ rồi lại ra giếng tắm. Sau
tiếng giội ào ào là tiếng anh hàng xóm gọi vợ:
- A Phượng, tôi xay xong bột rồi, đi
ăn cơm thôi...
Rồi khi vào nhà tôi đã thấy cái bóng
đồ sộ của anh ta in giữa khung cửa mở giống như bóng của một con gấu rừng. Suốt
bữa ăn không nghe người vợ nói năng gì. Chỉ có tiếng bát đũa và chạm lách cách
và tiếng anh chồng thỉnh thoảng lại sốt sắng giục:
- Kìa, mình ăn đi chứ... Ăn đi kẻo
ốm...
Trước đây, quan hệ của cô tôi với nhà hàng xóm bên trái là Lý Ung có lẽ không mặn mà cho lắm. Vì vậy, không những ô cửa hoa thị trên nóc tường áp mái bị trẹt kín mà đến hàng rào ngăn cách phần sân của hai nhà cũng được bịt bùng bằng mọi thứ ván gỗ, mảnh toả rỉ và những đồ vật linh tinh khác. Hàng rào chướng ngại ấy trông xấu xí đến tức cả mắt, đối lập hẳn với hàng dậu thông sang nhà Lý Xuân được giăng bằng vài chéo nứa gài cánh sẻ, dây đậu leo xanh rờn, hoa tím nở lung linh như bơm bớm.
Tôi có ý định tháo dỡ hàng rào cồng
kềnh giữa nhà mình và nhà Lý Ung. Trước tiên là để quan hệ giữa hai nhà bớt
căng thẳng. Sau đó là làm một hàng dậu trồng dây leo cho mát mắt. Tôi sang gặp
Lý Ung, người hàng xóm thứ hai. Đó là một người đàn ông thấp bé tuổi trạc bốn
mươi. Đúng như cô tôi đã nói, hình dung ông ta có phần kỳ dị. Mặt Lý Ung nhỏ
quắt queo, đôi tai mỏng và nhọn bám vào hai bên đầu như đôi tai chuột. Chúng
tôi làm quen và nói chuyện cầm chừng. Trái với Lý Xuân, Lý Ung ít cởi mở. Ông
ta đắn đo từng câu nói, cặp mắt nhỏ đưa đẩy luôn luôn về phía quầy bày những
con vịt quay bóng loáng. Nhà Lý Ung hơi tối vì những đồ vật kê chen chúc. Tủ
đứng, tủ bò, giường nằm, bàn ăn cho khách... Toàn là những loại đồ sộ bằng gỗ
gụ hoặc lát chun. Trên gác xép, góc trong cùng giáp với nơi mái ngói chụp xuống
bức tường chắn đỡ, một chiếc bàn thờ lót sa tanh đỏ kê ngay ngắn. Trên bàn thờ
dựng một bài vị đề chữ Hán, bát hương, vài quyển sách đọc da ám khói và mấy
quyển Mao tuyển đỏ chói.
Tôi nói chuyện với ông ta khá lâu.
Nhưng mối quan hệ cũng không tiến triển được bao nhiêu vì Lý Ung kín như một
cái hũ nút. Rút cuộc, tôi đành phải nói tới việc phá dỡ hàng rào với ý nghĩ
rằng mình đang làm một chuyện vô ích. Đúng như tôi phỏng đoán, người hàng xóm
từ chối. Ông ta đưa ra một lô lý do quanh quẩn mà tôi không hiểu nổi. Sau cùng,
tôi đành thất bại ra về. Cái hàng rào vẫn cứ sừng sững giữa hai mảnh đất, thô
kệch và xấu xí, ngăn cách đời sống của gia đình tôi với người hàng xóm Hoa kiều
ở phía bên trái. Cũng từ dạo đó tôi không để ý đến ông ta nữa. Chỉ có đôi dịp
chuyện trò với những người cùng phố, họ cho tôi biết Lý Ung rất giàu và khôn
khéo. Dân Hoa kiều ở thị trấn này nể sợ ông ta. Ông ta sống ở đây rất lâu với
đứa con gái; còn người vợ chưa thấy mặt bao giờ. Đứa con gái Lý Ung tôi nhìn
thấy luôn. Nó giống ông ta như tạc, khuôn mặt và đôi tai bé quắt, con mắt nhìn
lầm lì, bí ẩn...
Hàng đậu đũa đã được hái lứa đầu tiên. Những chùm quả mềm mại thả dọc bờ đậu,
tươi mởn. Quan hệ giữa gia đình tôi và nhà Lý Xuân cũng gắn bó thêm một mức.
Chiều nào ở hai bên sân chúng tôi cũng ngồi trò chuyện. Những câu chuyện về sự
làm ăn, sinh hoạt thường kỳ trong phố. Khi nào có trà ngon Lý Xuân mời tôi sang
ngồi bên gốc liễu cụt uống nước. Tôi chỉ cần bước nhẹ qua kẽ hở của hàng đậu
đũa là tới nơi. Còn nếu tôi mua được cà phê, thế nào tôi cũng bày bộ tách sứ
Giang Tây của cô tôi để lại, với hai chiếc phin pha sáng loáng mời anh hàng xóm
sang thưởng thức. Và Lý Xuân chỉ co chân bước một bước là vợt qua hàng rào,
ngồi vào chiếu với tôi. Đứa con trai tôi rất quyến luyến Lý Xuân. Anh ta cũng
quý thằng bé. Buổi tối làm bánh rán Lý Xuân thường giành viên bột cuối cùng nặn
thành con chim, con cá, chiếc đùi gà hoặc quả đào rán phồng lên đem cho thằng
bé. Đôi khi, tôi bắt gặp anh ta bế nó lên đùi, vụng về ve vuốt:
- Ô... cháu ngoan lắm... cháu có
muốn làm con nuôi chú không?
Lý Xuân lấy vợ đã chín năm mà cha có
con. Tôi biết anh ta đang khao khát được làm bố:
- Khi nào có con tôi sẽ đóng cho nó
một con ngựa gỗ có lắp chuông. Khi nào có con tôi sẽ gửi mua cho nó chiếc xe
đẩy bánh bọc cao su thật tốt, người bà con của tôi bên Trung Quốc đã hứa mua
hộ... Khi nào tôi có... Anh ta thường nói với tôi như vậy. Vợ Lý Xuân mắc chứng
bệnh gì đó không rõ. Không thấy chị ta đi làm. Công việc của chị ta trong một
ngày chỉ là đi chợ, nấu hai bữa cơm và buổi tối giao bánh cho nhà hàng. Mỗi ngày
A Phượng phải ăn một lạng giò hoặc hai lạng vịt quay. Lý Xuân bao giờ cũng
nhường thức ăn cho vợ còn bản thân anh ta thì chỉ ít dầu hoặc một tô rau bí xào
cũng và hết sáu bảy bát cơm:
- Kìa, mình ăn đi, chả quế của dì
Sáu Sìu đấy... Kìa mình ăn đi, vịt ông Lý Ung quay mới ra lò...
Ngày nào tôi cũng nghe người chồng
nhắc lại cái điệp khúc ấy vào bữa cơm. Chị vợ điềm nhiên hưởng thụ sự chăm sóc
đó, với một vẻ im lặng nửa hồn nhiên nửa điệu bộ. Hàng tóc mai cắt bằng xoã
xuống trán như một tấm mành bên trên cặp mắt một mí long lanh. A Phượng có cái
vẻ đẹp của các cô gái vẽ trên hộp phấn rôm Thượng Hải ngày trước. Không hiểu
sao tôi thiếu thiện cảm với chị ta. Cả vợ và đứa con trai tôi cũng vậy.
Các buổi sáng chủ nhật Lý Xuân đều rủ tôi đi làm rẫy. Bắt chước anh ta, tôi
cũng vỡ một vạt đất trồng sắn và củ mỡ. Lý Xuân bày cho tôi cách bẩy đá, đốt
cây, gỡ mầm củ. Đôi cánh tay của anh ta cầm cuốc vung lên, nhịp nhàng và mạnh
mẽ. Trong nắng sớm, tấm thân lực lưỡng của Lý Xuân ngả bóng dài trên nương sắn.
Tôi ngắm nhìn và lại hình dung đến lúc anh ngồi trước chảo bánh, bàn tay khéo
léo vo những viên bánh tròn rắc vừng, lanh lẹn và tế nhị như đôi tay của một
người đàn bà. Lòng tôi tràn ngập niềm yêu mến với con người ấy. Con người sinh
ra để lao động nuôi dưỡng cuộc đời.
Xong việc Lý Xuân rủ tôi ngồi nghỉ
hút thuốc. Cả hai chúng tôi đều im lặng hồi lâu, miệng không ngừng nhả khói,
mắt lim dim tận hưởng mùi vị của thứ thuốc sợi vàng tẩm mật ong. Trước mặt
chúng tôi, nương rẫy trải một màu xanh ngút ngát. Màu xanh cây là phản chiếu
trong ánh mắt của Lý Xuân khiến nó trở nên mơ màng. Anh ta ngước nhìn giải núi
trùng điệp là một màu lam nhạt lên chân trời biên giới và bỗng cất tiếng hát.
Lý Xuân hát bằng tiếng Hoa, tiếng của tổ quốc anh ta. Mắt anh ta nhìn xa xôi,
rưng rức. Giai điệu của bài ca bay lên như cánh chim rồi lợn lờ hạ dần xuống.
Lát sau, tưởng chừng sắp sửa tắt đến nơi nó lại vọt lên đột ngột như một đỉnh
núi cao bỗng hiện lên phía trước con đường. Tôi nghe tiếng hát buồn buồn của Lý
Xuân và thấy hiện ra trước mắt mình một vùng đất bao la tuyết phủ, những xóm
mạc tha thớt, những ngôi nhà đắp bằng đất, những bầy chim xứ lạnh bay chậm
chậm, vừa bay vừa cất tiếng kêu trên giải đồng bằng xa tắp...
Năm tháng bình yên trôi.
Nhưng cuộc sống của Hoa kiều trong
thị trấn bỗng nhiên bị xáo động. Cuộc cánh mạng văn hoá vô sản ở Trung Quốc ảnh
hưởng tới tận nơi đây. Nhóm Hoa kiều xôn xao. Họ nhận trước tác Mao Trạch Đông
đọc và thảo luận. Vài người bỏ về nước. Lại một số người khác vợt biên giới
sang. Một buổi sớm rét mớt, công an biên phòng tìm thấy hai xác chết của người
Hoa nằm trong một am nhỏ thờ thần ở ven rừng. Cả hai đều bị đâm nát mặt.
Trong những ngày đó Lý Xuân có vẻ
hốt hoảng. Anh ta ủ rũ và ngơ ngác. Đi làm về, Lý Xuân lùi lũi xay bột, không
còn nghêu ngao hát nữa. Nhưng trái lại, A Phượng thì xăng xái lắm. Ngày nào
cũng thấy chị ta sang nhà Lý Ung bàn tán chuyện trò, vẻ mặt đầy vẻ quan trọng.
Trừ những lúc nấu cơm, A Phượng ngồi đọc trước tác Mao Trạch Đông. Buổi tối,
khi Lý Xuân ăn cơm chị ta nói lại cho chồng nghe với cái giọng san sát như mảnh
bát cọ nhau. Chúng tôi không hiểu được nội dung, chỉ thấy Lý Xuân cắm cúi và
cơm hoặc dựng đũa thở dài sườn sợt.
Tất cả dân phố đều phấp phỏng chờ
đợi một cái gì đó không lành sẽ xảy ra trong những người dân Hoa. Nhưng may
sao, mọi việc êm xuôi. Ngày nối ngày qua đi và sự xôn xao lắng dần xuống. Người
ta bận làm ăn, kiếm sống, lo toan trăm thứ nên những cuộc họp riêng để đọc
trước tác Mao Trạch Đông ít dần và bị lãng quên. Lý Xuân tơi tỉnh trở lại.
Thỉnh thoảng đã thấy anh ta ngồi trên gốc liễu cụt nhấm nháp chén trà và cất
tiếng hát.
Nhưng riêng A Phượng vẫn chưa thể
trở lại nhịp sống bình thường. Khi Lý Xuân đi làm, chị ta vẫn sang nhà Lý Ung
mỗi sáng. Thay vì đọc trước tác, chị ta ăn phở chua do chủ nhân thết đãi.
Chuyện đó nghiễm nhiên thành lệ. Dân phố xì xào. Đứa con gái Lý Ung nhìn A
Phượng với con mắt hằn học kín đáo. Chỉ có Lý Xuân là không hề hay biết.
Một buổi sáng trời mưa lớn. Cơn mưa
đâu hạ rơi ồn ào trên mái ngói. Tôi ngồi viết lại số phích cho tủ sách cơ quan.
Một dòng nước từ mái ngói bỗng nhỏ long tong xuống bàn, bắn lên những tấm bìa
viết mực nho còn ớt. Tôi vội vã chuyển bàn làm việc tới một góc nhà và leo lên
gác xép xóc lại mảnh ngói vỡ trong bụng thầm đoán đây là kết quả trận ném nhau
của lũ trẻ trong phố. Trên sàn gác, nước dột đọng thành vũng. Tôi kiếm một
chiếc ghế nhỏ. Khi đứng trên ghế, đâu tôi đã gần chạm tới cây rui. Vô tình, tôi
đa mắt nhìn vào ô cửa hoa thị thông sang gác nhà Lý Xuân, lúc ấy đã ở ngay
trước mặt. Một tia sáng mảnh rọi thẳng từ trên kẽ ngói vào ô cửa trống. Nhờ tia
sáng đó, tôi nhìn thấy trên sàn gác nhà Lý Xuân, trong khoảng tối lờ mờ vì chăn
đệm che lấp và những bức gỗ nặng nề vây quanh, hai bóng người loã thể vặn vẹo
như đôi rắn. Ngay tức khắc, tôi nhận ra A Phượng và Lý Ung. Hoảng hốt, tôi tụt
xuống ghế lao xuống nhà dới. Lặng lẽ và câm nín như một kẻ ăn trộm.
- Sao thế? Xóc lại ngói đi...
Vợ tôi ôm đứa con trai ngồi trên
giường la to. Tôi đến bên cô ta, đặt bàn tay lên vai, bóp thật mạnh:
- Đừng om sòm lên. Nước dột nhỏ vào
giữa mặt, chờ tạnh mưa mới sửa được.
Thấy thái độ lạ lùng của tôi, cô ta
im lặng ngay. Buổi tối, tôi kể chuyện cho vợ tôi nghe. Cả hai chúng tôi cùng
ngồi lặng hồi lâu, thương xót anh chồng bị lừa dối.
Sau trận mưa mở đầu, những cơn mưa mùa hạ gọi nhau ào ạt kéo đến. Sông suối
dâng đầy trong phút chốc, sóng cuộn ào ào. Nỗi lo ngại lớn nhất của những người
làm cha mẹ lúc này là nước lũ. Chúng tôi cũng vậy. Chúng tôi luôn luôn theo sát
đứa con trai, dặn dò, đe doạ nhiều khi van lơn nó đừng theo bạn ra sông chơi.
Nhưng tai hoạ vẫn cứ đến. Một chiều chúng tôi ngồi phân loại sách cho cơ quan.
Trời mới tạnh mưa, nắng le lói chiếu trên mặt đất còn ớt đầm. Đứa con trai tôi
nằm vắt chân chữ ngũ ê a đọc tranh truyện trên giường. Vợ chồng tôi vừa làm vừa
chuyện vặt. Chợt vợ tôi sực nhớ tới đống lạc chưa kịp phơi đã gặp nước mưa. Cô
ta hớt hải bảo tôi mang ra sân phơi. Tôi đành bỏ dở việc, cào đống lạc ở góc
nhà vào thúng đem ra sân. Vợ tôi rải lạc thành lớp mỏng trên sân gạch. Phơi lạc
xong, cô ta lại phát hiện ra nửa thúng lạc xấu đã bị trương lên và yêu cầu tôi
phải giúp cô ta bóc ngay tức khắc. Thế là tôi đành tặc lưỡi ngồi xuống cầm
chiếc kẹp tre tách vỏ lạc. Vừa bóc được độ mười hạt, một bà cùng phố chạy xộc
vào, kêu thất thanh:
- Chú Ngọc, con chú bị lũ cuốn
rồi...
Tôi ném chiếc kẹp tre, đứng lên.
Trên giường trống ngơ trống ngắt quyển tranh truyện ném bên mép chiếu, thằng bé
đã bỏ đi từ lâu.
Không kịp nói một lời, tôi chạy bổ
ra cửa, tai ù đi như cối xay nghiền bên trong. Tôi chạy hết phố xuống tới bờ
sông, mang máng cảm thấy một người nào đó vừa la khóc vừa chạy theo mình. Chắc
đó là vợ tôi.
Phía trước bến sông, một đám người
tụ tập ồn ào bàn tán. Tôi xô vào họ, tìm quanh quất, Không thấy con, tôi lại
đâm nhào xuống nước. Một người nào đó kéo áo tôi lại. Dòng nước đục ngầu lao đi
giữa hai bờ đất, khủng khiếp như một con trăn gió phóng tới chụp mồi. Chỉ thấy
những lượn sóng đục ngầu chồm lên nhau, rú rít. Không tìm được một mảnh áo, một
bàn tay chới với nào được ngoài những đám bọt xoáy tít và những cành củi trôi
vùn vụt giữa dòng.
Nỗi tuyệt vọng làm tôi như điên
loạn. Tôi giằng khỏi bàn tay níu giữ của một người nào đó chạy dọc theo mép
nước. Tiếng la khóc của vợ tôi ở phía sau lớn dần lên, bám chặt lấy tôi, khoan
sâu vào óc não. Sóng vẫn chập chờn trước mắt tôi nh một bầy thú kì dị và độc
ác. Tưởng như tôi cũng sắp bị nó nuốt chửng vào cái dạ dày hung hiểm kia. Đúng
lúc ấy, Lý Xuân hiện ra trước mặt tôi.
- Anh Ngọc..
Anh ta gọi.
Tôi đứng lại, mắt hoa lên. Lý Xuân
ớt đầm đìa, tái nhợt, vài vác đứa con trai của tôi. Thấy tôi đứng đờ đẫn, anh
ta cũng đứng lại, bế thằng nhỏ xuống:
- Tôi đã quay bảy vòng, nó nôn hết
nước... Bây giờ nó thở được rồi đấy...
Lý Xuân nói và trao đứa con nhỏ cho
tôi. Làn môi nhợt nhạt hé cời anh nói tiếp:
- Lúc nãy, nó mở mắt ra gọi: Chú
Xuân... Nó nhận ra tôi...
Cổ họng tôi tắc nghẹn. Tôi ôm đứa
con, nước mắt trào lên. Vợ tôi cũng lao đến ôm thằng bé. Chúng tôi khóc. Và
cùng cảm thấy hạnh phúc khi tìm lại được một cuộc sống còn quý giá hơn cuộc
sống của chính mình. Cuộc sống ấy chỉ chút nữa là vĩnh viễn bị đánh mất. Lý
Xuân nhìn chúng tôi với ánh mắt ấm áp. Anh ta quay lại lấy bộ quần áo thợ ớt
sũng vắt trên thành cầu. Rồi giơ tay chào chúng tôi, anh thong thả đi vào phố.
Từ mùa hè năm đó. Lý Xuân trở thành ân nhân của gia đình tôi. Lẽ tất nhiên chúng
tôi quý trọng anh hơn trước nhiều. Nhưng Lý Xuân không hề lạm dụng lòng biết ơn
đó. Hình như anh coi việc cứu đứa trẻ cũng tự nhiên như việc cuốc đất trồng
sắn, tiện cái đinh ốc hay xay bột làm bánh.
Thằng con trai tôi quấn quít anh
suốt ngày:
- Bố Lý Xuân gập cho con chiếc tàu
bay... bố Lý Xuân bắt cho con con bọ ngựa...
Lý Xuân nhận thằng bé làm con nuôi.
Anh ta thường cầm bàn tay bé xíu của nó xoa lên má, cọ vào chiếc cằm đầy râu:
- Ô tay nó xinh ghê ... Ôi, tay nó
êm như tay con búp bê bằng lụa...
Mỗi lần có món ăn ngon, vợ tôi lại
sai con đem sáng biếu vợ chồng Lý Xuân. Lần nào thằng bé cũng về kể:
- Bao nhiêu miếng thịt nạc cô A
Phượng ăn hết, bố Lý Xuân chỉ gặm xương thôi...
Chúng tôi bật cười. Vừa bực vừa
thương con người hỉ xả đó.
Tháng năm cứ thế trôi qua.
Tôi dần dần có thêm nhiều bạn bè
mới, công việc quen thuộc dễ chịu hơn nhiều. Tôi gắn bó từ lúc nào không rõ với
cái phố nhỏ miền sơn cước này. Lý Xuân vẫn là người hàng xóm tin cẩn, người gần
gũi nhất đối với tôi. Có lẽ, chúng tôi có thể sống êm thắm như thế mãi nếu
không có những biến động. Đầu tiên, là những vụ xung đột xảy ra dọc biên giới.
Dân công xã Trung Quốc bị khích động chạy sang chiếm đất, gặt trộm lúa, phá vỡ
những đập nước và mương máng. Những vụ giành giật đất đai, đánh lộn bằng gậy
gộc, ném đá xảy ra, dội vào thị trấn. Dư luận ồn ào. Hoa kiều nhìn chúng tôi
bằng ánh mắt khác lạ, thầm lén và nghi kị. Đời sống thường ngày của thị trấn
trở nên thầm lắng, ủ ê. Buổi tối, các cô gái và các chàng trai không còn rủ
nhau tới cửa hàng kem hoặc vào thư viện đọc sách. Lũ trẻ cũng bớt chạy ra
đường, hò reo, tập trận giả. Các cánh cửa đóng im ỉm, lọt ra vài vệt sáng. Mọi
người sống thu mình lại, chờ đợi cái gì đó sẽ xảy ra.
Lý Xuân ủ rũ như con chim gãy cánh.
Anh ta buồn bã hơn cả hồi xảy ra vụ cách mạng văn hoá mấy năm trước. A Phượng
thậm thọt chạy sang nhà Lý Ung suốt ngày. Thậm chí có bữa chị ta ngồi lì bên
nhà lão bán phở chua bàn bạc việc cơ mật không thèm nấu ăn. Buổi trưa anh chồng
đi làm về lại cắm cúi rửa nồi thổi cơm. Đứa con trai tôi cũng ít sang nhà bố Lý
Xuân hơn trước. Dường như nó cũng linh cảm thấy sự thay đổi trong thái độ của
những người lớn.
Tình hình mỗi ngày mỗi xấu đi.
Ban đêm, qua các khe cửa, những bàn
tay đen mang truyền đơn kêu gọi thúc ép người Hoa về nước. Lý Ung thường có
những nhóm người tới thì thầm bàn tán. Mắc dầu chính quyền hoạt động tích cực
giải thích, trấn an cho số dân Hoa, họ vẫn lục tục bán nhà, thu dọn đồ đạc bỏ
về nước.
Lý Xuân gầy tọp đi, râu ria tua tủa.
Bộ mặt đỏ hồng tràn trề niềm vui sống của anh giờ đây đờ đẫn, hai hốc mắt trũng
xuống, hằn nếp gấp trên mi. Anh không làm bánh nữa, suốt ngày thơ thẩn ra vào
suy tính.
Một đêm oi nóng, vợ chồng tôi thao
thức không ngủ được. Đột nhiên, tiếng thì thào gay gắt bên kia tường vẳng sang.
Chúng tôi cũng nín lặng nghe. Vợ chồng Lý Xuân cãi nhau. Họ nói tiếng Hoa,
chúng tôi chỉ hiểu lõm bõm đôi chút. Giọng nói cả hai cùng cố nén nhỏ nhưng
giằn dữ. Người tấn công là A Phượng. Chị ta nói liên tục, hùng hổ. Lý Xuân
chống đỡ bằng lối nói nhát gừng, lúng búng của anh ta. Sau một lúc đôi co, A
Phượng bỗng hét lên một tiếng nhỏ rồi hằm hè hỏi một câu gì đó. Lý Xuân lặng im
không trả lời. A Phượng thúc hối một lần nữa. Lý Xuân vẫn câm nín. Chúng tôi
nghe chị vợ rít lên lần thứ hai và tiếp sau đó những tiếng vỗ đôm đốp. Tiếng
đập xen lẫn nhịp thở hào hển của người đàn bà.
- A Phượng đánh chồng.
Vợ tôi thì thào. Tôi mở mắt trong
bóng tối, lắng nghe tiếng động dội sang và tưởng như nhìn thấy bộ mặt người đàn
bà tái mét vì tức giận, hàng tóc mai dính bết trước trán, cặp mắt một mí long
lên điên khùng. Chị ta vừa thở hổn hển vừa tát đôm đốp vào mặt Lý Xuân. Anh
chồng hộ pháp đó có lẽ nằm im chịu đòn. Chúng tôi không nghe thấy một tiếng
động nhỏ nào chứng tỏ anh ta chống đỡ. Sau một hồi bạo động, chắc A Phượng đã
mệt. Chị ta thở dốc và nằm vật ra giường. Từ những nan gỗ bị rùng mạnh và vang
lên khô khan trong bóng tối.
Sáng hôm sau Lý Xuân đi đâu rất sớm.
Gần trưa anh ta mới về: vẻ mặt bần thần. Mấy người cùng phố cho tôi biết anh
vừa bán non nương sắn. Nghe đâu chỉ được giá dăm trăm. Nếu để đền vụ nương sắn
của anh phải thu ngót hai ngàn. Ngay buổi chiều hôm đó bên nhà Lý Xuân vang lên
tiếng đục gỗ chi chát. Tôi biết anh đang đóng hòm chở đồ. Ngày hôm sau A Phượng
gọi người tới bán giường, tủ, mấy chiếc ghế tựa và chiếc cối xay bột. Tới cuối
tuần họ đã thu xếp xong. Lý Xuân bước qua hàng dậu, sang nhà tôi:
- Chào anh chị Ngọc, tôi đi.
Anh ta nói, giọng khàn khàn không rõ
buồn hay vui. Chúng tôi không dám hỏi han gì thêm chỉ lặng lẽ pha trà. Đứa con
trai nhỏ của tôi bỗng ôm choàng lấy Lý Xuân:
- Thế bố có quay lại đây nữa không?
bố Lý Xuân?...
Người hàng xóm cầm tay đứa bé, mắt
chớp chớp. Sau khi uống một chén trà, anh ta bỗng thở dài:
- Ở đây làm ăn đang vui. Tôi không
muốn về đâu, nhưng Tổ quốc kêu gọi...
Mấy tiếng cuối cùng nghe như bị hụt
hơi. Lý Xuân lặng im không nói gì thêm nữa. Vợ tôi lấy gói kẹo mè sửng vừa mới
gửi mua ở Huế đưa cho Lý Xuân và chúc anh ta đi mạnh khoẻ. Lý Xuân đứng dậy
chào chúng tôi về. Thân hình vạm vỡ của anh in đầy khuôn cửa. Cái lưng hơi gù
gù tạo nên vẻ nhẫn nhịn và cam chịu. Lần đầu tiên, sau bao nhiêu năm quen biết,
tôi mới nhận thấy lưng anh ta hơi gù.
Lý Xuân đi tới hàng đậu. Vào mùa này, những cây đậu đũa đã hết rụi, kho xác ôm
quanh các ống rào. Lý Xuân định bước qua hàng dậu về sân. Đột nhiên đứa con
trai tôi chạy bổ ra:
- Bố Lý Xuân ơi, cho con buồng chuối
kia nhé, con để chín cây cho chim sáo ăn dần...
Thằng bé vừa nói vừa chỉ buồng chuối
tiêu ở góc vườn nhà Lý Xuân đang bắt đầu tròn quả. Lý Xuân quay lại cười. Ngay
lúc đó tiếng A Phượng cất lên riết róng:
- Đừng tưởng bở, chúng tao chỉ về
hai tháng rồi lại sang đây thôi.
Người đàn bà xanh lét như một con
sâu trong bộ quần áo hoa xanh lốm đốm. Mặt chị ta vênh lên nhìn chúng tôi với
vẻ ngạo mạn và thách thức. Vợ tôi vội vã mắng con. Thằng bé bỏ chạy đến bên
chiếc lồng sáo. Lý Xuân lùi lũi đi về. Đó là kỷ niệm cuối cùng kết thúc một
thời gian dài êm ấm.
Tôi tưởng không bao giờ gặp lại người hàng xóm nữa. Nhưng cuộc đời diễn ra
ngoài sự tưởng tượng của mỗi chúng ta.
Hơn một năm sau ngày Lý Xuân về
nước, giặc Trung Quốc đánh ập sang. Chúng đánh vào lúc mọi người ít chuẩn bị
nhất. Tháng hai, Tết nguyên đán vừa đi qua, nhưng mùi hương ngày lễ rằm còn
phảng phất. Các súc thịt ủ rơm trong sọt chưa hết. Nhiều nhà hãy còn bánh nếp,
bánh bỏng. ở vùng núi, mùi vị tết kéo dài theo không khí lành lạnh, lảng gảng
hơi sương của mùa xuân. Bất chợt, hai giờ đêm, pháo nổ ran bốn phía. Tiếng động
dội vào các vách đã, nhân lên, trùm lấy không gian, phá vỡ sự bình yên trong
mọi căn nhà.
Một người nào đó ở ngoài phố hét to:
- Giặc Trung Quốc đánh đến rồi,...
giặc Trung quốc...
Chúng tôi bật dậy. Thế là bắt đầu
cuộc chạy giặc. Vào trong núi, chúng tôi mới kịp nhận ra rằng trong lúc hốt
hoảng, chúng tôi đã không mang theo những thứ cần thiết để duy trì đời sống:
Lương thực, soong nồi, bát đũa, dao chặt củi, sô múc nước...
Tối hôm đó, một đoàn người bao gồm
tôi, cậu bé mời lăm con ông già giữ thư viện, một bác thợ ngói đã về hưu, những
người đàn ông hiếm hoi trong đám dân sơ tán cùng liều chết quay lại thị trấn.
Chúng tôi cứ men theo những lối mòn mà đi. Thoạt đầu còn dè dặt, sau rồi chạy
hối hả, liều lĩnh. Tiếng súng ở phía đầu thị trấn vẫn nổ từng đợt dài chứng tỏ
dân quân cha rút khỏi trận địa. Họ đang chống trả lại quân địch. Thị trấn chìm
trong bóng tối hoang vu. Chúng tôi chia nhau ở cột đèn cuối thị trấn, hẹn sau
nửa giờ quay lại cùng đi, rồi ai nấy lần về nhà mình. Tôi mò mẫm mở ổ khoá. Rồi
trong đêm, mò mẫm tìm những thứ cần mang theo. Tiếng súng ở đầu thị trấn bỗng
dội lên quyết liệt rồi sau đó tắt hẳn. Sự im lặng đó đè nặng lên tim tôi. Nó
báo hiệu phút hiểm nguy đang tới gần. Mồ hôi toát ra ớt đẫm, tôi cuống cuồng
gói đồ đạc thành một bó. Sợi dây thừng đã ải bỗng nhiên đứt phựt. Vừa rờ rẫm
tìm hai mối nối, tôi vừa nghe tim mình đập thình thịch. Phút im lặng kéo dài.
Rồi đột nhiên một loạt đạn tiểu liên nổ kèm theo tiếng chân chạy rầm rập. Tôi
buông gói đồ xuống mở hé cánh cửa nhìn ra phố. Trong làn sáng của lửa đạn, tôi
thấy quân địch đen nghịt tràn lên lòng đường. Tôi nhận ra họ ngay. Bởi lẽ hình
dáng của họ đã quá quen thuộc đối với tôi, người đã sống trên mời năm trong dãy
phố hai phần ba là Hoa Kiều.
Tôi khuân gói đồ, chạy ra căn hầm
đào dưới cây nhót ngoài vườn. Nấp trong đó, tôi lắng nghe tiếng súng nổ loạn sạ,
tiếng ồn ào ngoài đường vọng vào. Quân địch đã ùa vào các căn nhà. Bóng đen lố
nhố in lên vòm trời sáng đục vì những đám cháy ngoài thị trấn hắt lên. Đám đông
chuyển động trên mảnh sân nhà tôi và nhà Lý Xuân. Đôi khi, nhờ ánh lửa hồng
hồng gợn khói soi rọi, tôi nhìn ra những bộ mặt quen thuộc của thị trấn: Hai
thanh niên thợ gốm chiều chiều đá bóng trên sân cỏ. Một lão cắt tóc có chiếc
rương gỗ sơn đỏ vẫn dựng quán trước cửa chợ phiên. Một cán bộ phân phối ngành
thương nghiệp. Một lão to béo bụng tròn ngày ngày vẫn ôm chiếc hòm đựng bánh
bột viên đi quanh phố, miệng rao dẻo kẹo:
- Cái bi ron ron, cái bi ròn ròn
à...
Tụi lính Trung Quốc gọi nhau ngầu
ngã tìm nước uống. Giữa đám tiếng nói hỗn loạn, một giọng oang oang bỗng cất
lên:
- Có giếng đấy, có giếng trước cửa
bếp đấy...
Giọng nói quá quen thuộc. Tôi lặng
người, nín thở lắng nghe. Trong bóng đêm vang lên tiếng hỏi:
- ? ? (đâu? đâu?...)
Vài tiếng gắt gỏng. Một thằng lính
va đầu vào cánh cửa bật chửi:
- Tỉu nà ma...
Những bóng đen đi lại lộn xộn. Rồi
có tiếng gầu chạm lanh canh vào thành giếng xây, và cái giọng ban nãy lại cất
lên, vui vẻ, ngạc nhiên:
- Ô, cái gầu nữa đây... cái gầu của
nhà tao hãy còn.
Đích thực là giọng nói của Lý Xuân,
không thể ngờ vực. Tôi hồi hộp dướn người lên, giương mắt nhìn lại đám lá nhót.
Bên ngoài, tụi lính đang tranh nhau uống nước ừng ực. Mấy thằng lính nuôi quân
đã nhóm một đống lửa giữa sân. Trong ánh lửa đỏ rực, tôi nhìn thấy người hàng
xóm cũ. Lý Xuân, đứng trước cửa nhà mình, cao hơn, hơi gù, bộ mặt to lớn, hơi
gù, bộ mặt to lớn đầy mãn nguyện.
Tụi lính đang đập phá nhà tôi. Chúng
bẻ gẫy chân bàn, phá giường ném vào đống lửa. Cả chiếc lồng chim sáo của đứa
con trai cũng bị vứt vào bếp. Những chiếc nan tre cháy bùng lên. Con sáo đập
cánh bay rối rít, điên loạn trong đám lưỡi lửa vây quanh. Vừa giãy giụa, con
chim vừa kêu:
- Có khách, có khách...
- Có khách...
Con vật bé nhỏ kêu hoài cho đến lúc
cháy thui. Tụi lính vỗ tay cười. Một tên lính nhỏ thó bưng bộ tách chén bằng sứ
Giang Tây của tôi ra, vạch quần tiểu tiện vào. Tụi đồng bọn thích thú cười
nghiêng ngả. Lý Xuân cũng cất tiếng cười hô hố. Anh ta nhìn bộ tách sứ đó, cũng
như nhìn con sáo tội nghiệp chết quằn quại trên đống lửa bằng con mắt xa lạ,
dửng dưng. ánh lửa chập chờn rọi lên hàm răng trắng bóng đều đặn của Lý Xuân.
Cái cổ vạm vỡ đỏ ửng. Đôi mắt xếch dới cặp mày ngắn long lanh. Vẻ mặt anh ta
hồn nhiên cho đến nỗi tôi đâm ngờ vực chính con mắt của mình, ngờ vực cả cái
quá khứ lâu dài xa kia, đã có một thời, hơn mời năm chúng tôi là những người
láng giềng thân thiết.
Tên lính nhỏ thó, lấc cấc bê cả bộ
tách sứ đầy nước tiểu liệng vào giếng nhà tôi. Tụi lính xung quanh kêu ố lên
ngạc nhiên, tán thưởng. Lý Xuân nhìn hắn thích thú. Lúc này, anh ta giống nh
một đứa trẻ độc ác hồn nhiên. Một đứa trẻ vui thú trong trò chơi độc ác, ví như
vừa chơi vừa cấu đôi con bớm hay lấy dao chặt cụt đuôi mèo.
Tụi lính Trung Quốc vận nhộn nhạo
đùa rỡn quanh đống lửa. Nhưng đột nhiên có tiếng hét ngoài phố.
- Duê nản... tả duê nản...
Tụi lính nhào dậy. Lý Xuân là người
đầu tiên ngó qua khuôn cửa nhảy ra ngoài đường. Anh ta hét lên:
- Tả duê nản...
Và cánh tay lực lưỡng giật khẩu súng
dựng bên tường, cặp vào nách. Đạn liên thanh nổ hai tràng dài sau đó. Rồi một
tiếng kêu đau đớn, mơ hồ từ phía cuối thị trấn vẳng lên. Tôi thấy tim mình như
đứng lại: Phía đường ấy là nơi cột điện tôi đã hẹn ông già thợ ngói và chú bé
tới cùng đi. Nếu một trong hai người đó quay trở lại? ... Tôi biết làm sao bây
giờ? áp ngực vào thành hầm, tôi căng thẳng lắng nghe, đầu óc rối loạn vì những
lo âu và phỏng đoán.
Một tiếng đổ ầm ầm vang lên; tên
lính bếp vào nhà tôi gỡ cánh cửa, lặc lè kéo đến bên đống lửa. Hắn lấy rìu bửa
nhỏ, ấn vào bếp. Trong khung cửa trống hoác đó Lý Xuân bước vào. Đi sau anh ta
là lão già Lý Ung. Lão bán phở chua bây giờ mới xuất hiện. Trong bộ phục rộng
thùng thình, trông lão xấu xí lạ lùng. Lão kéo theo sau người bị bắt. Chính là
chú bé đã cùng tôi quay lại thị trấn buổi chiều nay. Máu dồn lên mặt tôi nóng
phừng, rồi trong một giây, người tôi lại tái đi, mồ hôi toát ra ớt đẫm. Những
nắm tay tôi tìm nhau, vặn chặn lại trong cơn tuyệt vọng và bất lực. Trên kia,
lão già Lý Ung đang quát hỏi chú bé:
- Ai sai mày quay lại đây? Do thám
hả?
Chú bé đau đớn quỳ nghiêng trên sần,
ôm bàn chân đập nát. Nó ngẩng lên, nhìn vào mặt lão bán phở nói khẽ:
- Tôi về lấy gạo, lấy nồi nấu cơm,
lây sô múc nước... Các ông bắn pháo... Không kịp đem theo...
Lý Ung tiếp tục hỏi.
- Tụi dân quân sai mày về đây? hay
bộ đội địa phương? ... Chúng nó sai mày dò xét cái gì?...
Chú bé lắc đầu.
- Không ai sai cả.
- Lý Xuân, mày hãy cho nó một báng
súng, thằng ranh con này bướng thật. Chắc nó đã được học làm do thám, nó rình
rập để đánh trả chúng ta.
Lý Xuân đứng dậy, cánh tay kềnh càng
vươn lên cao, giáng cây súng xuống cậu thiếu niên. Tôi nhắm mặt lại, choáng
váng như vừa bị bổ một thanh củi vào đầu. Tôi chưa thể hình dung sự việc lại
diễn ra như vậy. Tôi không thể ngờ Lý Xuân tàn nhẫn đến thế. Mặc dù hắn đã thản
nhiên chứng kiến cảnh đồng bọn đập phá nhà cửa, đồ đạc của tôi, mặc dù hắn đã
cời hô hố khi con sáo bị thiêu cháy, mặc dù... Tôi nhìn bộ mặt đỏ rực ánh lửa
của người láng giềng, đôi mắt xếch dưới hai tràng lông mày ngắn không lay động.
Chú bé bị đánh vào vai, ngã rụi xuống sân. Nó bật kêu lên một tiếng đau đớn và
gọi:
- Chú Lý Xuân...
Cậu thiếu niên ngước nhìn tên hộ
pháp, ánh mắt kinh hoàng. Một chút xao động chạy qua gương mặt tên lính. Hình
như hắn bối rối. Trước đây, hắn vốn là người vui tính. Hắn thường cởi trần, mặc
quần đùi chạy đá bóng lông nhông với lũ thiếu niên trong phố, giống như một con
gà cộ lạc giữa bầy gà con. Buổi chiều, hắn thường nhảy xuống bến sông bơi òm
òm, la hét đùa nghịch với chúng và đôi khi rỗi rãi, hắn ngôi chuyện gẫu với mấy
chú nhóc trước quán bánh rán nước chè, điếu thuốc phì phèo trên môi. Vì tất cả
những chuyện đó, lũ thành niên choai choai trong thị trấn thân thiết và yêu mến
Lý Xuân. ánh mắt đau đớn, ngỡ ngàng của chú bé lúc này dán vào mặt hắn. Tên
lính cúi đầu xuống. Một ngón tay hắn choãi ra trên nóng súng. Lão già bán phở
vẫn ngồi chôm hổm trước cậu bé, tra hỏi:
- Thế nào ranh con? Khai ra chứ?...
- Ai sai mày?...
Chú bé nhìn bộ mặt choắt cheo của Lý
Ung, những nếp nhăn xếp trên cái trán hói quả da và đôi mắt ti hí đầy soi mói
của lão. Bất chợt, nổi khùng, nó dớn người lên, quát vào mặt lão già:
- Tôi không do thám ai cả. Chính các
ông mới là đồ do thám. Các ông ở đây, lùng xét mọi thứ rồi dẫn quân Trung Quốc
về đánh...
Lý Ung làm một động tác giống như
con mèo chồm lên bắt mồi, lão định vồ lấy chú bé nhưng lại co hai tay, ngồi
xuống:
- Lý Xuân, mày thấy thằng con lão
kho sách nói gì chưa?... Đúng là một tên tiểu bá...
Lý Xuân đứng im, mặt chảy thợt. Tên
lính nhỏ thó từ trong nhà hắn đi ra:
- Thủ trưởng bảo các anh bắn ngay
đi, thằng này không phải là gián điệp nhưng đích thị là một tên tiểu bá... Kìa,
Lý Xuân...
Lý Xuân như sực tỉnh. Hắn lên đạn.
Tiếng động vang lên, lạnh lẽo. Chú bé run rẩy nhìn hắn. Nhưng bộ mặt tên lính
đã khô cứng lại như mặt nạ, dửng dưng và vô cảm. Không do dự, hắn siết cò. Chú
bé ngã vật xuống.
- Thế là hết...
Tôi thầm nói. Nỗi cay đắng nhục nhã
xâm chiếm toàn thân, tôi cảm thấy người mình rời rã từng mảnh vì căm giận, bất
lực. Trên kia, hai tên giặc xì xào trao đổi gì đó với nhau, rồi cả hai đến ngồi
bên đống lửa:
- Mày bắn khá lắm - Tên Lý Ung nói -
Lúc ở trong phố, tối đen nh mực mà mày bán trúng bàn chân thằng ranh con...
- Ờ...
- Lý Xuân gật đầu.
- Mai tao sẽ báo công với thủ
trưởng.
Lý Ung tiếp.
- Ơ... Nếu mà bắn ban ngày, cách năm
chục thước, tôi có thể tỉa trúng bàn tay một tên Việt Nam...
Tên sát nhân trả lời với vẻ mãn
nguyện và giơ bàn tay lên hơ trước đống lửa. Tôi nhìn chằm chặp vào đôi bàn tay
hắn. Đôi bàn tay to lớn, dày dặn với những vết chai mà tôi vẫn nhớ. Trước kia,
tôi đã quý trọng chúng biết bao...
Đêm xuống.
Tụi lính Trung Quốc sau khi ăn no đã
đào hố ở ngoài bãi đất trống sau khoảng vườn của chúng tôi chạy ra phía ngoài
thị trấn. Đào hố xong, chúng phủ rơm rạ, lót ván gỗ đậy lên và rúc xuống bên
dới ngủ. Lửa đã gần tàn, chỉ còn đám than hồng hắt sáng lên bầu trời tối om.
Hai tên lính ngồi chôm hổm canh
chừng cho đồng bọn ngủ. Đó là Lý Xuân và Lý Ung. Cả hai ngồi câm nín nh hai con
chó đá giữ cửa chùa. Xung quanh, tiếng ngáy phì phò của tụi lính vang lên. Bóng
tối buồn thảm chụp xuống mặt đất.
Tôi không thể ngủ được. Tôi nhìn hai
bóng người đen đúa ấy, và cùng một lúc, những hình ảnh của quá khứ lẫn hiện tại
ập đến, quay cuồng ở trông tôi như những hình người và thú xoay trên mặt ngọn
đèn cù.
Đêm khuya. Đám than đã lụi. Tôi mệt
mỏi tựa lưng vào bờ đất. Đột nhiên, một tiếng kêu bật lên: Tôi nhỏm dậy, chăm
chú nhìn. Cái bóng đen cao lớn đang mặt rền rĩ:
- Ôi... sao ông lại đánh tôi?
- Mày ngủ gật. Mới ngày đầu đã không
chịu theo kỷ luật. Mai tao sẽ báo cáo thủ trưởng.
- Tôi có ngủ đâu?... tôi vẫn thức từ
tối mà...
Tiếng Lý Xuân ấp úng.
- Mày ngủ gật. Tao đã đếm tới đúng
một trăm.
Lý Ung lạnh lùng đáp.
- Tôi...
Lý Xuân lúng búng rồi câm bặt. Tôi
nghe hắn thở dài, chống khẩu súng xuống đất ngồi thu lu. Một bàn tay hắn rờ rẫm
bên má:
- Ông đánh tôi đau quá...
Lý Ung im lặng. Lão ngồi bất động,
cần mẫn như một con chó già. Có lẽ cặp mặt ti hí của lão đang lục lọi trong
bóng tối. Một lúc lâu sau tôi không nghe chúng nói gì thêm nữa. Chỉ có tiếng
gió lùa ù ú trong khe núi và tiếng côn trùng rỉ rả. Một tên lính ngủ mê la hét
nói lắp bắp một tràng dài. Rồi sau đó lại hoàn toàn yên lặng. Tôi đã sắp sửa
tụt xuống hầm thì Lý Xuân bỗng hắng giọng. Hắn ho vài tiếng khan rồi nói:
- Này, ông Lý Ung, sau đợt này ông
về đâu?
- Chưa biết.
- Trừng trị Việt Nam xong, tôi sẽ về
quê thôi. Bố tôi vừa chết mùa đông năm ngoái, còn để cho tôi cái nhà.
Lão bán phở chua không góp chuyện.
Ngừng lại một chút, Lý Xuân nói tiếp:
- Tôi sẽ tiêu diệt thật nhiều tên
tiểu bá Việt Nam, tôi sẽ được phát phiếu lĩnh lương thực và tiền. Mùa đông này
sẽ đắp đất lại cái mái nhà cũ...
Hắn thở mạnh và say sa tiếp:
- Sẽ đắp đất lại cái mái nhà. Và tôi
sẽ bảo A Phượng làm thật nhiều bánh bao nhuộm phẩm ăn mừng. A Phương không làm
được việc nặng, tôi sẽ kiếm cho cô ấy cái máy khâu... Ông bảo có được không?...
- Được - Lý Ung trả lời - Nhưng mày
phải hoàn thành tốt nhiệm vụ Tổ quốc vĩ đại đã giao phó...
Nói xong, lão bán phở chua lại im
lặng. Cái bóng đen thấp bé nhòn nhọn của lão không cử động, giống như một hòn
đá dới chân núi. Lý Xuân khe khẽ hát. Bài: "Ra khơi nhờ tay lái
vững". Bàn tay xoè rộng, vỗ nhịp trên đùi. Hắn đang sống sung sướng với
những mộng mơ của hắn. Phía đông, chân trời rạng lên một vệt các vòm cây hiện
lên lờ mờ trên nền trời màu xám sữa. Một tên lính thấp béo lạch bạch chạy từ
chỗ ngủ vào sân, hét to:
- Bắc chảo lên.
Chắc hẳn đó là tên bếp trưởng. Chúng
nó đã chuẩn bị nấu ăn. Rạng sáng rồi.
Trời sáng hắn.
Dới ánh mặt trời, tôi nhìn rõ những
bộ mặt của quân địch. Tụi chúng đi lại nhộn nhạo, đứa gõ ca gõ bát, đứa sửa
sang súng đạn. Vài tên lính cởi giày đập bùn bám vào đêm qua. Mùi chân thối
hoăng xông đến tận nơi tôi ẩn nấp. Quanh bếp, một tốp lính mới đầu húi gần như
trọc đang ngồi vừa vỗ tay vừa hát bài "Ra khơi nhờ tay lái vững". Tên
lính nhỏ thó lấc cấc hôm qua ngồi thổi kèn đệm theo. Chiếc kèn trong tay hắn
gần giống như kèn đám ma nhưng ngắn hơn. Âm thanh nó phát ra the thé như giọng
một cô gái già nanh nọc. Lý Xuân và Lý Ung đã ngủ. Lão bán phở chua rải mảnh ni
lông nằm còng queo nơi cửa bếp. Còn Lý Xuân cứ tựa lưng vào một gốc cây, há hốc
mồm mà ngáy. Bỗng nhiên, tụi lính khẽ xì xào:
- Thủ trưởng...
Vẻ mặt chúng nhuốm một màu sắc khó
phân định. Người ta chỉ có thể ngửi ra màu đó. Thứ màu khúm núm, sợ hãi một
cách không tự giác trước quyền uy.
Từ cửa nhà Lý Xuân, tên sĩ quan chỉ
huy bước ra. Đó là một người đàn ông trạc bốn mươi, tầm thước. Bộ mặt y trắng
lợt, bóng loáng như quả bầu già bôi mỡ. Hai bên thái dương và dưới quai hàm,
chi chít những nếp răn mệt mỏi. Y nghiêm nghị đi qua sân, bộ mặt lạnh lùng vô
cảm, dường nh y không hề nhìn thấy tụi lính đang ngước nhìn y với con mắt thần
phục, dường như y đang bước đi trong một khoảng trống không người. Theo đuổi
một ý nghĩ nào đó, mắt y nhìn thẳng về phía trước. Qua sân, qua mảnh vườn, y
băng tới đám đất hoang mà tụi lính đào hố cá nhân đêm qua.
Tôi mài mê nhìn theo tên sĩ quan ấy.
Y có cái gì khác biệt với những Hoa kiều mà tôi đã từng biết. Dường như y mang
bên trong con người y cái băng giá bí ẩn của phương Bắc.
Một tiếng nổ bùng lên ngay bên tôi.
Rồi những tiếng rào rào trút như mưa trên đầu. Đất rơi xuống, tối tăm mặt mũi.
Tôi cha kịp định thần tiếng nổ thứ hai đã tiếp theo. Sau đó đạn pháo nổ liên
tục từng chuỗi dài. Đạn mười hai ly bảy của ta. Đạn cối của ta. Tất cả đều từ
phía đồi cuối thị trấn trút xuống. Chắc hẳn một đơn vị bộ đội nào đã di chuyển
tới kháng cự quân địch. Tôi tụt xuống hầm, đậy nắp lại. Toàn thân run lên vì
xúc động. Niềm sung sướng được trả thù, nỗi vui hầm bị trúng pháo xen lẫn trong
tôi. Tiếng pháo nổ không ngừng khiến tai tôi ù đi. Nhưng trong tiếng nổ, tôi
nghe rõ tiếng la hét của lũ giặc, tiếng hét gào lên như điên loạn tiếng hô
hoảng hốt:
- Đạn cối Việt Nam, đạn cối... nằm
xuống...
Những thanh âm đó vang lên trong
tôi, reo phần phật nh ngọn lửa trước gió. Nó đem đến cho tôi một thứ hạnh phúc
kỳ lạ. Thứ hạnh phúc chỉ những người đã từng chịu khổ đau, thua thiệt mới cảm
thấy. Nó bù trả lại sự phá vỡ cuộc sống yên ổn của chúng tôi. Bù trả lại tiếng
khóc khan vã của những đứa con nít trong hang núi lạnh không có cơm ăn và nước
uống. Nó bù trả lại cái chết của cậu thiếu niên đêm hôm qua, cả tiếng kêu thảm
thiết của con sáo bị thiêu cháy trong lồng... Tôi tựa sát người vào vách hầm.
Đất ẩm lạnh thấm sang da tôi. Cả những đợt rung chuyển vì đạn nổ cũng truyền
sang tôi làn sóng của nó. Một mảnh đất rơi xuống, cát sạn lọt vào trong cổ áo,
nham nháp nơi lưng. Tôi ưỡn thẳng người, giũ áo. Nhưng ngay lúc đó, một tiếng
kêu khủng khiếp vang lên, trùm lấp mọi tiếng động khác. Không phải tiếng kêu
của con người bình thường. Đó là tiếng gầm của một con thú bị thương hoặc của
một tên khổng lồ trong chuyện cổ.
- Ú ú ú...
Tiếng rú kéo dài, bị méo mó vì kinh
hoảng. Lần này, vị đạn pháo đã dứt, tôi nhận ra tiếng hú đó là của Lý Xuân. Bất
giác tôi rùng mình trước sức lực đáng sợ của tên hộ pháp đó.
Trên mặt đất, pháo đã ngừng bắn. Cả đạn cối cũng vậy. Tụi lính giặc gọi nhau ơi
ới:
- Đạn Việt Nam ngừng rồi, chạy
mau...
- Lệnh thủ trưởng di chuyển về trận
địa cũ, phố...
Đám quân lính rầm rập chạy qua mảnh
vườn. Có tên bị thương la hét rên rỉ. Tò mò, tôi lại bật nắp nhô lên xem.
Khoảng sân giữa nhà Lý Xuân và nhà tôi bị pháo đào một hố rộng. Trong bườn còn
bốn năm hố nữa. Gạch ngói vỡ, đất đa, những vụn cây gãy... ngổn ngang. Xác gần
một tiểu đội giặc chết cụm bên chảo cơm cha chín. Những thanh củi cháy dở vẫn
đang ngún khói. Trong khung cảnh đó, những tên lính bị thương bò lê lết, kêu
rên:
- Đau quá... trời ơi...
- Băng cho tôi với, băng cho tôi...
Những tiếng rên rỉ của chúng bị chìm
lấp trong tiếng gào của Lý Xuân. Con người lực lưỡng ấy bị mảnh pháo tiện đứt
một bên đùi. Cẳng chân trái của hắn cùng ống quần binh sĩ bắn về phía trước
sân, cách nơi hắn ngồi hai thước. ở đó, khúc chân cụt vẫn tiếp tục phun máu.
Vũng máu đỏ lễ loài bò từ từ trên sàn gạch. Mảnh vải thâm đẫm máu trở thành một
nằm giẻ đen đúa, thứ màu đen thê thảm khó quên. Khúc chân to lớn giống như một
cái xác riêng biệt. Còn chủ nhân của nó đang ôm chặt bắp đùi cụt, la thét. Máu
vẫn chảy qua những kẽ ngón tay hắn, túa thành dòng. Mặt tái nhợt, Lý Xuân ngước
nhìn những tên lính chen nhau chạy ra phía đường thị trấn:
- Đồng chí Hứa Minh... cõng tôi
với...
- Bành Căn ơi, tao đau quá... Bành
Căn... Cõng tao với... Lý Quang Sương... trời ơi...
Hắn kêu gọi, ánh mắt chứa chan sự
cầu xin và lòng hy vọng. Nhưng đồng bọn của hắn hấp tấp đi qua. Không dám quay
đầu lại. Khi bước khỏi cửa nhà Lý Xuân, chúng cắm đầu lao về phía trước. Tên
lính cụt chân thảm thiết. Bộ mặt vàng như sáp ong, tuyệt vọng, điên cuồng. Hắn
nhìn lành lặn chạy qua, tròng mắt lạc đi. Miệng hắn giống lên những tiếng chửi
tục tĩu và những lời nguyền rủa ghê gớm, ác độc.
Lúc đó, từ phía bãi đất hoang, sĩ
quan chỉ huy đi đến. Theo sau là lão già Lý Ung. Cả hai vội vã nhằm tới khung
cửa nhà Lý Xuân ngước đôi mặt tuyệt vọng nhìn thủ trưởng. Tên chỉ huy vẫn bước
đều đặn, mắt nhìn thẳng. Hai bàn chân y diễu ngang qua mặt Lý Xuân, sắp sửa rời
khỏi mảnh sân đẫm máu tơi. Lý Xuân nhìn chằm chặp vào hai bàn chân mang giày da
đen ấy: Thủ trưởng sắp đi qua, thủ trưởng cũng sắp bỏ hắn rồi. Tên lính bị
thương kêu hộc lên một tiếng tuyệt vọng. Rồi, với tất cả sức mạnh điên khùng,
hắn đuổi theo tên chỉ huy. Hắn bò nhanh ghê gớm, trên hai bàn tay và khuỷu chân
còn lại. Hắn vẽ những vệt đỏ trên nền gạch lát sân. Những vết máu in hình hai
bàn tay và một lằn đỏ dài ngoằn ngoèo nh con rắn. Đúng vào lúc tên chỉ huy bước
lên bậc cửa thì Lý Xuân đuổi kịp y:
- Thủ trưởng đừng bỏ tôi... Tôi bị
thương, đau lắm...
Hắn kêu thật to, giọng ồm ồm nh
tiếng vang trong một cái thùng bịt đáy. Hai bàn tay ôm chặt lấy đùi tên sĩ
quan, cứng ngắc.
Tên chỉ huy dừng lại. Vẻ bối rối
thoáng hiện trên bộ mặt điềm tĩnh trời sinh của y. Nhưng y trấn tính rất nhanh.
Y gọi.
- Đồng chí Lý Xuân...
- Thủ trưởng đừng bỏ tôi, tôi đau
lắm...
Tên lính vẫn tiếp tục kêu la, hai
bàn tay siết chặt. Bộ mặt to lớn của hắn nhợt nhạt, bọt sùi ra hai mép. Phía
sau, lão già Lý Ung im lặng đứng nhìn. Sĩ quan chỉ huy tiếp tục nói.
- Đồng chí Lý Xuân, đồng chí có biết
mình chiến đấu vì ai không?
Lý Xuân vội vã trả lời.
- Báo cao, tôi đã được học tập. Tôi
chiến đầu vì Tổ quốc vĩ đại. Nhưng tôi bị thương đau lắm, thủ trưởng đừng bỏ
tôi...
Tên sĩ quan nghiêm giọng.
- Tôi và đồng chí, chúng ta cùng
chiến đấu theo lệnh của thủ trưởng số I. Chúng ta là những quân nhân của Đội
quân Trung Hoa vĩ đại. Chúng ta cần xứng đáng với danh hiệu đó. Đồng chí không
được kêu la như vậy. Điều đó làm tổn thất danh dự quân nhân.
Lý Xuân không kêu nữa. Nhưng hắn vặn
vẹo như một con rắn bị chặt đuôi và trên mặt hắn, những nếp nhăn hằn lên thảm
khốc. Những nếp nhăn làm biến dạng gương mặt Lý Xuân và khiến tim tôi nhói lên
một cảm giác khó cắt nghĩa. Trước đây, tôi vẫn quen nhìn gương mặt đó hồng hào,
long lanh mồ hôi, tràn ngập sức sống và niềm vui chất phác. Phải, trước đây...
Tên sĩ quan chỉ huy đã lại nói tiếp,
với cái giọng dõng dạc quyền uy:
- Tổ quốc vĩ đại chỉ cho phép chúng
ta chiến thắng vẻ vang. Người chiến sĩ không thể trở về với một bộ mặt tàn phế,
thảm hại. Người chiến sĩ không thể trở về với một tinh thần bạc nhược, yếu hèn.
Như thế là bêu riếu nhân dân, làm nhục tới quốc thể. Đồng chí hãy nhớ những lời
tôi nói và suy nghĩ đến bản thân...
Lý Xuân nhìn vẻ mặt nghiêm trọng của
chỉ huy, vừa kịp hiểu những lời nói đó, hắn buông tay, hà hốc mồm. Bộ mặt hắn
đờ đẫn, ngây dại trong phút tập trung suy nghĩ. Ngay tức khắc, tên sĩ quan chỉ
huy bước đi. Trước khi đặt chân lên bậc cửa, y liếc nhìn Lý Ung. Lão già bán
phở nhìn lại y với cặp mắt hiểu biết của một con thú về già. Lão lanh lẹn rút
một cái hộp hình chữ nhật trong túi dết, mở nắp, đổ thốc lên người Lý Xuân. Bột
xăng khô lả tả trùm lên người tên lính cụt. Và trong khi hắn còn cha kịp định
thần xem chuyện gì xảy ra thì lão già Lý Ung đã xoè diêm ném. Ngọn lửa bùng lên
cuộn tròn lấy tên lính hộ pháp. Cho đến tận giờ, có lẽ Lý Xuân cũng cha kịp
hiểu tai hoạ đã bay đến từ nơi đâu. Từ những lời giáo huấn nghiêm trang, uyển
chuyển của tên sĩ quan, từ ánh mắt đưa thầm kín của y, hoặc từ ngọn lửa diêm
xoè cháy trong tay lão hàng xóm già. Tên lính to lớn gào lên, hú lên. Những âm
thanh không còn giống tiếng của một con người. Đó là tiếng la thét của cái
chết. Tôi nhìn hắn, người hàng xóm ngày xưa, kẻ giết người và người bị giết.
Hắn đang cháy đùng đùng như một bó đuốc sống. Một bó đuốc ghê rợn toả ra mùi tử
thi và đem đến bầu không khí u ám âm hiểm của phương Bắc.
Sau khi quân Trung Quốc rút về nước,
chúng tôi trở lại thị trấn. ở đó, chúng tôi nhen nhúm, tạo dựng lại đời sống trên
những ngôi nhà bị phá trống hoác. Chúng tôi dọn những mảnh vườn tan nát và gỡ
đám dây khoai đầu tiên cho mùa khoai mới. Chúng tôi gieo đậu và những dây đậu
loăn xoăn mềm mại đã rụt rè leo lên hàng dậu ngả nghiêng. Ngày một ngày hai,
cuộc sống thường nhật dần trở lại. Nhưng sự yên tính trong lòng con người ở nơi
đây không trở lại nữa. Dân thị trấn nhắc tới chiến tranh, tới mối hiểm hoạ với
nỗi đau xót, với sự kiêu hãnh của những người đã từng trải và sẵn sàng thách
thức. Riêng tôi, mỗi khi nhìn sang ngôi nhà đóng im ỉm của Lý Xuân, lòng tôi
dấy lên những hồi tưởng. Tôi nhìn mảnh sân bị cháy đen, in dấu vết cái chết
thảm khốc của nó. Mảnh sân đó chúng tôi đã phải cọ rửa một tuần, rồi mới dọn
về, vì những mủn thịt còn sót thối rữa. Tôi nhìn gốc liễu cụt, với một nhành
cây uốn cong, xanh mớt. Nơi đó trước đây người chồng bị cắm sừng Lý Xuân đã
sung sướng ngồi xay bột và nghêu ngao bài hát. Tiếng hát của người hàng xóm
văng vẳng trong tôi. Những hồi âm lại gợi đến một vùng tuyết sa bát ngát. Trên
cánh đồng trắng lạnh xứ tuyết, tôi thấy rõ Lý Xuân. Anh ta bước đi câm nín
trong một đội quân dằng dặc. Mặt và nửa thân trên của họ bị che kín bởi những
tấm vải dày. Người ta chỉ nhìn thấy những đôi chân của họ. Những đôi chân bước
đều đặn, không ngừng nghỉ, bị cuốn đi như gió đẩy, như bùa ếm. Một bàn chân in
lên mặt tuyết dấu bùn. Bàn chân kia in lên vết máu.
Tháng tám 1979
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét