Thứ Năm, 24 tháng 10, 2019

Trở lại Mèo Vạc - Nguyên Ngọc

Trở lại Mèo Vạc

Nguyên Ngọc


Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc bài ký viết cách đây hơn một phần tư thế kỷ của nhà văn Nguyên Ngọc. Như nhà thơ Thanh Thảo nhận xét rất vi tế trong tập hồi ký vừa xuất bản (Cơ nhỡ trong hoà bình, nxb Hội Nhà Văn, 2017, tr. 127-132), Nguyên Ngọc năm nay tròn 85 tuổi, "hơn 60 năm là nhà văn nổi tiếng, không hề viết nửa câu thơ, dù là thơ... tán gái (...)", nhưng Trở lại Mèo Vạc "đúng là thơ thật", "viết một cách hoàn toàn tự do, tràn đầy cảm xúc, chịu những ngắt quãng của một thứ nhịp điệu (rythm) ngẫu hứng tự bên trong"...  


Tôi trở lại Đồng Văn - Mèo Vạc những ngày cuối tháng tư  năm 91. Chả là Hội Văn nghệ Hà Tuyên mở trại sáng tác, có lời gọi lên giúp. Tôi đi cùng Xuân Thiều, riêng nuôi một âm mưu: làm việc ở Tuyên Quang mấy bữa, rồi sẽ liệu cách nài các anh ở Hội, ở tỉnh tạo cho một chuyến trở lên vùng cao. Trở lên, trở về. Từ ngày ở miền Nam ra, thấm thoắt đã 16 năm, lòng vẫn day dứt một nỗi nhớ và ước ao được thăm lại chốn xưa, mà chẳng dễ gì. Ngày trước trẻ trung, rảnh rang, muốn đi là a-lê hấp, ba-lô lên vai, thành thị dửng dưng bỏ lại sau lưng, lang thang khắp núi rừng, rồi ăn dầm nằm dề trên ấy hàng năm trời, nhẹ gánh như không. Bây giờ chẳng được thế: vợ con, nhà cửa, công việc - những công việc có thể rất là vô tích sự nhưng nhùng nhằng níu kéo, lại xe cộ, tiền nong... trăm thứ nhiêu khê. Mới hay đã già và mình đã trở nên nặng nề lắm rồi.
Anh Tiết Trưởng ban Tuyên huấn tỉnh nghe nói tôi từng có dự cuộc tiễu phỉ Hà Giang hồi 1959 thì bỗng nhiệt tình quá, chạy mượn kỳ được chiếc u-oát tốt nhất ủy ban và anh lái xe giỏi nhất tỉnh, tên là Gác, trẻ khỏe, đằm tính, đặc biệt thuộc lòng từng thước đường suốt dọc bốn trăm cây số từ Tuyên Quang ngược tới Lũng Cú. Đường này đúng phải xe ấy, tài ấy, như một cuộc thám hiểm mà.
Định đi một tuần, nhưng rồi la đà đến hơn nửa tháng. Xuân Thiều mới lên lần đầu, sững sờ, kinh ngạc. Còn tôi trăm mối ngổn ngang, bồi hồi bao kỷ niệm một thời trai trẻ trong veo và nông nổi, xao xuyến gặp lại đất cũ người xưa; người xưa chẳng còn mấy, trải sóng gió thăng trầm, lác đác tựa lá mùa thu, đều đã già đi, tàn tạ như chính mình; và lại trằn trọc thêm những lo âu mới mà biết chắc, rất chắc rằng mình chẳng còn góp phần tháo gỡ được chút gì.
Hôm trở xuống Tuyên Quang, Xuân Thiều hăng hái tuyên bố giữa đông đảo anh em tỉnh chuyến này về Hà Nội sẽ xung phong gánh hết mọi công việc linh tinh để ông Ngọc rảnh tay ngồi viết cho kỳ xong cái ký.
Cùng lên Đồng Văn còn có Ma Liễu, phó Chủ tịch Hội Văn nghệ tỉnh, người Tày mà viết thơ tiếng Kinh thật nhuyễn :
... Sự đời chẳng khéo lo toan
Xòe bàn tay biết là oan nỗi gì!
(Ơ hay, cái anh chàng sinh viên Tổng hợp văn Hà Nội, rồi sĩ quan tên lửa, trắng trẻo trẻ trung này, lại đã sớm có nỗi oan khiên nào để mà viết hai câu thơ đau đáu ngơ ngác đến vậy?).
Ma Liễu cũng dặn:
– Anh viết nhé, nhớ gửi lên cho bọn em.
Ừ, phải viết chứ, Xuân Thiều đã hứa hộ tôi trước bàn dân thiên hạ rồi... Và tôi cũng tự hứa với mình, với Mèo Vạc - Đồng Văn, với Lũng Phìn, Mậu Duệ, Yên Minh, Cổng Trời... Chỉ nóng lòng về đến nhà là ngồi vào bàn và cầm bút.
Nhưng chẳng ai học được chữ ngờ. Hóa ra ở Hà Nội lại có chuyện rắc rối đang chờ mình, những phiền toái chả đâu vào đâu, vô nghĩa và rối rắm. Rồi ngày tháng qua, ồn ào mà uể oải. Có cơ sẽ nhạt nhòa đi tất cả...
Cho đến cách đây đúng một tuần bỗng nghe điện thoại réo:
– A-lô, Tô Hoài đây... Này, mình đang viết cái hồi ký, vui lắm, có muốn đọc chơi không? Được ba tập rồi. Tập bốn sẽ có chuyện ông với bà Thào Mỹ đấy...
Gớm cho cái ông Tô Hoài, im ỉm vậy mà chuyện gì cũng biết, cặp mắt nheo nheo đến là tọc mạch, mà viết thì cứ sòn sòn như gà đẻ trứng, cục ta cục tác lại ra một quả, chẳng ngày nào sai.
Năm hôm sau tôi đã cầm được trong tay cả bốn tập của anh. Tập bốn, cái đoạn anh dọa sẽ đến "chuyện ông với bà Thào Mỹ" ấy như thế này, tôi mạn phép Tô Hoài chép lại nguyên văn, cũng ngắn thôi:
"... Thào Mỹ bây giờ nghỉ hưu đã lâu. Đầu năm 1991 Nguyên Ngọc trở lại cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc thì hóa 30 năm đã qua. Nguyên Ngọc kể lại Thào Mỹ bây giờ ngồi ngôi hàng nước ở chợ Mèo Vạc. Ôi thế mà còn nhớ, có lời hỏi thăm. Một thời sôi nổi và sóng gió. Thào Mỹ bị ép lấy chồng từ thuở bé. Đến khi lớn, Thào Mỹ đã bỏ về nhà mình - một việc mà chưa người đàn bà nào dám làm. Trong chiến dịch tiễu phỉ năm 1959, Thào Mỹ đã đi dịch tiếng địa phương giúp bộ đội. Gặp Nguyên Ngọc lần ấy trên mặt trận. Cũng chưa hỏi xem cái truyện ngắn Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng của Nguyên Ngọc có dây mơ rễ má với Thào Mỹ thế nào mà trong sổ tay công tác của Thào Mỹ chỉ thấy ghi một câu gọi: Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi!. Thào Mỹ hỏi thăm tôi về Nguyên Ngọc, về nhạc sĩ Nguyễn Tài Tuệ. Chắc là Thào Mỹ thầm yêu cả hai người - một đam mê của Thào Mỹ, người cầm bút, người cầm đàn đã gặp Thào Mỹ trong trận tiễu phỉ trên núi. Tôi bảo Nguyên Ngọc bây giờ đang ở chiến trường miền Nam. Thì đôi mắt xanh nâu của người con gái đẹp im lặng..."
Thôi thì đành thú nhận vậy. Tôi lặn lội gần 200 cây số Hà Nội - Tuyên Quang, rồi gần 400 cây số leo ngược mấy Cổng Trời, chính là để thầm mong gặp lại đúng cái điểm kỷ niệm xưa cũ long lanh ấy. Một miền đất có thể nào lắng sâu mãi trong lòng mình dẫu đã xa cách nghìn dặm và hằng mấy chục năm trường nếu ở đấy thiếu đi bóng dáng một người con gái không dễ quên. Mà Thào Mỹ thì chẳng hề là một người con gái bình thường chút nào, con người và số phận. Hình như xưa nay không ai gọi đất là cha. Đất bao giờ cũng là Mẹ, là đàn bà. Ấp ủ, yêu thương, thai nghén, sinh nở, đau khổ, hạnh phúc. Cả cái vùng miên man lởm chởm toàn đá là đá ấy, diện mạo số phận một miền đất đó có thể nhận ra được trong số phận những người đàn bà ở đấy, phải chăng?
"Thì hóa ra 30 năm đã qua" – Tô Hoài viết. Ừ nhỉ, những năm tháng ấy, trẻ trung, lãng mạn, tôi thường lang thang dọc dài những vùng biên giới Việt Bắc đẹp như thơ. Gọi là đi thực tế, được biểu dương hẳn hoi ở cơ quan đấy, kỳ thực là những cuộc du ngoạn triền miên, gặp nơi nào thích thì dừng năm bảy bữa, cái gì hay thì viết mấy trang. Lên Quảng Uyên - Thông Huề bên kia đèo Mã Phục, làm quen với hai cô giáo, một Hàng Bông, một Hàng Trống Hà Nội, chơ vơ giữa một đám học trò toàn người Dao đỏ, người Nùng, người Quý Châu, người H'mông. Các cô bảo ở lại chơi, thì ở! Và viết cái truyện ngắn Dũng cảm. Lang bạt qua Bắc Cạn, Bạch Thông, Đèo Giàng, gặp mấy anh bưu điện kỳ lạ và viết Rẻo cao. Lại vào Hà Quảng, ghé nhà anh thanh niên mù gần Bế Triều, Nước Hai, và viết Pồn... Một bữa, ở thị xã Cao Bằng, rét như cắt, đi ăn món coóng-phù khuya về, nóng bỏng môi, vừa thổi vừa ăn... thì gặp tỉnh đội trưởng Mỹ Sơn cũng đi đâu đấy về rất khuya, vẻ rất tất tả.
– Này, bên Đồng Văn vừa nổi phỉ đấy, chúng nó chiếm mẹ hết cả huyện rồi. Lệnh Quân khu phải đánh hai mũi, một từ thị xã Hà Giang lên, một từ Cao Bằng sang. Sáng mai bọn này xuất binh. Có đi không?
– Đi chứ!
Vậy là mờ sáng hôm sau lên đường. Ô-tô từ Cao Bằng qua Nguyên Bình, Tà Sa, lên Tĩnh Túc. Lại ô-tô từ Tĩnh Túc lên Bảo Lạc. Đường Tĩnh Túc - Bảo Lạc mới mở xong, tôi có đi chuyến khánh thành ấy, ngồi cạnh cậu lái, hỏi:
– So với đường bên Điện Biên thế nào ?
Trề môi:
– Đường Điện Biên ấy à, phải gọi bên này bằng ông nội!
Tới Bảo Lạc thì mút đường. Anh Mỹ Sơn chiếu cố nhà văn, mượn cho được con ngựa. Cả đời đã ngồi lưng ngựa bao giờ đâu, nhưng từ chối thì xấu hổ, thôi thì cứ liều. Hóa ra cũng chẳng ghê gớm gì lắm. Chỉ khổ một nỗi phải lo cái ăn cho nó, cỏ đâu, ngô đâu, đến là khốn. Và nhất là khi gặp ngựa cái đi ngược chiều. Gớm cho cái giống mê gái quá thể này. Nó ngửi thấy hơi gái từ xa hàng cây số.
– Mã mé! Mã mé! - Các anh lính Tày hét to.
Mỹ Sơn gào:
– Ghìm cương ngựa lại!
May mà vừa kịp. Con ngựa lồng lên, suýt quật mình gãy cổ...
Nhưng tất cả những cái ấy, cả những hiểm nguy của cuộc chiến đấu đang chờ phía trước nữa, đều chẳng nghĩa lý gì so với cảnh đẹp đến nghẹt thở nơi đất trời núi non biên giới. Những sườn núi Nùng thoáng rộng đến vô cùng, nở nang và hoang vắng như những khuôn ngực đàn bà hoang sơ nào đấy, tưởng có thể hít thở đến ngợp cả hai khuôn phổi hương da thịt nồng nàn của đất thuở khai thiên còn nguyên vẹn. Đường đi trên các sống núi, ngước lên thăm thẳm màu xanh biên thùy, nhìn xuống thung sâu hun hút, lác đác những bản làng nhỏ xíu phơi mình trong nắng chói chang. Chúng tôi đi hàng một, người và ngựa, và súng ống lỉnh kỉnh, cảm giác một cuộc vạn lý trường chinh nào đấy, hay là một cuộc "Tây du ký" nhỉ? Thật khốn khổ cho cái chủ nghĩa hiện thực tôi được dạy từ ngày cầm bút. Ở đây tất cả đều siêu thực, núi non, mây gió, đất trời, xóm mạc, sông suối, con người, và cả những con ngựa này nữa, lên cao chúng bỗng trở nên trầm mặc và nhẹ tênh, có thể chúng cũng biết nói đấy nhưng không mở miệng nên lời được chỉ vì bị đắm đuối bởi cái đẹp quá thể tràn ngập bốn bề.
Một ngày thì đến Khâu Vai. Gớm thật cái thằng Tây, đâu từ một trăm năm trước nó đã đến đây và xây một cái đồn thật kiên cố trên mỏm Khâu Vai trống trải, chót vót. (Tôi nhớ có lần Nguyễn Tuân kể dọc đường số 4, mạn giữa Đông Khê - Thất Khê - Cao Bằng, ở chỗ hiểm trở nhất có một cái miếu tên là miếu Cặp Bỉ Tiên. Vốn rất tọc mạch, ông Tuân mần mò tìm hỏi cho kỳ ra nguồn gốc vị tiên được thờ ở chốn đèo heo hút gió ấy. Thế mà cuối cùng tìm được. Hóa ra là cái miếu thờ một tên quan ba Pháp đổ xe bỏ xác ở đấy. Quan ba : capitaine – dân gian hóa, thần thánh hóa thành Cặp Bỉ Tiên!).
Đêm chúng tôi ngủ trong đồn Khâu Vai, xây toàn bằng đá khối to bự, cao ba tầng, lỗ chỗ ổ châu mai, phải thay nhau thức gác, hết phiên gác vẫn trằn trọc không ngủ được vì con ngựa dưới sân đòi ăn đạp đổ cái máng lục cục mãi và vì những tiếng động mơ hồ mà rõ rệt của rừng đêm bí mật, đe dọa. Ở đây muôn đời nay vẫn thế: ngày khoáng đạt, bình lặng, yên ả quá; đêm lại đầy hiểm nguy: những toán phỉ táo tợn, bọn buôn lậu thuốc phiện cũng xảo quyệt và hung hãn như bọn cướp, chốn biên thùy là đất dụng võ bất cứ thời nào của chúng.
Mất ngủ, nhưng cái lạnh ghê người buổi sớm tinh mơ lại khiến chúng tôi tỉnh như sáo. Lại lên đường khi còn đặc sương. Lại một ngày rong ruổi đi giữa siêu thực. Chẳng hạn là siêu hay là thực cô gái H'mông phơi váy ở cái làng bé tẹo treo lơ lửng ven sườn núi tít dưới sâu hút kia, chiếc váy lanh phơi trên đá, nở xòe hệt một đóa hoa trắng long lanh? Là siêu hay là thực cái đoàn gần chục cô gái Nùng đi chợ đâu tận từ bên Trung Quốc về, hát Nàng ới vang cả sườn núi, ghẹo chúng tôi và thách chúng tôi hát đối lại?
Mỹ Sơn gọi :
– Nào, anh văn nghệ, lên tiếng đi! Chịu thua à?
Chịu thua thật, đối sao nổi, bởi các cô thì siêu quá, khéo là hồ ly tinh hiện hình cũng nên, còn lũ lính chúng tôi lại thực quá, lỉnh kỉnh những soong nồi súng ống trần tục thế này!...


Đường đi càng về chiều càng lên cao, và hình như núi non mỗi lúc một thắt lại, hiểm trở hơn, hiểm ác heo hút hơn. Vẫn lên nữa. Lên mãi. Đã nghe thỉnh thoảng tiếng súng rộ từng hồi, rồi đột nhiên im bặt, lạnh tanh. Tức là đơn vị đầu tiên, lên trước chúng tôi một ngày, đã chạm địch. Vẫn lên nữa, lên mãi...
Ba giờ chiều, rất đột ngột, bỗng thấy mình đã đứng trên một đỉnh cao chót vót, đỉnh cao nhất. Và trước mặt, một kỳ quan chưa từng thấy: không còn ngọn núi đất nào nữa. Chỉ còn toàn đá. Một cao nguyên đá. Mênh mông, trùng điệp, lô nhô, lởm chởm, cuồn cuộn hàng triệu đợt sóng đá dồn dập như những bức trường thành đá vô tận, nhọn hoắt, sắc lẹm, nham nhở, lở lói, khô cằn, khắc nghiệt... Đá, đá, đá bạt ngàn, hút chân trời. Đá vôi đen xỉn. Và tuyệt không còn gì khác.
Cao nguyên Đồng Văn - Mèo Vạc đấy.
Người, ngựa đổ xuống dốc đá vôi đứng sững. Sáu giờ chiều, đánh một trận qua quít và tràn vào chợ Mèo Vạc. Đơn vị đi trước đã làm nhiệm vụ xuất sắc, chúng tôi chỉ đánh quét nốt cái đuôi. Những ngày sau đánh tiếp một số trận nữa, Pả Vi, Thào Trứ Lũng, Xà Lũng, Mã Pi Lèng, Săm Pun, Xà Phình, Phó Bảng, Lũng Cú... Chẳng trận nào lớn. Nhưng hiểm nguy thì nơm nớp từng giờ, ngày đêm. Có lẽ chẳng đâu còn có loại lính thiện chiến bằng những người H'mông đánh du kích. Họ chỉ dùng mỗi loại súng kíp dài ngoẵng, bắn đạn ria nhồi hạt chì, vết thương không nóng mà lạnh tanh. Bao giờ cũng chiếm những mép núi tai mèo cao và lộng gió, đối phương ngước nhìn lên sẽ lóa mắt vì bị mặt trời chói thẳng vào mặt, còn họ thì cứ thong dong tỉa từng phát một, phát súng vừa bắn ra gió lộng lập tức xua tan mất khói không cách gì xác định được vị trí người vừa nổ súng để phản pháo... Cái thế khốn đốn cổ điển của quân chính phủ đi đánh nhau với quân nổi dậy...
Ngày 22 tháng 12-1959, đánh trận Lũng Cú, rét cắt xương. Cũng đúng hôm ấy, cánh từ thị xã Hà Giang lên, có cả chủ lực Quân Khu, phá được Cổng Trời, tràn vào thung lũng Yên Minh, Mậu Dụê, đánh lên Phó Cáo, Phó Bảng, Xa Phình... Nhưng có lệnh tuyệt đối không được đánh tiêu diệt: phỉ cũng là dân, toàn huyện. Người H'mông, sinh ra và vật lộn suốt đời trên cao nguyên đá, sống bằng loại cây kỳ ảo nhất trên đời này - cây thuốc phiện - vốn là những người thâm trầm mà rất cảm tính. Trung thực, thẳng thắn, dữ dội, nhiều mưu lược, nhưng cũng dễ bị kích động, cuồng nhiệt. Cuộc sống hàng trăm năm nay ở đây là cuộc đánh vật ngày đêm với từng bụm đất nhỏ đúng bằng bàn tay còn sót lại giữa các hốc đá cheo leo để giành lấy một miếng ăn còm cõi, và cuộc đánh nhau triền miên đẫm máu giữa các dòng họ bị chi phối bởi các thế lực chằng chịt trong và ngoài nước. Cho nên diệt phỉ không khéo thì cũng là diệt dân, cả một dân tộc. Chúng tôi được chỉ thị kiên trì đánh từ từ, chủ yếu là đánh tan rã, tóm dần đối phương lại, dồn họ vào một chỗ, vây chặt, kiên nhẫn chờ, mỗi ngày chỉ giọt vào đấy vài chục quả cối uy hiếp, đợi cho hàng nghìn người dân H'mông bị ép buộc, bị lừa phỉnh mà đi làm phỉ cạn lương đói rã tan dần ra, cuối cùng mới tìm truy diệt mấy tên đầu sỏ. Một thứ chiến tranh chậm chạp, uể oải, mệt nhừ. Tướng thì gà gật ngủ suốt ngày, đêm lại thức trắng bức xúc văng tục chửi bới ầm ĩ, lính thì đổ bệnh, chết mòn vì sốt rét và vì cái lạnh biên thùy căm căm.
Đâu đến cuối tháng giêng đầu tháng hai 1960 điểm dồn cuối cùng của địch ở Lũng Phìn mới tan rã hết. Bộ đội Hà Giang, Cao Bằng rút lui. Mỹ Sơn hỏi:
– Về chứ?
– Anh về trước đi.
– Phải lòng cô Mèo nào rồi sao?
– Cũng có thể...
Tôi không nói với anh rằng tôi đã bị đá mê hoặc. Tôi ở lại với cao nguyên đá...
Tôi xin lỗi bạn đọc đã kể dông dài bao nhiêu chuyện linh tinh xưa cũ. Chẳng phải vô tình đâu. Ấy là người viết chuẩn bị không khí cho nhân vật chính xuất hiện đấy: Thào Mỹ.
Đúng ra thì nhân vật chính ra mắt sớm hơn đôi chút kia. Ấy là cái bữa chúng tôi mòn mỏi bao vây Lũng Phìn. Giọt cối chừng chừng, kết hợp binh vận. Mỹ Sơn chợt nhớ Nguyễn Trãi. Anh thảo một bức thư dài, nhờ dịch ra tiếng H'mông, và cho người cầm vào Lũng Phìn, đưa tận tay tên tướng phỉ tại sào huyệt của nó, dụ hàng. Ai đi? Một cô gái H'mông. Sáng ấy tôi vắng mặt, không được gặp cô khi cô lên đường. Trưa tôi mới về chỉ huy sở đóng trong nhà Dương Trung Nhân, một tên lãnh chúa từng thống trị cả vùng này, đánh nhau với Vương Chí Sình, về sau thua, bỏ chạy vào Nam theo giặc. Nhà xây toàn đá hộc, hai tầng, tối om, bí hiểm, tường lởm chởm lỗ châu mai. Ngồi ở cái căn gác thấp xịt ngổn ngang súng ống nhà Dương Trung Nhân, chúng tôi nóng ruột chờ cô gái trở về. Trưa. Rồi chiều. Rồi tối. Vẫn bặt tăm. Lòng dạ như đốt.
– Khéo chúng nó ăn thịt mất con bé rồi. Thì tớ lĩnh kỷ luật chuyến này mất - Mỹ Sơn lo lắng. Anh đứng dậy, cái xà nhà thấp quá đánh bộp vào đầu một phát, lại cau có ngồi xuống.
"Ăn thịt con bé" là nói theo nghĩa đen. Hôm mới chiếm Lũng Phìn, bọn phỉ bắt được năm cô gái mậu dịch, đã giở trò tùng xẻo, cắt mũi, cắt tai, cắt vú, mổ bụng moi tim nấu ăn thật sự. Về sau giải phóng Lũng Phìn xong, chúng tôi vào, còn tìm được mấy cái chảo chúng nó rán mỡ người...
Mãi đến hơn 12 giờ đêm, bỗng nghe có người kêu to dưới sân:
– Thào Mỹ đã về!
Chúng tôi đứng bật cả dậy. Mỹ Sơn lại va bộp đầu vào đúng cái xà lúc nãy, nhưng chẳng còn ai chú ý. Có tiếng bước chân rất thong thả bình tĩnh lên cầu thang, và trước mặt tôi hiện ra, không phải một "cô bé" mà là một người con gái khoảng hăm bốn hay hăm nhăm, hai má đỏ au vì xúc động hay vì rét, đôi mắt - Tô Hoài quan sát giỏi thật - đúng là một đôi mắt xanh nâu đẹp im lặng. Chưa bao giờ tôi đứng trước một người con gái có sức thu hút mãnh liệt như vậy. Gọn gàng, nở nang, rắn rỏi mà mềm mại, đôi mắt hơi cười nhưng vẫn thấm đẫm một nỗi đau, một nỗi buồn tê tái nào đó cứ buộc mình phải đoán, phải cố tưởng tượng. Có một vẻ gì đó, ngay từ phút gặp đầu, vô cùng đắm đuối ở người con gái ấy. Chiếc áo H'mông bị xé rách để lộ một mảng ngực trắng ngần, Thào Mỹ chẳng cần đưa tay che lại. Chị cứ đứng như vậy mà bình tĩnh kể cho chúng tôi nghe cuộc mạo hiểm của mình hôm nay, bằng thứ tiếng Kinh bập bẹ, chen lẫn tiếng H'mông, tiếng Quan Hỏa lộn xộn.
Đúng là Mỹ Sơn đã đánh một nước bài quá liều. Anh đã đưa Thào Mỹ vào tay Vàng Chỉnh Cáo, tên đầu sỏ nguy hiểm nhất trong tất cả những tên đầu sỏ nguy hiểm của cuộc nổi loạn này. Thào Mỹ đúng là suýt bị nó ăn thịt thật. May chị lợi dụng một mảnh đá tai mèo sắc nhọn tự cứa đứt dây trói chạy thoát về đây.
... Một năm sau, Vàng Chỉnh Cáo bị tuyên án tử hình tại phiên tòa xử vụ phỉ Đồng Văn - Mèo Vạc, mà Thào Mỹ ngồi ghế hội thẩm nhân dân...


... Còn "Thào Mỹ bây giờ ngồi ngôi hàng nước chợ Mèo Vạc". Ngôi hàng nước ấy, nơi tôi tìm gặp lại được Thào Mỹ sau 30 năm, cách ngôi nhà Dương Trung Nhân nơi tôi biết chị lần đầu chỉ mấy bước chân.
Xuân Thiều nhận xét:
– Đôi mắt vẫn còn đẹp lắm!
Vậy thì tôi có bươn bả hơn 600 cây số để gặp lại một đôi mắt ấy, đáng để mà lặn lội quá, phải không?
Quản Bạ chào khách bằng một cảnh tượng tuyệt vời: đôi núi Vú Nàng Tiên đứng ngay đầu thị trấn. Một cặp núi, thật lạ, mơn mởn đôi vú trinh nữ, cao nhọn, gọi mời, thách thức...
Ngày tôi ở Đồng Văn - Mèo Vạc về, cuối năm 1960, không theo tuyến Bảo Lạc nữa, mà xuôi đường thị xã Hà Giang. Đầu 1962 lại lên một chuyến, coi như chuyến thăm từ giã trước khi vào chiến trường miền Nam, cũng đi đường Hà Giang. Bấy giờ từ thị xã Hà Giang lên chưa có đường ô-tô. Mới lác đác dăm ba công trường phá đá làm đường mạn Pác Sum, Làng Đán... Ngày nay đã khác xa rồi: ô-tô leo tới tận mãi Lũng Cú. Một công trình vĩ đại. Hơn hai trăm cây số đèo dốc hiểm trở, toàn đi trên đá, nghe nói cứ mỗi cây số trung bình phải tốn 8 tấn thuốc nổ phá mở đường. Cũng là một thứ Kim Tự Tháp thời hiện đại chẳng ngoa.
Buổi sáng sớm, xuất phát từ Tuyên Quang, cậu Gác lái xe bảo:
– Trưa nay ta ghé Bắc Quang ăn cơm, rồi cố chạy một mạch, tối ngủ Quản Bạ.
Sướng thật. Ngay trước cuốc bộ, Hà Giang lên Quản Bạ, thật dẻo chân cũng phải mất ba ngày trường trải.
Gác thực hiện chương trình rất chính xác: trưa ăn cơm Bắc Quang đàng hoàng. Hai giờ chiều, ghé thị xã Hà Giang làm chén cà-phê cho tỉnh táo. Ba giờ qua Làng Đán, trước nổi tiếng nhiều hổ ("Muỗi Pác Sum, hùm Làng Đán"), hồi chiến tranh biên giới là một trong những trọng điểm chịu đựng nhiều pháo nặng nhất. Ba giờ rưỡi, leo Cổng Trời Pác Sum.
Xuân Thiều đã bắt đầu kinh ngạc:
– Gớm, toàn đi trong mây!
Gác và Ma Liễu chỉ cười. Còn tôi thì ra vẻ thông thạo:
– Đã thấm gì, cái dốc tráng miệng thôi. Ngày mai mới biết tay nhau.
Năm giờ rưỡi, đến Quản Bạ. Quản Bạ chào khách bằng một cảnh tượng tuyệt vời: đôi núi Vú Nàng Tiên đứng ngay đầu thị trấn. Một cặp núi, thật lạ, mơn mởn đôi vú trinh nữ, cao nhọn, gọi mời, thách thức. Người mới đến đã có ngay cảm giác vùng cao nguyên dữ dội và bí hiểm này chắc là định giành cho mình những thiên tình sử lạ kỳ nào đây.
Mà đúng vậy. Dữ dội, quằn quại, trữ tình, say đắm là rừng núi của đá và của những dục vọng va đập nghìn đời nay.
Sáng sau Gác bảo:
– Hôm nay các vị cố mà chịu đựng nhé, ta đi một mạch cho đến Mèo Vạc luôn. Ngày mai là phiên chợ Mèo Vạc mà. Bây giờ phiên đúng ngày chủ nhật.
Tôi hơi bất bình: sao lại sinh ra cái lệ tính phiên chợ theo lịch Tây thế này? Về sau mới rõ: hóa ra các cơ quan nhà nước, cả cơ quan Đảng, đoàn thể nữa, trên này chẳng ai sống được bằng đồng lương còm cõi, đương nhiên. Cũng phải bám các phiên chợ mà làm ăn, mà sống thôi: mua bán, đổi chác, đầu cơ, tích trữ... Cứ như trước, phiên họp khác ngày chủ nhật, thì các cơ quan chẳng còn ma nào làm việc.
Ra cái thơ mộng lâu đời những vùng rẻo cao cũng đã bắt mùi kinh tế thị trường của đổi mới rồi. Còn số phận những con người ở đây, những Thào Mỹ, những Sùng Chóa Vàng, những Lùng Sùng Páo... từng rất thân thiết một thời xưa của tôi trải cuộc dâu bể ba mươi năm nay ra sao?
– Ông Ngọc kể tiếp chuyện Thào Mỹ đi. Cho khuây khỏa... và cũng đỡ sợ – Xuân Thiều bảo.
Ra anh chàng đã bắt đầu sợ! Hôm nay dốc ác liệt quá, toàn quanh gấp, đứng sững, dưới bánh xe hầu như không có một chút đất, chỉ tuyền đá tảng nham nhở trơn trật. Gác bảo: đường này không được phép để trôi xe quá nửa mét, sẽ lao xuống vực ngay. Mà vực thì sát bên lề, cách có vài gang tay, thăm thẳm hun hút như chốn địa phủ, chỉ cần liếc nhìn xuống đã nghẹt thở vì ngợp.
Chúng tôi chạy dọc sông Tráng Kìm một đoạn, rồi đột ngột rẽ qua cầu và lập tức leo Cổng Trời Cán Tỷ.
Mấy hôm sau tôi có dẫn Xuân Thiều lên thăm Mã Pi Lèng, ngọn đèo nổi tiếng chắn giữa Đồng Văn và Mèo Vạc. Có hai cách dịch chữ Mã Pi Lèng, tùy theo lối đọc nhấn mạnh hay nhẹ âm i ở chữ Pi: hoặc là sống mũi con ngựa, hoặc là tên một bộ phận khiến cho con ngựa cái được coi là ngựa cái. Mã Pi Lèng và Cán Tỷ là hai kỳ quan đặc sắc nhất của vùng núi non này. Bạn đã có dịp nghe hát dân ca H'mông bao giờ chưa? Đó là sự kết hợp bất ngờ đột ngột kỳ diệu của những âm vực gần như không thể tưởng tượng nổi: cao chót vót, và trầm sâu đến đáy. Không có cái giữa chừng, không có sự trung bình, chỉ có cực điểm. Núi non ở đây là thế. Con người là thế. Thào Mỹ là thế.
Hãy ngửa cổ nhìn lên cái đỉnh Cán Tỷ hay đỉnh Mã Pi Lèng kia mà xem, thăm thẳm trong mây. Anh còn tinh mắt không? Anh sẽ nhận ra, loang loáng trong mây, tít tận chỗ sát trời xanh kia, một làng H'mông lơ lửng chơ vơ. Trời ơi, sao lại leo lên đến tận trên ấy mà ở, mà làm nhà, mà sinh sống, yêu đương, sinh nở, cha truyền con nối? Đố ai mà hiểu được.
Và bây giờ hãy vịn chắc tảng đá bên bờ vực này mà cố nhìn xuống con sông Nho Quế dưới kia. Hàng nghìn thước sâu có thừa. Ngọn núi lớn có lẽ từ hàng triệu năm trước, một hôm nào đó, đột ngột bị một nhát rìu khổng lồ chém đứt làm đôi, nhát chém dữ dội và sắc lẹm quá, cả trái núi đá hàng vạn ki-lô-mét khối bị bổ dọc, nứt toác ra, hai bờ thẳng đứng, bên này là Mã Pi Lèng, bên kia là Sam Pun, ở giữa dưới nghìn mét sâu là con sông Nho Quế leo lẻo xanh đến rợn người. Thế mà nhìn kỹ xem, vẫn có đường mòn men theo sườn đá dốc đứng mà leo xuống: dưới ấy vẫn có làng, có người, có nương. Mỗi cái nương là hàng vạn, hàng triệu bụm đất nhỏ bằng bàn tay còn sót lại trong các hốc đá lô nhô, lởm chởm, chằng chịt. Người H'mông nổi tiếng về nghệ thuật xếp đá. Họ có thể xếp những bức tường toàn bằng đá cao hàng chục mét, dài hàng trăm mét, thẳng tắp, không cần bất cứ một chất kết dính nào. Xếp đá để chống chọi lại với trời đất, với giông bão, với mưa lũ xói mòn, cum cúp giữ gìn từng chút đất. Họ lại có thể đàng hoàng cày bằng bò trên những nương đá ấy đấy. Có nghệ thuật cày ruộng nào sánh bằng. Và trên từng bụm đất quý hơn vàng ấy, cắm xuống một cái cây. Để mà tồn tại.
Cây gì?

Ba mươi năm trước, người H'mông chuyên trồng loại cây đắt giá nhất, kỳ ảo nhất, say đắm nhất trên đời này: cây thuốc phiện.
Bây giờ thuốc phiện bị cấm rồi. Thay bằng cây ngô. Trồng ngô ở đây, thì chết đói.
Trồng thuốc phiện – thì hư hỏng. Hư hỏng cả xã hội.
Làm sao?
Cuộc nổi phỉ và cuộc tiễu phỉ ác liệt năm 1959, với tất cả sự đan chen vô cùng phức tạp của các mưu đồ chính trị lớn và nhỏ, trong nước ngoài nước... đều dính líu chằng chịt đến chuyện trồng cái cây gì trên bụm đất nhỏ xíu còn sót lại giữa các hốc đá nham nhở nơi này.
Trồng cây gì?
Câu hỏi chừng đơn giản vậy mà đẫm máu, mà chi phối khắc nghiệt số phận hàng vạn con người, từng số phận con người, từng chặng đường số phận mỗi con người.
Tôi nhớ mãi cái buổi đầu tiên tôi thật sự làm quen Thào Mỹ. Ấy là bữa bộ đội Cao Bằng, Hà Giang rút về, chúng tôi ở lại, một số cán bộ từ các tỉnh gần quanh bổ sung sang cùng với vài trung đội vũ trang, để làm nốt cái đuôi còn lại nhưng cũng là cái việc gian nan nhất của công cuộc tiễu phỉ: "đại quân" phỉ đã tan rã hết rồi, đã trở về các xóm làng của họ, đã trở lại thành dân thường, song bọn đầu sỏ gian ác cũng "tan" theo, tản vô các xóm làng rải rác heo hút trên ngàn vạn núi đá hiểm trở, cũng trở thành "dân", được dân che chở nuôi giấu hoặc do bị chúng khống chế, hoặc do tình cảm tộc họ lâu đời chằng chịt. Bây giờ phải mạo hiểm, len lỏi vào từng làng, từng hốc núi, hết sức kiên trì phát động quần chúng, moi tìm cho ra những tên cầm đầu nguy hiểm này mà trừ tiệt đi.
Câu chuyện dông dài lắm. Tôi chỉ nói vắn tắt thế này: chúng tôi mất đúng một năm trời, và không ít máu.
Mỗi xã lập một đội phát động quần chúng tiễu phỉ. Mèo Vạc, bấy giờ còn là một xã, cũng có một đội như vậy. Anh Trương Cộng Hòa, cán bộ người Tày bên Bạch Thông Bắc Cạn điều sang, làm đội trưởng. Tôi được cử làm đội phó. Tất nhiên đội phải có người địa phương thông thuộc phong tục tập quán, địa hình, tiếng nói mới mong dần dần nhập được vào dân mà truy ra đầu sỏ. Anh Cộng Hòa bàn với tôi chọn lấy ba người đáng tin cậy nhất: Lùng Sùng Páo người Lô Lô ở Chúng Pả, ngày bọn phỉ nổi lên chiếm Đồng Văn, Mèo Vạc, chính Lùng Sùng Páo đã vượt mọi hiểm nguy, chạy sang tận Bảo Lạc đón bộ đội về dẹp loạn.
Người thứ hai là Sùng Chóa Vàng người H'mông ở Pả Vi, đã đi cùng chúng tôi suốt những ngày đánh nhau ác liệt, là một tay súng cực kỳ thiện xạ, mà cũng là cái thùng rượu không đáy.
Người thứ ba, tất nhiên: Thào Mỹ.
Hôm họp đội lần đầu tiên ở căn gác nhà Dương Trung Nhân, hình như Thào Mỹ có hơi say. Chẳng phải vì rượu đâu. Không có thứ rượu nào làm cho Thào Mỹ say nổi. Vì một nỗi rộn ràng nào đó, tôi chưa đoán được. Hai má đỏ chín. Chị nói nhiều, cười nhiều, rồi có lúc đột nhiên im bặt, và nhìn kỹ thấy long lanh hai giọt nước mắt.
Tan họp, chị kéo tôi ra chợ Mèo Vạc.
Bạn đã ghé một phiên chợ vùng cao bao giờ chưa? Hoàn toàn không chỉ là chỗ buôn bán. Ở cái nơi mà con người quanh năm sống cô độc đìu hiu cách biệt trong im lặng tưởng đến vĩnh hằng của những hốc núi trơ trụi này, chợ là ngày hội. Của hội ngộ, của bạn bè, của vui chơi, của tình yêu, của say đắm, của sàm sỡ, của thỏa thuê. Mỗi phiên chợ như một sự bùng nở, một vụ bùng nổ của con người khát khao bị đè nén, bị ức chế. Không gì thích bằng nhìn những đôi chân người H'mông từ các sườn núi chót vót mờ sớm đổ xuống chợ. Họ đi hăm hở, gấp gáp, hối hả giành nhau mà đi, đạp lên đá nhọn sắc, lên gai góc mà đi, hấp tấp, bất chấp tất cả, như sợ muộn mất cuộc vui, như sợ lỡ cuộc hẹn hò nào khẩn thiết lắm, cấp bách lắm. Con trai đeo khèn. Con gái gùi củi tấu. Chẳng có gì để bán cũng đi chợ. Người và ngựa, và ô, và khèn, và những chiếc váy Mèo dệt bằng lanh giặt bằng nước tro lao xao óng ánh theo bước đi uyển chuyển.
Khói um một góc trời. Ấy là lò nấu món đặc sản không thể thiếu ở các phiên chợ vùng cao này đấy: món thắng cố. Thịt trâu hay thịt bò xả ra từng mảng, xương xẩu để nguyên, tim gan tì phế để nguyên, cả ruột non ruột già nữa cũng để nguyên, chẳng cần rửa ráy gì hết, tống tất vào những cái chảo khổng lồ, vứt vào đấy một nắm muối và một nắm thảo quả, đun sôi sùng sục. Múc bằng những muôi gỗ to tướng, mỗi người một bát đầy, xì xụp húp bỏng miệng. Và uống rượu ngô men lá, rượu cũng phải uống bằng bát, bưng cả hai tay mà uống. Và xì xầm nói chuyện, và hò hét cãi vã, và bỗng dưng cất tiếng hát dìu dặt... Tôi cứ nghĩ mãi vì sao món thắng cố của người H'mông lại được nấu một cách cố tình liều mạng như vậy: có lẽ đây cũng là một lối bùng nổ cho đến hết ga, cho thật hả hê chăng?...
Thào Mỹ kéo tôi đến một hàng thắng cố. Ăn thắng cố thì phải ngồi bệt ngay ra đất. Mỗi người một tô lớn. Và một bát rượu đầy.
Chà, cô gái đáo để này muốn thử thách mình đây. Thì chơi! Tôi nốc một tô rượu lấy đà, rồi nhắm mắt nuốt trôi cả bát thắng cố Thào Mỹ trao tận tay...
Tôi đã vượt qua thắng lợi cuộc thử thách đầu tiên như thế.
– Về thôi anh – Thào Mỹ bảo.
Chúng tôi lại quay về căn gác nhà Dương Trung Nhân. Chỉ còn hai người. Thào Mỹ nói:
– Từ nay anh là anh trai của em. Em là em gái. Anh dạy em học tiếng Kinh nhé. Em sẽ dạy anh học tiếng Mèo. Rồi em sẽ kể hết cuộc đời em cho anh nghe.
Suốt đêm ấy Thào Mỹ hát. Những bài hát Mèo buồn tê tái.



Cuộc đời Thào Mỹ, tôi đã kể lại trong Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng rồi. Tất nhiên đấy là truyện ngắn, có thật, có bịa. Tôi cũng đã đổi tên người, tên đất. Tôi gọi chị là Vàng Thị Mỹ. Nhưng chính Thào Mỹ lại thấy mình trong ấy. Tô Hoài chẳng đã từng kể trong thiên hồi ký của anh: giữa một trang giấy chỉ thấy Thào Mỹ ghi một câu gọi Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng ơi! là gì. Còn tôi quả tình đọc lại cái truyện viết gần 30 năm trước tôi lẫn lộn tất, chẳng còn phân biệt được đâu là thật là giả. Nghĩa là, thôi thì quả đúng vậy, Thào Mỹ ngày ấy, người con gái H'mông đau khổ và quyết liệt đã thử thách tôi bằng bát thắng cố và tô rượu bự ở chợ Mèo Vạc, đã dạy tôi tiếng H'mông và là người học trò tiếng Kinh thông minh và chuyên cần của tôi, đã dạy tôi cả những bài hát tiếng H'mông buồn tê dại:

Tà à dù tùa tỳ lâu lê
Nà nề pề lâu lư
Sí tù pê lau thua
Tu à du
Cứ cà cào dùa sê cào
Chí dùa sê
Cào mua pế tau lờ ta vê
Lù tà che, tù à dù
Cú cà cào dúa se cào
Chí dùa nhê
Cào mu pê tau lở ta về
Lù la thê, tù à dù...
              

Trời xanh đẹp, về hả anh
Tao bảo mày lấy vợ, mày không lấy
Mày đi ba bốn ngày quay trở về vào nhà
Trời xanh đẹp, tao bảo mày lấy vợ mày không lấy hả
Mày đi ba bốn ngày quay trở về vào nhà
Trời xanh đẹp...
Rồi chúng tôi đi công tác cùng nhau suốt một năm dài, ăn mèng méng và uống rượu men lá, cũng nhiều lần phải nổ súng ác liệt, đêm ngủ trên các sàn bếp nhà người H'mông chật cứng và um khói đen kịt, ngày len lỏi lên các xóm H'mông lơ lửng trong mây. Có lẽ chúng tôi đã đi đến hàng nghìn cây số đường núi đá tai mèo, Pả Vi, Xà Lũng, Thào Trứ Lũng, Mã Pi Lèng, Cán Trứ Lũng, Chúng Pả, Sàng Pả, Lũng Phìn, Phó Cáo, Xà Phình, Phó Bảng, lên tận Sam Pun, Lũng Cú, cũng có khi qua đến Cán Tỷ, Bát Đại Sơn, Thèng Phùng... Thào Mỹ càng đi càng đẹp ra. Một vẻ đẹp rất lạ, cuốn hút vô cùng, khi im lặng trầm uất như một ngọn núi Mèo cô độc, khi lẳng lơ như những bông hoa thuốc phiện quyến rũ, khi phấp phới như ngọn gió ào ạt trên đỉnh Sam Pun...
Chúng tôi là bạn, là đồng chí, là anh em, là gì nữa... chính tôi và chị đều không biết.



Rồi tôi trở về Hà Nội, mang theo một đống tài liệu cho cuốn tiểu thuyết đến nay vẫn chưa viết và để lại trên ấy một phần đời lãng mạn và đẹp nhất của mình.
Rồi tôi đi vào Nam, miền Nam gọi.
Thào Mỹ ở lại. Đoạn đời sau của chị, chính Tô Hoài kể với tôi. Việc công: Thào Mỹ làm cán bộ xã, rồi làm phó chủ tịch huyện, ngồi ghế hội thẩm nhân dân phiên tòa lớn xử vụ phỉ Đồng Văn, rồi làm cán bộ phụ nữ tỉnh, có chân cả trong ban lãnh đạo Hội liên hiệp phụ nữ Trung ương...

Việc tư: Thào Mỹ đã bỏ thằng chồng nhóc con bị ép lấy từ thuở dậy thì. Thào Mỹ yêu nhiều, người ta yêu Thào Mỹ nhiều, cán bộ Kinh, Tày, Nùng, Lô Lô, cấp xã, cấp huyện, cấp tỉnh, cấp Trung ương... Nhưng đều dang dở. Hồi làm phó chủ tịch huyện, Thào Mỹ yêu một cậu cảnh vệ rất đẹp trai, nhỏ hơn Mỹ đến mươi tuổi. Mà phong tục cách mạng thì chẳng chấp nhận chuyện ấy. Mấy lần ăn lá ngón đều không chết, số trời đày ải còn lâu. Cuối cùng Thào Mỹ lấy một anh Lô Lố quê mãi Lũng Cú, trẻ hơn Mỹ cũng gần chục tuổi, không biết chữ. Cán bộ phụ nữ H'mông cấp huyện, tỉnh, Trung ương thì cũng là đàn bà H'mông thôi. Chiều chồng hết mực, còng lưng lo cho nó cái ăn, lo cho nó cái rượu uống, nó say rượu nằm thượt ra giữa đường núi đá nắng chang chang thì ngồi đó cầm ô che cho nó suốt ngày, đến tận khuya, nó hơi tỉnh dậy thì dìu, thì cõng nó về nhà. Nó đánh Thào Mỹ như đánh một con chó, mặt mày rách nát, ngực bê bết máu, nó chửi "cái con Mèo già, cút mẹ mày đi!" Vẫn yêu thương, vẫn nâng niu, vẫn chăm nó như con...
Tôi lặn lội tìm gặp lại Thào Mỹ sau 30 năm. Để sẽ gặp lại ai đây?
Gác lái xe bảo:
– Ta dừng lại Lũng Phìn đã anh nhé.
– Ừ thì Lũng Phìn.
Tôi sực tỉnh, nghe đâu đó trong tận sâu của chính mình, tê tái buồn, và nhớ.
Thào Mỹ?... Thào Mỹ nào nhỉ?... À phải rồi, hình như là bán cái quán ngay trước cổng cơ quan đây.
Đồng Văn ngày xưa là một huyện lớn, nay chia làm bốn: Đồng Văn, Mèo Vạc, Yên Minh, Quản Bạ.

Ngày chiến tranh biên giới, thị trấn Đồng Văn và tất cả các xã đều trở thành phía trước phơi mình ra dưới tầm pháo. Huyện Mèo Vạc phải nhường cho Đồng Văn ba xã để có chỗ mà lui. Huyện lỵ Đồng Văn phải chạy lùi về Lũng Phìn. Nghe nói tốn tới hàng trăm tấn thuốc nổ phá núi dựng cơ quan huyện ủy và ủy ban mới. Cơ quan khá đàng hoàng, cất toàn bằng gỗ trắc núi đá rắn hơn thép, trên đồi cao, khoáng đạt, khang trang. Chỉ có điều rét tê người quanh năm. Đêm chúng tôi ở lại, sương buốt tựa băng rơi lộp độp suốt sáng như một thứ mưa rào chậm chạp và bí mật. Có cửa hàng mậu dịch, có cả ngân hàng, kho bạc... Nhưng hình như quang cảnh chung lại đìu hiu hơn, xơ xác hơn xưa nhiều. So với ngày tôi ở trước đây, chỉ có hai điều thay đổi tân tiến rõ rệt: đường ô-tô đã đến hầu khắp các xã, tất nhiên là đường hiểm trở vô song, nhưng dẫu sao cũng là đường.
Và nước. Trên vùng núi đã vôi mênh mông này nước quý hơn vàng. Mưa ào xuống một cái, vài phút sau núi đá vôi đã hút khô sạch. Nay đã có đường ống dẫn nước, bằng kim loại hẳn hoi, qua các xã. Nước được chứa trong các bể xi-măng lớn, xanh rờn và lều phều rêu rác, nhưng cũng là nước, là thiên đường, so với cái đói nước kinh niên ngày trước.

Tiếp chúng tôi là Phó Bí thư kiêm Chủ tịch Hội đồng nhân dân huyện Lì Mí Pó. Theo chỗ tôi nhớ, tôi chưa gặp người H'mông nào như anh. Không sôi nổi, nhiệt huyết ồn ầo, dễ say và dễ buồn, dễ cực điểm. Lì Mí Pó chắc chắn, hơi trầm mặc, ít nói, cười rất nhẹ, đăm chiêu nhiều hơn. Anh nói chậm, cân nhắc từng chữ, câu nói gọn và chắc. Người gầy, rắn đanh như được tạc bằng gỗ trắc núi đá, mắt không xếch lắm, khuôn mặt rắn rỏi, kiên định. Anh là kỹ sư nông nghiệp.

Câu chuyện loanh quanh một ít những kỷ niệm xưa, rồi lập tức, chẳng dừng được, bị cuốn ngay vào đề tài nóng bỏng nhất: sống thế nào đây, trên núi đá cằn cỗi muôn đời này?

Lì Mí Pó đi nhiều. Người đi nhiều thường cũng là người nghĩ nhiều. Anh bảo:
– Tôi công tác ở huyện mỗi năm trung bình đi bộ ba, bốn nghìn cây số, buổi trưa nhịn đói.
Câu chuyện của anh, tất nhiên, xoắn chặt vào việc làm ăn. Vẫn câu hỏi cháy bỏng ấy: trồng cây gì?
Lì Mí Pó:
– Chúng tôi có 4 vạn hai dân, 11 dân tộc, 90 phần trăm người H'mông. Bình quân đất sản xuất 0,17 héc-ta/đầu người.
Tôi cười :
– Đất hay đá?
Lì Mí Pó cũng hơi cười:
– Vâng, đá.

– Trồng gì?
– Ngô và một ít lúa. Năng suất ngô 9 tạ/héc-ta, lúa 2,4 tấn/héc-ta. Thử trồng ngô hai vụ nhưng thất bại, anh ạ, vì thiếu cường độ ánh sáng.
Anh nhìn ra ngoài. Đã gần 10 giờ sáng. Mà bốn bề vẫn còn mù mịt sương.
– Đành quay lại một vụ, thu hoạch khoảng tháng năm tháng sáu, phụ thuộc có mưa sớm mới cày được. Tháng chín, tháng mười giá lạnh, cờ ngô bị khô trắng. Năm nay do mưa nhiều, lũ trôi cây, phân gio. Dân không có tiền mua phân đạm. Hiện nay ba bốn mươi phần trăm số hộ đói. Không có ngô ăn, chỉ trông chờ tam giác mạch, nhưng tam giác mạch sẽ làm chua đất, xấu ngô.
– Còn cây dược liệu?
– Cũng có đấy: đương quy, tam quy, tam thất. Nhưng thị trường bấp bênh, các thứ ấy bây giờ bên Tàu tràn qua nhiều. Dân chán, mỗi năm chỉ thu hoạch được vài chục cân. Trên này có ưu thế mận, lê, chắc anh từng biết rồi. Nhưng bảo quản, vận chuyển thế nào? Thuê một chiếc xe tải từ thị xã Hà Giang lên, về, mất bốn triệu đồng.

Tôi liều mạng bục ra một câu hỏi kỳ thực vẫn ấm ức từ lâu:

– Hay trở lại cây thuốc phiện?

Lì Mí Pó ngồi im lặng rất lâu. Những gì đang trào lên trong anh mà khiến đôi mắt của người kỹ sư nông nghiệp H'mông sinh ra trên đất đá khắc nghiệt này, hơn nửa đời trằn trọc với quê hương này, mỗi năm đi bộ, nhịn bữa trưa, hàng 3, 4 nghìn cây số khắp núi non này, đôi mắt nhỏ, dài ấy đột nhiên ánh rực lên.
– Đó là việc của cấp quốc gia – anh nói.
– Nhưng còn ý kiến riêng anh?
Lì Mí Pó nhắc lại.
– Đó là việc của cấp quốc gia... Bây giờ cấm trồng thuốc phiện nhưng người ta vẫn hút đấy. Có điều chui lủi, lén lút, khó nhọc hơn, đắt hơn.
Ngừng một lát rồi anh nói:
– Sức mua của dân rất thấp, chỉ trông vào ba hạt ngô còm cõi.

Đêm hôm ấy tôi lại ngồi với Lí Mí Pó đến khuya. Hình như sự tĩnh mặc của đêm núi rừng khiến anh cởi mở hơn. Anh tâm sự:
– Tôi có nghĩ một phương án: làm thủy điện sông Nho Quế. Tôi đi xem kỹ rồi. Làm được. Tất nhiên nhà nước Trung ương phải hỗ trợ chúng tôi. Chẳng lẽ nhà nước Trung ương bỏ chúng tôi sao?
– Để làm gì? – Tôi hỏi.
– Sẽ chế biến bảo quản lê, mận, đào, rồi chuyển về xuôi. Tôi nghĩ nát óc rồi, chỉ còn phương kế đó.
Chúng tôi lại ngồi im lặng. Tôi không dám hỏi thêm Pó câu gì nữa. Tôi biết cái phương án của anh đẹp quá, nhưng rồi chắc cũng chỉ là một thứ ảo tưởng như bao ảo tưởng của chúng ta... Lê, mận Đồng Văn, Phó Bảng ngon nổi tiếng. Nhưng sản lượng được là bao?...
Thật sự chưa có con đường ra cho cái cao nguyên đá kỳ dị này.



*



Trên đường từ Lũng Phìn qua Mèo Vạc, Gác lái xe bảo:
– Cái dốc này gọi là dốc Ba Cô Giáo đây.
– Là thế nào?
Gác cười. Anh đánh nhanh tay lái tránh một tảng đá lớn.
– Anh cho em xin điếu thuốc... Nguyên chỗ này có một cái trường cấp 1, tất nhiên, có ba lớp thôi. Lớp 1, lớp 2, lớp 3. Lớp 1 mười học sinh, lớp 2 năm, lớp 3 thì chỉ còn có hai. Cả ba lớp ngồi chung tất một phòng, dạy chung, học chung, lộn tùng phèo. Ba cô giáo là người dưới xuôi lên. Kinh có, Tày có. Anh nghĩ coi, heo hút giữa rừng đá, bốn bên toàn đá. Bộ đội ta phát hiện ra. Đi qua, tạt vào, nghỉ lại đêm. Đủ ba người thì tốt, hai người cũng được, một cũng được. Nghĩa là... anh hiểu rồi chứ gì?... Thương quá.
Chúng tôi sững người. Và bỗng sực nhớ ba cô gái trong cái trạm sản xuất bị bỏ quên giữa rừng Tây Nguyên và những cậu trinh sát khao khát và tội lỗi trong quyển tiểu thuyết Thân phận tình yêu của Bảo Ninh.

Ôi, giữa những ngày tôi và các bạn đang sống yên ổn giữa Hà Nội, với bao nhiêu chuyện hàng ngày hữu tích sự và vô tích sự của chúng ta, thì ở nơi núi non xa xôi này vẫn còn có câu chuyện bi thảm tội lỗi và đau đớn này sao?...

Chúng tôi phải dừng xe lại, nép hẳn vào một bờ ta-luy nhường đường cho hai chiếc xe tải chở rất nặng ngược chiều. Thùng xe chất toàn những hòm gỗ lớn: xe quân đội chở đạn về xuôi. Chiến tranh biên giới đã yên. Bộ đội đang rút dần về.

... Có người đón đường đi nhờ xe: một cô giáo ở chính cái trường S.L. Gác vừa kể, đi nhờ xe về Mèo Vạc: ngày mai là phiên chợ. Cô gái má đỏ au, rắn chắc. Hình như là người Tày Chiêm Hóa. Đường xóc nảy người mà cháu bé vẫn ngủ say.

Chúng tôi không dám hỏi chồng cô bây giờ ở đâu. Cô gái cười tươi rói:

– May quá, không thì mẹ con cháu cuốc bộ nửa đêm mới đến nơi.

Cô giáo cũng đi chợ. Chốn đèo heo hút gió này chợ là ngày hội mà.

*


– Thào Mỹ bây giờ ở đâu?

Anh Phó Chủ tịch huyện Mèo Vạc hơi ngơ ngác:

– Thào Mỹ?... Thào Mỹ nào nhỉ?... À phải rồi, hình như là bán cái quán ngay trước cổng cơ quan đây.

"Hình như...". Tôi hơi cay đắng, nhưng biết chẳng trách ai được. Anh phó chủ tịch người tận dưới Thái Bình, chắc là mới được điều lên công tác vùng cao sau khi Thào Mỹ đã nghỉ việc. Bao nhiêu lo toan rối rắm hàng ngày, anh đâu có thì giờ tìm hiểu những chuyện mấy chục năm trước.

"Hình như là bán cái quán ngay trước cổng cơ quan đây", nghĩa là cách chỗ tôi đang ngồi chỉ năm bảy chục mét. Tôi vội rửa ráy qua quít rồi chạy ù ra:

– Chị Thào Mỹ!

– Anh!

Chúng tôi không nói được gì nữa. Thào Mỹ cúi xuống lục tìm mãi một vật gì đó trong cái thúng hàng lộn xộn, chắc là để giấu đi một nỗi niềm xúc động quá bất ngờ. Lâu lắm chị mới ngửng lên, gần như thì thào:

– Vậy mà em nghe tin anh đã hy sinh rồi.

Và chúng tôi lại ngồi im lặng. Đột nhiên chẳng còn có gì để nói với nhau cả. Tất cả vụt tan biến hết. Xuân Thiều và Ma Liễu ý tứ bỏ đi đâu đó. Tôi ngồi một mình cạnh Thào Mỹ, cách có vài gang tay, nhưng giữa chúng tôi là 30 năm dâu bể. Vậy mà người đàn bà ấy vẫn đẹp một cách lạ lùng. Tôi chưa thấy người đàn bà nào có thể đi qua 30 năm dằng dặc đau khổ trầm luân tưởng chừng nhẹ tênh đến vậy. Vẫn đôi mắt xanh nâu đắm đuối ấy, có bình tĩnh và chín chắn hơn, đương nhiên, nhưng ngọn lửa khát khao chừng không thể, không hề tắt. Vẫn gọn gàng nhanh nhẹn rắn chắc, có lẽ vẫn hệt ngày xưa, những ngày leo lên công tác Thào Trứ Lũng, Cán Trứ Phìn chót vót, Thào Mỹ đi trước, tôi theo sau, thấy chiếc váy lanh óng ánh của chị đong đưa theo nhịp bước và đôi bắp chân Mỹ nõn nà như hai cái ức trắng của đôi chim rừng lướt đi trong cỏ đá.

Tôi buột miệng:

– Chị Mỹ ơi, sáng mai ta lên Thào Trứ Lũng đi, thăm ông già Lầu Xểnh Va.

Thào Mỹ cười:

– Anh chẳng còn leo nổi nữa đâu. Mà ông Lầu Xểnh Va cũng mất rồi.

Chị bảo:

– Tối nay anh sang nhà em nhé, anh còn nhớ món mèng méng không, em đãi anh một bữa. Chồng em mất rồi, năm ngoái... Anh ấy đi đột ngột quá, đâu có mấy ngày, em chạy không kịp... Bây giờ ở nhà còn thằng con trai và đứa con dâu. Thằng Dính, con đầu của em, đang học trường quân sự dưới Hà Nội... Chỉ tiếc anh lên mà không còn gặp được chồng em. Anh ấy cũng nhắc anh luôn đấy, em kể lại tất cả mà.

Tôi ngạc nhiên. Người chồng Lô Lô, trẻ hơn Mỹ đến gần chục tuổi, đã đánh đập hành hạ chị tàn bạo, đã gọi chị là "Con Mèo già, cút đi!", vậy mà chị nói về anh với biết bao thương yêu. Chị đã có hạnh phúc thật sự chăng? Một chút hạnh phúc bắt được giữa cuộc đời xáo động. Hay là một cố gắng tuyệt vọng để níu lấy một bóng dáng hạnh phúc do chính chị tưởng tượng ra?.

Không, Thào Mỹ đã có hạnh phúc thật. Nhìn đứa con trai và cô con dâu chị thì biết và tin. Cậu con trai đẹp quá chừng, đôi mắt xanh nâu tinh anh đằm thắm của mẹ, cái vạm vỡ tự tin táo bạo chắc là của cha. Và sự chắt lọc pha trộn của hai dòng máu, để làm nên cái tác phẩm kỳ diệu này. Cô con dâu người Lô Lô Lũng Cú mới nằm nơi dậy, ngồi bên bếp lửa thản nhiên trật vú cho con bú. Cô gái Lô Lô một con ấy trông ngon lành như một trái đào vừa chín tới.

Tôi hỏi cậu con trai:

– Làm thế nào mò lên tận Lũng Cú mà tìm được cục vàng này thế?

Cậu cười ranh mãnh:

– Thì ngày trước bác chẳng lặn lội lên tận Mèo Vạc này là gì. Mẹ cháu kể hết. Cả nhà này đều biết bác. Bọn cháu chờ, cháu bảo: thế nào cũng có ngày bác trở lên. Cháu đoán có sai đâu...

Tôi rủ Thào Mỹ sang thăm Lùng Sùng Páo. Chúng tôi đi trong đêm rét căm căm, qua Chúng Pả, rồi Xả Pả. Thào Mỹ bảo:

– Anh Páo bây giờ bị mù, nhưng còn tinh lắm. Em sẽ không giới thiệu gì cả, để xem anh ấy có nhận ra anh không.

Cả nhà đang quây quần quanh bếp lửa. Tôi bước vào và gọi:

– Anh Páo, có người cũ về thăm đây. Nhớ không?

Một người đứng dậy. Cao lớn, gầy, quần áo chàm, đầu quấn khăn. Người ấy mò mẫm bước tới mấy bước, đứng lặng một chút, rồi đột ngột ôm chầm lấy tôi:

– Anh Ngọc!... Các con ơi, bà ơi, anh Ngọc về đây này!

Páo khóc. Từ đôi mắt mù của anh len ra hai giọt nước mắt lớn. Tôi cứ đứng vậy mà để cho hai giọt nước mắt nghĩa tình ấy ướt ấm trên má tôi.

Chúng tôi uống rượu. Lâu lắm tôi mới lại uống nhiều thế. Cô con gái Páo, học trường thiếu niên vùng cao, lém lỉnh chuốc rượu đến tài. La đà say, tôi nghe Páo kể:

– Mấy năm tôi đi các làng, đồng bào hỏi thăm anh Ngọc mãi. Ai cũng nhắc: anh cán bộ Ngọc không bao giờ dọa dân...

Páo kể. Và lại khóc. Chúng tôi lại uống.

Xuân Thiều ghé tai tôi:

– Tớ ghen với hạnh phúc của cậu.


*


Phiên chợ Mèo Vạc nghèo và buồn. Phải nói thật điều này thôi: không bằng 30 năm trước.

Không còn những chõ xôi vàng rực, chỉ nhìn đủ thèm. Không còn những gói hoàng tinh (mà ở đây người ta gọi là voòng chính) mỡ màng chất đầy các củi tấu. Không còn những chú lợn béo ụ được dòng dây vào cổ, người bán người mua thách và mặc cả ầm ĩ. Cả những người đi bán khèn Mèo cũng chẳng thấy. Vắng hẳn những chiếc váy H'mông xúng xính rung rinh. Ngay đến hàng thắng cố truyền thống cũng lơ thơ... Chợ biên giới mà hàng Trung Quốc chỉ có mấy chiếc đèn pin cổ lỗ, vài xấp vải đen rất thô, mấy thứ thuốc cao đơn hoàn tán linh tinh. Có lẽ chỉ còn có một nơi sôi động nhất là cái sân vận động ở đó người ta bán và mua ngựa. Trên vùng núi đá này, ngựa là chiếc xe Honđa. Người mua thử ngựa, nhảy thót lên lưng, giật cương chạy quanh sân. Người ngồi xem uống rượu men lá bằng bát. Nhưng không còn thấy cảnh các đôi trai gái say mèm, người con trai cầm khèn vừa nhảy lò cò vừa thổi, người con gái cầm ô xanh đỏ hát dìu dặt Tu tè chí dù mưng, rồi dìu nhau vào các hốc đá tiếp tục cuộc tình đắm đuối cho đến tối mịt...

Mới trưa chợ đã vãn.

Không gì bộc lộ rõ rệt đời sống của người dân bằng cái chợ. Lì Mí Pó nói đúng: sức mua của người dân đã xuống thấp lắm.

Thào Mỹ không ra chợ. Chị chỉ ngồi cái quán trước cổng huyện ủy. Quán chị cũng đìu hiu quá: mấy cái kẹo không có tên, dăm chai rượu, vài bao thuốc lá bán từng điếu...

Chúng tôi đảo qua chợ vài vòng, chẳng mua được gì, chẳng có gì để mua. Tôi bảo Xuân Thiều:

– Thôi ta đi chuyện khác. Tôi sẽ cho ông xem hai kỳ quan: Mã Pi Lèng là một, Sùng Chóa Vàng là hai.

– Sùng Chóa Vàng?

– Rồi sẽ biết...

Chúng tôi đi Mã Pi Lèng trước. Xuân Thiều đứng lặng trên đỉnh đèo, sững sờ không nói được câu nào. Tôi có thể đoan chắc với các bạn, trên khắp đất nước ta đấy là đệ nhất hùng quan. Thào Mỹ có lần kể với tôi rằng có bận, hồi còn trẻ, thất tình, tuyệt vọng, chị đã lang thang khắp núi rừng và định ăn lá ngón tự tử. May thay hôm ấy chẳng biết xui khiến thế nào chị leo lên Mã Pi Lèng. Và chính cái đèo kỳ lạ này đã khiến chị quyết sống. Núi sông đẹp đến thế, chết sao nổi!

Ba giờ chiều, trên đường từ Mã Pi Lèng trở về Mèo Vạc, chúng tôi ghé lại Pả Vi thăm Sùng Chóa Vàng.

Trong ký ức của tôi, đó là một điểm sáng không thể quên, một con người kỳ lạ. Có lẽ là người H'mông nhất trong tất cả những người H'mông tôi từng gặp, quen biết. Một chiến sĩ thiện chiến bậc nhất và một tâm hồn nghệ sĩ đến tận máu thịt. Vô cùng dũng cảm và vô cũng tự do. Những trận đánh khó khăn ác liệt nhất đều có mặt Sùng Chóa Vàng. Những việc hiểm nguy nhất, chọn ai? Bao giờ cũng là Sùng Chóa Vàng. Làm thịt chó ngon nhất: Sùng Chóa Vàng. Ve gái tài nhất: Sùng Chóa Vàng. Yêu đến mê mẩn vợ con, lại cũng Sùng Chóa Vàng...

Tôi nhớ một đêm chúng tôi đang đuổi theo bọn phỉ trên thôn Cán Trứ Phìn, đột ngột Sùng Chóa Vàng tìm đến tôi:

– Cán bộ, cho mình về nhà một bữa.

– Sao được. Đang đánh nhau thế này. Mà về làm gì?

– Mình nhớ vợ!

– Trời ơi! Xong trận này đã. Sẽ cho nghỉ một tuần.

– Không cần một tuần. Một đêm thôi. Mình thèm nó quá rồi. Về một đêm. Mai có mặt.

– Nhưng dọc đường bọn phỉ nó xơi tái ông mất.

– Sợ gì!

Nói xong, xốc súng quay đi ngay. Cây súng kíp dài ngoẵng.

Tôi chỉ kịp gọi với theo:

– Chóa Vàng, phải cẩn thận đấy. Có thể bọn phỉ đã phục sẵn quanh nhà cậu...

Quả nhiên, chẳng sai. Chóa Vàng đi hai chục cây số đường núi đá đêm đen. Về đến nhà, chẳng nói chẳng rằng một câu, ôm xốc vợ vật ngay lên giường... Đang giữa cuộc ái ân cuồng dại, bỗng chị vợ đẩy mạnh Chóa Vàng ra:

– Có tiếng động sau nhà, nghe thấy không?

Chóa Vàng vùng dậy. Cây súng đặt ngay đầu giường. Quả có tiếng sột soạt sau nhà thật.

– Cứ nằm im – anh khẽ bảo vợ. Rồi một mình ra đứng ở cửa, nghe ngóng. Lại có tiếng sột soạt. Chóa Vàng nổ liền hai phát.

– Cầm đuốc ra đây!

Chị vợ xốc vội chiếc váy, đốt đuốc chạy ra: hai tên phỉ nằm vắt ngang bờ rào sau nhà, cả hai đều trúng đạn đúng giữa trán...

Sáng hôm sau anh lại đã có mặt chỗ chúng tôi. Hỏi gì cũng chỉ trả lời gọn lỏn:

– Hai thằng!

Một tuần sau chúng tôi mới biết rõ hết chuyện...

Ôi, Sùng Chóa Vàng, người chiến sĩ nghệ sĩ tuyệt diệu của tôi 30 năm trước, bây giờ anh thế nào? Nghe nói khi Đồng Văn - Mèo Vạc đã dẹp xong vụ phỉ, anh về làm bí thư xã Pả Vi liên tục mười năm. Rồi nghỉ hưu...

– Nhà Chóa Vàng kia kìa – Thào Mỹ chỉ.

Chúng tôi men theo bờ một nương đá, vòng vèo hơn vài trăm mét mới đến một ngôi nhà tranh, một túp lều xơ xác. Đang đi, bỗng vấp phải một người quấn tấm chăn rách tả tơi nằm ngủ ngay bờ rào. Cúi xuống, kéo chăn, thấy ló ra một cái đầu trọc lóc: Sùng Chóa Vàng!...

Chúng tôi lại ngồi với nhau bên bếp lửa. Chẳng còn biết nói câu gì. Cả anh phó chủ tịch huyện đi cùng với chúng tôi cũng lặng thinh. Căn nhà người anh hùng của chúng tôi 30 năm trước hoàn toàn trống trơn, không giường, không chiếu, không bàn ghế, chỉ có cái cối đá xay mèng méng và cái nồi nhôm treo trên bếp lửa. Tường thưng bằng bẹ ngô. Mái tranh rách bươm...

Lúc từ giã, Chóa Vàng nắm tay tôi hỏi:

– Anh có lên lần nữa không?

Trên đường về tôi kéo Thào Mỹ đi lùi lại sau. Tôi hỏi:

– Chị Mỹ, trồng cây gì bây giờ ở đây? Trồng ngô thì chết đói. Chóa Vàng đấy...

Thào Mỹ nhìn tôi:

– Chẳng lẽ trở lại cây thuốc phiện sao anh? Thì chính anh đã viết Mùa hoa thuốc phiện cuối cùng. Chính anh phải trả lời đi chứ.

Quanh hai chúng tôi miên man những nương đá lởm chởm, tầng tầng lớp lớp, sâu hút tận bờ sông Nho Quế thăm thẳm, cao ngất tận đỉnh Mã Pi Lèng vòi vọi. Giữa các hốc đá là những bụm đất đỏ quạch nhỏ đúng bằng bàn tay. Người H'mông có nghệ thuật xếp đá giỏi nhất thế gian. Để cúp cum giữ từng bụm đất vàng ngọc ấy. Và cắm xuống đấy một cây ngô chết đói.

Cây gì ?

Làm sao ?

Lì Mí Pó bảo tôi, lúc chia tay:

– Đấy là việc giải quyết ở tầm quốc gia, anh ạ. Anh đã cất công lên đến đây, tôi xin gửi anh như một lời nhắn. Tôi nói điều này, anh đừng chê trách nhé: chúng tôi đuối sức rồi. Hãy cứu chúng tôi!

Bạn ở Hà Nội, xin mở bản đồ ra mà xem: Đồng Văn - Mèo Vạc - Lũng Cú, ấy là cái mỏm nhọn nhất trên cơ thể Tổ quốc đó.

Tôi vừa từ nơi ấy về. Mang theo lời nhắn của Lì Mí Pó.

Tháng 8-1991

Nguyên Ngọc


----------------


Nguyên Ngọc - Nhà thơ


Nói Nguyên Ngọc nhà văn, ai cũng biết. Nhưng chẳng lẽ còn một Nguyên Ngọc nhà thơ ? Là hai người khác nhau, trùng tên ? Không phải. Vẫn một con người đó. Vẫn Nguyên Ngọc bao năm nay là nhà văn đó. Nhưng, trong một buổi chiều ngồi quán vỉa hè uống bia với món vịt nướng chao cùng mấy thằng em, tôi chợt nhớ…Thì ra, bao lâu nay chúng ta đã bỏ quên, hoặc không bao giờ nghĩ, đã có một Nguyên Ngọc nhà thơ. Năm nay tròn 83 tuổi, hơn 60 năm là nhà văn nổi tiếng, không hề viết nửa câu thơ, dù là thơ…tán gái, bỗng một ngày được( hay bị) một gã nhà thơ khả nghi gọi mình là…nhà thơ ? Không biết ông Nguyên Ngọc nghĩ gì ? Còn tôi, tôi nghĩ thật như thế.
Lâu nay, chúng ta đã có thơ có vần, rồi thơ không vần, đã có thơ là…thơ, rồi thơ văn xuôi (cũng là thơ). Có một thể thơ, mà người ta gọi là “thơ tự do”, nghe cách gọi có vẻ không ổn, vì có thơ nào là thơ…mất tự do đâu ? Ngay thơ Bác Hồ, trong “Ngục trung nhật ký”, cũng là thơ “siêu tự do” cơ mà! Tự do đây, có lẽ hoàn toàn ở hình thức biểu đạt. Vậy thì có thể gọi không ít những tác phẩm văn xuôi của Nguyên Ngọc-điển hình là bút ký “Trở lại Mèo Vạc”-là “văn xuôi-thơ”. Nó là thơ, chứ không phải “có chất thơ”. Đó là một hình thức thơ biến ảo mà St-Exupéry hay dùng, đặc biệt là ở tác phẩm “Cõi người ta” mà Bùi Giáng đã dịch tuyệt đúng và tuyệt hay, nếu xét bản dịch như một tác phẩm “văn xuôi-thơ”. Cái này, chỉ một nhà “văn xuôi-thơ”, hay một nhà thơ rất am hiểu thể thơ này, mới làm được. Nguyên Ngọc là một nhà thơ, như St-Ex là một nhà thơ. Đây có thể là điểm nối, hay “vùng giáp ranh” giữa văn xuôi và thơ mà rất ít nhà thơ hay nhà văn đi vào được. Phải có cảm hứng mới làm ra thơ. Đúng rồi. Phải có cảm hứng mới viết được văn xuôi. Đúng luôn. Nhưng phải có cảm hứng ở một cường độ cao nào đó, chấp nhận sự ngắt quãng nào đó, mới có thể viết ra “văn xuôi-thơ” như một loại thể đặc biệt. Bởi sự cô đặc, dồn nén vốn là đặc trưng của thơ khi vào văn xuôi rất dễ bị làm giãn ra, hoặc sự “tập trung-lơ đãng” cũng vốn là đặc chất của thơ rất dễ bị văn xuôi làm cho trôi chảy. Khi tôi lần đâu đọc “Trở lại Mèo Vạc” của Nguyên Ngọc, tôi đã gần như reo lên: “Đây là thơ!”. Đúng là thơ thật. Cảm giác này cũng giống khi tôi đọc một đoạn trong “Cõi người ta” của St-Ex do Bùi Giáng dịch. Không hề chủ trương thể hiện một loại thể văn học mới, cứ viết một cách hoàn toàn tự do, tràn đầy cảm xúc, chịu những ngắt quãng của một thứ nhịp điệu (rhythm) ngẫu hứng tự bên trong, nhà văn có thể biến thành…nhà thơ lúc nào không biết. Một cách hết sức tự nhiên, không hề cố ý.
Ai cũng biết, sức mạnh của thơ nằm ở sự vô ý. Xin mời bạn đọc một đoạn trong bút ký “Trở lại Mèo Vạc” của Nguyên Ngọc:
“ Những sườn núi Nùng thoáng rộng đến vô cùng, nở nang và hoang vắng như những khuôn ngực đàn bà hoang sơ nào đấy, tưởng có thể hít thở đến ngợp cả hai khuôn phổi hương da thịt nồng nàn của đất thuở khai thiên còn nguyên vẹn. Đường đi trên các sống núi, ngước lên thăm thẳm màu xanh biên thùy, nhìn xuống thung sâu hun hút, lác đác những bản làng nhỏ xíu phơi mình trong nắng chói chang. Chúng tôi đi hàng một, người và ngựa, và súng ống lỉnh kỉnh, cảm giác một cuộc vạn lý trường chinh nào đấy, hay là một cuộc “Tây du ký” nhỉ ? Thật khốn khổ cho cái chủ nghĩa hiện thực tôi từng được dạy từ ngày cầm bút. Ở đây tất cả đều siêu thực, núi non, mây gió, đất trời, xóm mạc, sông suối, con người, và cả những con ngựa này nữa, lên cao chúng bỗng trở nên trầm mặc và nhẹ tênh, có thể chúng cũng biết nói đấy nhưng không mở miệng nên lời được chỉ vì bị đắm đuối bởi cái đẹp quá thể tràn ngập bốn bề.
Cũng đừng nghĩ viết dài như thế là văn xuôi chứ không phải thơ. Thơ có thể rất ngắn, mà cũng có thể rất dài. Vấn đề là sự kiểm soát của nhà thơ cho từng con chữ và cho cả đoạn thơ dài ấy như thế nào. Kiểm soát trong vô thức, nghĩa là vẫn vô ý. Cái “ chủ nghĩa hiện thực” mà Nguyên Ngọc được học, sau này chúng tôi cũng được học. Nó quá rạch ròi cho những “mập mờ” vốn là đặc chất của văn học, chứ không riêng của thơ. Khi tôi đọc về “Lý thuyết tập mờ” mà nhà vật lý tài ba Nguyễn Hoàng Phương khai triển ở Việt Nam, tôi chợt hiểu: những “vùng giáp ranh” mờ ảo không chỉ có trong thơ, trong văn xuôi, mà có cả trong vật lý, trong toán học. Nó có trong cuộc đời, trong trái đất, trong vũ trụ. Và trong tâm hồn chúng ta. Vấn đề là ta khai thác nó như thế nào cho những mục đích khác nhau của mình. Lại xin mời đọc tiếp một đoạn trong “Trở lại Mèo Vạc”:
“ Đường đi càng về chiều càng lên cao, và hình như núi non mỗi lúc một thắt lại, hiểm trở hơn, hiểm ác heo hút hơn. Vẫn lên nữa, Lên mãi. Đã nghe thỉnh thoảng tiếng súng rộ từng hồi, rồi đột nhiên im bặt, lạnh tanh. Tức là đơn vị đầu tiên, lên trước chúng tôi một ngày, đã chạm địch. Vẫn lên nữa, lên mãi…
Ba giờ chiều, rất đột ngột, bỗng thấy mình đứng trên một đỉnh cao chót vót, đỉnh cao nhất. Và trước mặt, một kỳ quan chưa từng thấy: không còn ngọn núi đất nào nữa. Chỉ còn toàn đá. Một cao nguyên đá. Mênh mông, trùng điệp, lô nhô, lởm chởm, cuồn cuộn hàng triệu đợt sóng đá dồn dập như những bức trường thành đá vô tận, nhọn hoắt, sắc lẹm, nham nhở, lở lói, khô cằn, khắc nghiệt…Đá, đá, đá bạt ngàn, hút chân trời. Đá vôi đen xỉn. Và tuyệt không còn gì khác.
Đoạn này, nếu không gọi là thơ thì tôi không biết gọi nó là gì. Không phải vì mình làm thơ mà mình cho thơ là nhất. Nhưng thơ, quả thật, làm nhiều điều mà văn xuôi chay tịnh không làm được. Tư duy, cảm xúc, cách thể hiện của Nguyên Ngọc trong đoạn này hoàn toàn là cách nghĩ, cách cảm, cách thể hiện của một nhà thơ. Và sản phẩm cuối cùng, dĩ nhiên, là thơ. Tôi nhớ, hình như M. Gorky có lần nhận xét về một nhà văn Nga: “ Ông là nhà thơ bị đóng đinh trên cây thánh giá văn xuôi”. Tôi nghĩ, nói như thế hơi bị khổ cho văn xuôi quá. Nhà văn mà Gorky ca ngợi, thực ra, là một nhà thơ. Không hề bị ‘đóng đinh trên cây thánh giá văn xuôi”, nhà thơ này, cũng như Saint-Exupéry, cũng như Nguyên Ngọc, đã sáng tạo ra một loại thể thơ mới, nó đi giữa “vùng giáp ranh-tập mờ” giữa văn xuôi và thơ, nhưng nghiêng hẳn về thơ, nếu xét những đặc chất mà nó thể hiện. Có lẽ, vì theo đuổi loại thể thơ đặc biệt này trong vô thức, mà suốt cuộc đời mình Nguyên Ngọc không hề làm một “câu thơ có vần” nào cả. Ông chăm chú và lơ đãng viết một thứ “văn xuôi-thơ” mà có khi chính ông cũng chưa biết gọi nó là gì cho phải. Một người có lý trí cực mạnh như Nguyên Ngọc, sống đời sống một chiến binh như Nguyên Ngọc, nhưng lại có rất nhiều những đoạn sáng tạo vô ý, lơ đãng, mà những đoạn ấy trùng với cái tôi đang gọi là “văn xuôi-thơ”. Dung hợp những hợp chất trái dấu có phải là nguyên tắc của thuốc nổ ? Tôi không biết. Nhưng tôi cảm nhận điều này rất rõ trong tác phẩm Nguyên Ngọc.
“ Lại lên đường khi còn đặc sương. Lại một ngày rong ruổi đi giữa siêu thực. Chẳng hạn là siêu hay là thực cô gái Mông phơi váy ở cái làng bé tẹo treo lơ lửng ven sườn núi tít dưới sâu hút kia, chiếc váy lanh phơi trên đá, nở xòe hệt một đóa hoa trắng long lanh ?
Đúng rồi, “văn xuôi-thơ” ấy phải được thể hiện trong một không gian mở và mờ. Và nó gắn với…siêu thực. Ít nhất là siêu thực trong cách nhìn. Nguyên Ngọc là nhà thơ như vậy.

Thanh Thảo

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét