Chủ Nhật, 2 tháng 12, 2012

Một góc nhìn Hà Nội xưa


Nhà báo Phạm Yên, thời trước học cùng lớp A15 khoa Toán với hai vợ chồng tôi. Sau khi chúng tôi đi lính về, ông làm phóng viên nhiếp ảnh ở báo Tiền Phong.
Ngày 11 tháng 11 các bạn về chơi, Yên tặng tôi một loạt ảnh do ông chụp.
Những bức ảnh sau được ông chụp tại triển lãm Hà Nội năm 2012, Tràng Tiền, máy NIKON D300. Những bức ảnh chụp từ gốc, Hà Nội xưa đẹp lung linh.
*****
Kiến trúc sư Đinh Việt Phương cùng hai người sáng lập ra nhóm 3D Hà Nội từ năm 2004 với mục đích dùng công nghệ 3D phục dựng lại những khung cảnh của phố cổ Hà Nội nhằm quảng bá các giá trị về lịch sử, văn hóa. Nhóm tiếp tục được mở rộng với hàng loạt thành viên mới. Năm 2007, nhóm cho ra triển lãm “Hà Nội những góc nhìn thời gian” và được trao giải thưởng Bùi Xuân Phái cho ý tưởng xuất sắc.
Dù việc triển lãm 2012 của nhóm Số hóa Hanoi mà dư luận cho là vi phạm bản quyền của nhóm 3D trước ...
Nhưng Hà Nội xưa vẫn đẹp mê hồn ...



Chợ Đồng Xuân nằm trong khu phố cổ, phía tây là phố Đồng Xuân, phía bắc là phố Hàng Khoai, phía nam là phố Cầu Đông, phía đông là ngõ chợ Đồng Xuân.
Cổng chợ nhìn sang phía tây, phía trước là một khoảng trống nhỏ. Phía Bắc có quán Huyền Thiên- sau đổi thành chùa Huyền Thiên. Ngay sát sau chợ là chợ Bắc Qua. Vì vậy nhiều người gọi cả hai là chợ Đồng Xuân - Bắc Qua.
Ở góc tây bắc của chợ có đài Cảm tử, kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến.
Trong thời gian xây dựng lại Thành Thăng Long vào mùa hạ năm Giáp Tí, 1804, Tổng Trấn Nguyễn Văn Thành dưới triều đại Nguyễn đã cho đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông, hay còn gọi là chợ Đồng Xuân ngày nay.



Chợ Đồng Xuân tuy nằm trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh. Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho thuyền đi lại.
Năm 1889, khi những dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ.
Năm 1890 chính quyền Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.
Tại đây đã diễn ra các trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc quân chống lại lính Lê dương của Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà Nội.
Sau ngày giải phóng thủ đô, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất Hà Nội.


Vào khoảng năm 1990, chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.
Ngày 14, tháng Bẩy, năm 1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu trụi gần như toàn bộ các gian hàng trong chợ. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay.
*****


Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-1902), đặt tên là cầu Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Dân gian còn gọi là cầu sông Cái hay cầu Bồ Đề (vì nó được bắt qua bến Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm). Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ 1899-1902 - Daydé & Pillé- Paris.



Cây cầu được thiết kế với kiểu dáng độc đáo do hãng Eiffel thiết kế, giống với kiểu dáng của cầu Tolbiac ở quận 13, Pari trên tuyến đường sắt Paris- Orléans, Pháp. Nha công chính Đông Dương xây dựng phần cầu dẫn. Ngày 12.9.1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau hơn 3 năm thì hoàn thành, dù kế hoạch dự trù phải mất 5 năm. Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp, không vượt quá dự trù là bao.

Cầu dài 1.682m qua sông và 896m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.



*****



Ga Hàng Cỏ (nay là ga Hà Nội) năm 1902 đưa vào hoạt động, được coi là đầu mối giao thông quan trọng với 5 nhánh đường sắt đến các vùng trong nước. Khu ga kéo dài gần hết đường Nam Bộ (nay là đường Lê Duẩn), từ đầu phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) đến Khâm Thiên. 
Ga Hàng Cỏ ngày mới xây dựng

Thời Pháp phố Lê Duẩn gọi là Hàng Lọng, sau năm 1954 đổi thành đường Nam Bộ, sau này mang tên như bây giờ. Khi mới xây khu vực ga, Hàng Lọng qua các thôn Vĩnh Xương, Nam Môn, Hoa Ngư và Tứ Mỹ, tiếp nối các đường từ thành Hà Nội ra Cửa Nam - Cửa đông nam gọi là Đại Hưng. Qua Hàng Cỏ có lối rẽ qua Làng Lương Sử để đến Văn Miếu, mà đi thẳng thì ra hồ Bảy Mẫu xuống Lý Nhân, Nam Định để vào đàng trong, tức Quan Lộ. Sau năm 1946, người Pháp đổi đây thành đường Đờ Lát, nhưng người dân vẫn quen gọi Hàng Lọng.


tàu điện Hà Nội

Các tuyến tàu điện ở Hà Nội có khoảng thời gian tồn tại gần một thế kỷ, từ khi chạy thử nghiệm vào tháng 9/1900 cho đến khi ngừng hoạt động vào đầu thập niên 1990.

Đóng vai trò quan trọng trong đời sống thế kỷ trước, hình ảnh chiếc tàu điện đã đi vào tâm thức của nhiều người dân Hà Nội như biểu tượng rất đặc trưng của cả một thời kỳ.

Phố cổ ngày Tết
*****



Nhà hát lớn Hà Nội là một công trình lớn do người Pháp xây dựng trong những năm đầu thế kỷ XX. Nó được bắt đầu khởi công xây dựng vào ngày 7 tháng 6 năm 1901 và hoàn thành vào năm 1911.
Xưa kia là một vùng đầm lầy thuộc đất của hai làng Thạch Tần và Tây Luông thuộc Tổng Phúc Lân Huyện Thọ Xương. Vào năm 1899 hội đồng thành phố nhóm họp dưới quyền chủ tọa của Richard – là Công sứ Hà Nội đề nghị lên tòan quyền Fourer cho xây Nhà Hát.
Tác giả đồ án thiết kế là hai kiến trúc sư Harlay và Broyer. Người phụ trách thi công là hai ông Travary và Savelon. Công trình chiếm diện tích 2600m2, chiều dài 87m, chiều rộng 30m, điểm cao nhất so với mặt đường là 34m. Những người thiết kế công trình đã tìm tòi tham khảo kiểu kiến trúc cổ Hy Lạp Coranhtơ kết hợp với kiểu lâu đài Tuylory và nhà hát Opera Paris để tạo nên một khối kiến trúc riêng biệt.


Bên trong nhà hát trước đây có sân khấu rộng và một phòng khán giả chính có diện tích 24x24m, ngày đó chứa được 870 chỗ ngồi, ghế ngồi bọc da, một số chỗ bọc bằng nhung. Tầng giữa có nhiều phòng nhỏ dành cho khán giả có vé riêng. Cầu thang giữa lên tầng hai là một sảnh chính rộng. Cầu thang phụ và hành lang ở hai bên. Phía sau nhà hát là một phòng quản trị, có 18 buồng cho diễn viên hoá trang, 2 phòng tập hát, 1 thư viện và phòng họp. Phía mặt trước trên tầng II là phòng gương rất lộng lẫy. Kinh phí xây dựng Nhà hát được duyệt vào lúc đó là 2.000.000 Frăng Pháp.
Nhà hát lúc đó được sử dụng là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cố điển như Opera, nhạc thính phòng, kịch nói... phục vụ cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít người Việt giàu có. Lịch biểu diễn thời đó một tuần có 4 lần vào thứ ba, thứ năm, thứ bảy và chủ nhật.
Nhà hát Lớn hà Nội có một giá trị rất lớn về mặt lịc sử, kiến trúc và giá trị dử dụng. Nó là bằng chứng lịch sử của sự phát triển văn hóa và xã hội của Hà Nội và Việt nam thời kỳ Pháp thuộc, là một di tích của một giai đoạn phát triển kiến trúc ở Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhà hát Lớn Hà Nội và Quảng trường Nhà hát là nơi diễn ra những sự kiện lịch sử trọng đại gắn liền với cuộc Cách mạng tháng 8 và những năm đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
*****


Rạp Công Nhân (Rạp chớp bóng PALACE)
Chớp bóng đến nước ta vào thời điểm thế chiến I đang diến ra ở châu Âu, nhằm tuyên truyền cho nước Pháp ở thuộc địa. Ban đầu các buổi chiếu ở ngoài trời. Buổi chiếu trong nhà đầu tiên ở Grand Café của khách sạn Metropole, sau chuyển sang bên đường, nay là phố Nguyễn Xí, ở đó có cái cổng nhỏ đi vào rạp lấy tên là Palace.
Sau đó xây dựng khá lớn và có mặt tiền tuyệt đẹp tựa cái vỏ sò cách điệu ngay trên đường Paul Bert sầm uất. Thời tạm chiếm Hà Nội (1947-1954), rạp đổi tên Eden (Thiên đường), sau này là rạp Công Nhân.

*****
Nhà hàng Godard

Nhà hàng Godard do Liên hiệp Thương mại Đông Dương và châu Phi (viết tắt là LUCIA) xây dựng vào những năm đầu thế kỷ XX. Năm 1958, 49 quầy hàng trong Godard được dọn hết, dù trước đó, đầu thập niên 50 họ mua lại của chủ Godard. Tháng 9-1959, Godard được đổi tên thành Bách hóa Tổng hợp. Cũng có người gọi là Bách hóa Tràng Tiền vì nó nằm trên phố Tràng Tiền.
Godard là tòa nhà hai tầng, tầng dưới cao 6m. Tầng trên 5m. Diện tích mặt bằng xấp xỉ 4.500 mét vuông. Sàn tầng một lát đá thấm thủy khổ lớn để hạn chế nước vào ngày nồm. Trần trát vôi rơm, sàn tầng hai bằng gỗ lim. Mái bằng khung thép uốn thành vòm, dưới vòm cũng trát vôi rơm, trên lợp bằng miếng tôn nhỏ hình chữ nhật. Xung quanh là cửa kính để lấy ánh sáng. Từ tầng một lên tầng hai có bốn cầu thang bậc gỗ, lan can bằng thép có hoa văn và trụ cầu thang bằng đồng đúc.
Godard có ba mặt phố, phía bắc là Tràng Tiền, phía nam là Hai Bà Trưng và phía tây là Hàng Bài. Ba cửa chính ra vào Bách hóa có dòng chữ tiếng Pháp “Không dựng xe ở đây” bằng đá trắng gắn chìm trên vỉa hè. Vỉa hè rất cao so với mặt đường để phòng ôtô có lao lên sẽ bị chặn lại, đảm bảo an toàn tính mạng cho người đi lại. Vỉa hè bo bằng đá đen chôn sâu dưới đất hơn một mét để nếu ôtô đâm vào sẽ không đổ gẫy. Vì sao Godard không xây cao? Giản đơn vì chính quyền thời đó không cho phép các công trình quanh hồ Gươm xây quá cao, họ sợ hồ Gươm sẽ lọt thỏm trong các khối nhà như thế làm mất vẻ đẹp thơ mộng của khu vực này. Nhưng tại sao dân số Hà Nội đầu thế kỷ XX chỉ hơn 10 vạn người ta lại xây Godard lớn như vậy?
Việc xây dựng nhà Godard là bước ngoặt cho thương mại Hà Nội vốn trước đó chỉ có các chợ truyền thống. Nếu trước kia chợ họp theo phiên và chỉ bán nông sản, đồ thủ công, lương thực... sản xuất tại Hà Nội hay các vùng lân cận hoặc bán một số mặt hàng từ các tỉnh phía nam Trung Quốc mang qua thì Godard bán đủ thứ nhập từ Pháp, Ấn Độ, Hồng Kông hay các nước thuộc địa của Pháp.



Chùa Một Cột (Chùa Diên Hựu)
Chùa thường được gọi là chùa Một Cột. Chùa được Vua Lý Thái Tông (1028-1054) cho xây dựng vào năm 1049. Ngôi chùa được xây lại vào thời Trần (năm 1249) và đã trùng tu nhiều lần. Đây là ngôi chùa có kiến trúc độc đáo nhất Việt Nam. 


Khuê Văn Các và mùa thu giả tưởng
Khuê văn các có nghĩa "gác vẻ đẹp của sao Khuê" là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài là 6,8m. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng.


Tháp Hòa Phong

Tháp Hòa Phong nằm ở bờ Đông Nam Hồ Hoàn Kiếm, đường Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà Nội. là một di tích cổ còn sót lại của Chùa Báo Ân, một ngôi chùa lớn từng tồn tại ở Hà Nội
Năm 1888, Pháp đã phá hủy Chùa Báo Ân để xây bưu điện Hà Nội. Chỉ còn Tháp Hòa Phong phía sau chùa còn giữ lại, là dấu tích duy nhất của Chùa Báo Ân còn sót lại tới nay.
Tháp cao 3 tầng, tầng 1 có 4 cửa nên còn gọi là tứ môn tháp, một kiến trúc thường thấy trong các công trình của Phật giáo. Tầng một có 4 cửa vòm, tầng 2 có hình bát quái, dưới bát quái trên 4 vòm là tên từng cửa: Báo Ân môn, Báo Nghĩa môn, Báo Đức môn và Báo Phúc môn. Tầng 3, trên mặt đông- tây có ghi tên tháp là Hòa Phong nhưng 2 mặt bắc- nam lại ghi Báo Thiên tháp.

Phở gánh, một món ăn nổi tiếng của người Hà Nội.

Cửa Đại Hưng - cửa Nam thời Lý Trần.
Ngay khi vừa định đô, vua Lý đã cho đắp thành Thăng Long. Thành có hình vuông theo bốn phương đông, tây, bắc, nam. Cửa phía Nam được mang tên Đại Hưng (大興). Trong bốn cửa Hoàng thành, quan trọng nhất là cửa Đại Hưng… Các quan từ ngoài vào Hoàng thành chầu vua đều do cửa này. Trước cửa Đại Hưng có dựng đình Quảng Văn, các vua nhà Lý đôi khi làm lễ nghinh xuân ở đây. Cửa Đại Hưng còn là nơi các quan làm lễ tuyên thệ với nhà vua…
Thời nhà Lê, cửa Đại Hưng được dùng làm lối ra vào chính của vua chúa, quan lại, các vị tân khoa, nho sĩ, sứ giả và tất cả những ai có việc phải đến Hoàng thành. 

Hiện nay còn những tên phố để lại dấu tích xưa: Đình Ngang, mơi dừng lại để xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành; Cấm Chỉ: dừng nơi khu cấm và một góc vườn hoa thời Pháp dựng tượng "Bà Đầm Xòe".
Vào năm 1782, Hải Thượng Lãn Ông nhận xét: Người qua kẻ lại như mắc cửi, xe ngựa ồn ào.  
“Áo mũ hào hoa phường phố đẹp
Đình đài lầu quán nối trời xa…”















Phố Hàng Tre
Phố Hàng Tre cuối thế kỷ 19 có tên là phố Hàng Cau vì nơi đây tập trung buôn bán cau tươi, cau khô chở bằng thuyền từ các nơi về, sau có những công trình xây dựng lớn bên Bờ Sông, những người buôn bán cau chuyển hoạt động về Hàng Bè.
Phố Hàng Tre nguyên đất bờ sông khi chưa có con đê ngoài, đó là chỗ chứa gỗ cây và nơi dựng xưởng xẻ gỗ, nơi nhốt bò và ngựa kéo xe gỗ. Đến đầu thế kỷ 20, thành phố mở mang và xây dựng thêm thì tre gỗ cũng không còn bán ở đây nữa. Hàng Tre không phải là một phố buôn bán, không có cửa hàng, nhà xây chủ yếu để ở nên không có nhà dãy nhiều gian cốt để cho thuê. 

Cảnh chơi đu ngày tết, trước Văn Miếu



Đền Quán Thánh
Đền Quán Thánh, tên chữ là Trấn Vũ Quán, có từ đời Lý Thái Tổ (1010-1028), thờ Huyền Thiên Trấn Vũ, là một trong bốn vị thần được lập đền thờ để trấn giữ bốn cửa ngõ thành Thăng Long khi xưa (Thăng Long tứ trấn). Bốn ngôi đền đó là: Đền Bạch Mã (trấn giữ phía Đông kinh thành); Đền Voi Phục (trấn giữ phía Tây kinh thành); Đền Kim Liên (trấn giữ phía Nam kinh thành); Đền Quán Thánh (trấn giữ phía Bắc kinh thành). Đền Quán Thánh nằm bên cạnh Hồ Tây, cùng với chùa Kim Liên và chùa Trấn Quốc tạo nên sự hài hoà trong kiến trúc cảnh quan và trong văn hoá tín ngưỡng đối với cả khu vực phía Tây Bắc của Hà Nội.


Cầu Thê Húc

Cầu Thê Húc là cây cầu ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Nối từ Bờ Hồ ra hòn đảo nhỏ nơi có đền Ngọc Sơn, cây cầu này màu đỏ son, làm bằng gỗ, có nhiều trụ liên tiếp. Cầu được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" (棲旭).

Thứ Bảy, 1 tháng 12, 2012

Kim Dung với cõi sắc sắc không không

Kim Dung (金庸)

Huỳnh Ngọc Chênh 


Tôi đọc truyện Kim Dung qua nhiều thời kỳ trong đời: khi còn bé, khi đã trưởng thành và mới đây khi Nhà nước cho xuất bản truyện Kim Dung trở lại. Cũng chừng ấy tác phẩm nhưng đọc đi đọc lại vẫn thấy thích, vẫn thấy mình bị cuốn hút. Dĩ nhiên mỗi thời kỳ, tôi có những cảm nhận khác nhau. Hồi còn bé khi đọc Kim Dung, tôi như bị mê muội, nhập hẳn vào thế giới tươi đẹp kỳ ảo và diễm lệ mà tác giả đã vẽ ra. Tôi thấy như mình đang sống thực trong thế giới ảo đó- nơi mà con người chỉ lo học võ, lo hành hiệp, lo làm những chuyện nghĩa thượng cao đẹp, bỏ qua lợi danh nhỏ nhen; nơi mà những kẻ xấu xa độc ác luôn luôn bị công lý trừng trị một cách thích đáng, hả lòng. 

Lớn lên một chút, vẫn bị Kim Dung cuốn hút nhưng cũng đã bắt đầu thấy những chỗ sơ sót, những nhược điểm, những chỗ lồi lõm bất hợp lý... trong truyện. Bây giờ khi đã có chút tuổi, đọc lại Kim Dung, càng thấy rõ hơn những chỗ lồi lõm bất hợp lý kia nhưng đồng thời cũng thấy được đôi điều có thể để suy gẫm, để đọng lại đằng sau những pha tung quyền, phóng chưởng thần kỳ hoặc những mối tình diễm lệ giữa các nhân vật trong thế giới võ lâm mà tác giả dựng lên. 

Sắc không của hai người họ Đoàn 

Đoàn Chính Thuần
Trong Thiên long bát bộ, Đoàn Chính Thuần không phải là nhân vật chính nhưng ông lại xuất hiện ấn tượng và xuyên suốt từ đầu cho đến hết thiên tiểu thuyết thần kỳ này. Kể cả những lúc ông không có mặt nhưng người đọc vẫn thấy có ông. Ông là nhân vật xương sống để tác giả gửi gắm tư tưởng nhà Phật vào tác phẩm của mình. 

Đoàn Chính Thuần có tất cả. Ông là Trấn Nam Vương, hoàng đệ của vua nước Đại Lý Đoàn Chính Minh. Vua Đoàn không có con để nối dõi, tuổi đã lớn, lại có ước nguyện đi tu, sẵn sàng nhường ngôi lại cho em. Đoàn Chính Thuần có một đứa con trai nối dõi rất mực thông minh và tốt bụng là nhân vật chính Đoàn Dự. Đoàn Chính Thuần võ nghệ lại tuyệt luân với ngón Nhất Dương Chỉ gia truyền oai trấn thiên hạ. Ông lại là người phong nhã, tài hoa, các ngón cầm kỳ thi họa rất tinh thông, do vậy tuy đã có vợ là Thư Bạch Phụng (mẹ của Đoàn Dự) là tuyệt thế giai nhân, đẹp thoát tục như tiên nữ giáng trần nhưng vẫn còn được bao nhiêu giai nhân tài sắc vẹn toàn khác say mê đắm đuối. Đó là các nàng Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc, Chung phu nhân, Vương phu nhân. Những người đẹp này vì quá yêu thương mà sẵn sàng dâng hiến đời mình cho họ Đoàn và mỗi nàng sinh ra cho ông từ một đến hai cô con gái sắc nước hương trời. Vương phu nhân thì sinh ra Vương Ngọc Yến (bản dịch mới đọc là Vương Ngữ Yên), Tần Hồng Miên thì sinh ra Mộc Uyển Thanh, Chung phu nhân thì có Chung Linh và Nguyễn Tinh Trúc với hai nàng A Châu, A Tử. 

Nghĩa là Đoàn Chính Thuần có đầy đủ tất cả. Có ngai vàng đang chờ phía trước, có muôn dân Đại Lý thương yêu thần phục, có võ công trác tuyệt, có một bà vợ và bốn người tình chính thức vô cùng xinh đẹp, có một đàn con trai tài gái sắc. Họ Đoàn dường như có tất cả những gì mà thiên hạ mơ ước. 

Ngược lại, Đoàn Diên Khánh là hoàng thái tử nhưng không có gì cả. Ngai vàng Đại Lý là của phụ thân ông nhưng khi phụ thân ông bị kẻ xấu hại chết ông lại đang bị giam hãm ở nơi xa xăm không về được để kế nghiệp ngôi vua. Ngai vàng đáng lẽ thuộc về ông nhưng lại trao cho Đoàn Chính Minh là anh của Đoàn Chính Thuần. Ông trở nên người tứ cố vô thân, không gia đình, không vợ con. Thân thể cũng không còn nguyên vẹn và do vậy ông không còn nhân tính, trở thành một người vô cùng hung ác, ác nhất trong tứ ác của võ lâm. 

Nhưng phải chăng ông không có gì cả? 

Mộ Dung Phục, Đoàn Dự và Hư Trúc: Ai có ai không? 


Trong ba chàng trai trẻ của thế hệ thứ hai kể trên thì Mộ Dung Phục là người có nhiều nhất. Y là dòng dõi quý tộc chính thống của nước Yên. Tuy nước mất rồi nhưng vẫn giữ được truyền thống hoàng gia. Y còn rất trẻ nhưng đã sở hữu một bản lĩnh võ công cao cường, y có danh tiếng vào hàng bậc nhất trong thiên hạ. Danh tiếng của y ngang tầm với người anh hùng số 1 của giới võ lâm Trung Nguyên là bang chủ Cái bang Kiều Phong: Nam Mộ Dung, Bắc Kiều Phong. Y lại là người có bề ngoài tao nhã hào hoa, am thông cầm kỳ thi họa. Chung quanh y luôn luôn có một đám tôi trung là những người can trường, mưu trí đi theo phò trợ để giúp y mưu đồ nghiệp lớn. Y lại có một người yêu là giai nhân tuyệt sắc như tiên giáng trần Vương Ngọc Yến luôn cận kề, lo cho y từ bữa ăn, giấc ngủ đến cả chuyện rèn luyện võ công vì yêu y say đắm và tôn thờ y như tôn thờ thần thánh. Y có một sự nghiệp để theo đuổi là khôi phục lại nước Đại Yên và lên ngôi hoàng đế. Y có đầy đủ hình ảnh lãng mạn của một ông hoàng lưu vong anh hùng đang chuẩn bị khôi phục đại nghiệp. 

Tương phản sắc nét với Mộ Dung Phục phải có đến hai chàng trai trẻ là ông hoàng khờ Đoàn Dự và nhà sư khờ Hư Trúc. Đoàn Dự tuy là con của Trấn Nam Vương hoàng đệ Đoàn Chính Thuần nhưng lại chẳng có gì ra vẻ một ông hoàng. Chàng bỏ nhà đi lang thang trên giang hồ để chạy theo hình bóng của những người đẹp. Chàng đói rách, bị hết người này đến người nọ ức hiếp, làm nhục và bao lần suýt bị giết chết trong đường tơ kẽ tóc. Chàng không có một chút võ nghệ nào, chỉ may mắn tình cờ học được phép Lăng Ba Vi Bộ là môn võ chuyên dùng để... chạy trốn. Về sau, chàng cũng tình cờ học được tuyệt kỹ công phu của dòng họ Đoàn là Lục Mạch Thần Kiếm, nhưng không kiểm soát được nó vì tùy hứng có lúc tung chiêu ra được có lúc lại... tịt đi. 

Chàng cũng mê gái như cha, nhưng không tài hoa lại thêm gặp điều bất hạnh. Chàng gặp cô gái đẹp nào chuẩn bị được yêu thì y như rằng phát hiện ra nàng là con rơi của bố mình. Hết Chung Linh rồi Mộc Uyển Thanh, đều là em cùng cha khác mẹ với chàng. Cuối cùng thì chàng yêu mê mệt điên cuồng, yêu đến ngu khờ tiên nữ Vương Ngọc Yến. Nhưng người đẹp này lại đã hẹn ước và gửi trái tim của mình trọn vẹn cho chàng trai lẫy lừng họ Mộ Dung ở đất Cô Tô. Vì lê thê lếch thếch đi theo Vương Ngọc Yến như thằng ăn mày (ăn mày tình yêu) mà chàng bao nhiêu lần suýt bị họ Mộ Dung giết chết, chưa kể là bị đám cận thần của nhà này căm ghét, xua đuổi và coi khinh. Nhưng bi kịch nhất là đến cuối cùng khi được Vương Ngọc Yến đáp lại mối tình si thì cũng là lúc chàng phát hiện ra nàng cũng là em gái của chàng. 

Một đối ngược khác nữa với Mộ Dung Phục là tiểu tăng khờ khạo thật thà Hư Trúc. Đoàn Dự vẫn là người phong nhã thông minh, chỉ khờ đi vì quá si mê Vương Ngọc Yến chứ còn Hư Trúc là anh chàng khờ thiệt. Anh ta đúng là mẫu người không có gì hoàn toàn. Không có trí khôn, không có tướng mạo, không có gia đình, không biết cha mẹ là ai, không biết mình từ đâu đến. 

Do ai đó vất vào chùa Thiếu Lâm từ lúc mới lọt lòng mẹ, được nhà chùa dưỡng dục và lớn lên từ trong chùa Thiếu Lâm, chàng chỉ biết suốt ngày lo làm lụng chuyện nặng nhọc thấp hèn để phục dịch mọi người, chàng không có ước mơ, không vọng tưởng. Chàng là con số không to tướng. Nhưng có thật vậy chăng? 

Cao trào Thiếu Lâm Tự 

Cổng chính Thiếu Lâm Tự
Kim Dung đã đưa tư tưởng sắc sắc không không của nhà Phật vào tác phẩm Thiên Long bát bộ một cách tài tình. Tư tưởng này xuyên suốt như sợi chỉ đỏ từ đầu đến cuối thiên tiểu thuyết kỳ ảo diễm tình. Nó nằm ẩn sâu đằng sau những pha tung quyền phóng chưởng lở đất long trời, đằng sau những bi kịch thảm khốc về số phận con người, đằng sau những mối tình diễm lệ hoặc trớ trêu. 

Kim Dung đã đẩy cái sắc sắc không không của kiếp người lên đến cao trào khi cho tất cả những nhân vật của chúng ta với những số phận khác nhau tụ hội lại trước cổng chùa Thiếu Lâm. Hầu như toàn thể giới võ lâm không kể hắc bạch chính tà, không kể Tống Liêu Cương Tạng, không kể cao thấp võ công đều tụ hội về đây tưởng rằng để tham gia thi đấu hoặc quang đấu giành ngôi võ lâm minh chủ. Họ đâu biết rằng họ bị đưa về đây để hoàn chỉnh, để kết thúc hoặc để kéo dài thêm kiếp nạn của mỗi người hầu làm rõ cái lẽ sắc không của cuộc đời tạm. 

Ở đây ta gặp vợ chồng Đoàn Chính Thuần - Thư Bạch Phụng, gặp Tiêu Viễn Sơn, Mộ Dung Bác, Huyền Từ đại sư, Đoàn Diên Khánh, Diệp Nhị Nương... Thế hệ thứ hai thì có Tiêu Phong, Đoàn Dự, Hư Trúc, Mộ Dung Phục, Vương Ngọc Yến, A Tử ... Nơi đây từ đại hội võ lâm biến thành đại hội... gia đình, nơi cha mẹ, con cái trùng phùng với nhau. 

Đoàn Dự gặp lại bố mẹ mình sau bao ngày lưu lạc giang hồ vì một bóng hồng. Tiêu Phong tìm ra được cha đẻ của mình là Tiêu Viễn Sơn. Lâu nay chàng cứ nghĩ mất cha, bây giờ lại biết mình vẫn còn cha. Nhưng vừa gặp lại cha mình, Tiêu Phong đã thấy mất ngay cha vì ông ta cũng chính là kẻ đại ác giết chết cha mẹ nuôi và sư phụ của mình mà bấy lâu nay chàng quyết tâm tìm cho ra để trừng trị rửa thù. Mộ Dung Phục gặp lại cha mình là Mộ Dung Bác nhưng rồi chính Mộ Dung Phục lại không còn là đứa con như người cha mong đợi. 

Ngay lúc gặp lại cha là lúc chàng trai Mộ Dung đánh mất đi tất cả những gì tưởng rằng mình có sau khi bị Đoàn Dự bất ngờ phát ra được một đường Lục Mạch Thần Kiếm làm Mộ Dung Phục phải thua xiểng liểng. Từ lúc đó huyền thoại Mộ Dung đất Cô Tô phải đối diện trước một con số không to tướng: Mất đi huyền thoại phục quốc cao đẹp, mất đi bề ngoài phong lưu tuấn nhã... và mất đi cả người yêu tuyệt mỹ Vương Ngọc Yến. Thật ra thì y cũng chẳng có gì để mất. Vì y có yêu nàng Vương đâu, có cao đẹp đâu, có phong lưu tuấn nhã đâu. Mộ Dung Bác đến lúc đó mới thấy mất con nhưng thật ra y đã mất con từ lâu rồi vì y cũng đã tự đánh mất chính mình. Một cõi sắc không, không sắc đấy mà. 

Đỉnh điểm của cao trào Thiếu Lâm tự là sự trùng phùng của gia đình Hư Trúc.
Trước đấy hơn 20 năm, vừa sinh ra con, Diệp Nhị Nương đã để mất con. Bà trở nên ác độc từ đó, ác độc đến mức được xếp hạng đệ nhị ác trên giang hồ chỉ sau Đoàn Diên Khánh. Bây giờ ngay tại Thiếu Lâm tự, bà phát hiện ra chàng trai đôn hậu, hiền lành nhất thế gian Hư Trúc là đứa con mất tích của mình. Sau khi mẹ con trùng phùng với nhau, mọi người đặt ra câu hỏi ai là cha của Hư Trúc? 

Câu trả lời đã có ngay. Đại cao tăng Huyền Từ, phương trượng chùa Thiếu Lâm tự giác đứng ra nhận ngay mình là tác giả của cái bào thai trong bụng Diệp Nhị Nương cách đây hơn 20 năm. Huyền Từ vỗ vào đầu Hư Trúc than một câu: "Ngươi đã ở trong chùa 24 năm thế mà thủy chung ta vẫn không hay". Thế đấy, có con ở ngay bên cạnh nhưng ông nào biết có con. Không nhưng vẫn có đó. Bây giờ gặp lại con rồi, ông phải thọ tội theo pháp giới của Thiếu Lâm và hơn thế nữa, theo công lý của lương tâm ông. Ông phải tự sát. Diệp Nhị Nương cũng tự vẫn, vừa để theo người tình cho trọn nghĩa yêu đương cũng vừa để tự rửa cái ác mà hơn 20 năm qua bà đã gieo ra cho thiên hạ. 

Vừa có được cha mẹ, Hư Trúc lại không còn cha mẹ, mồ côi vẫn cứ mồ côi. Không rồi có, có đó rồi không, không nhưng vẫn có. Có không chẳng khác gì nhau. 

Tâm kinh Bát nhã viết trên cơ thể

sắc tức thị không, 
không tức thị sắc 
sắc bất dị không, 
không bất dị sắc 
thọ tưởng hành thức 
diệc phục như thị 

Tiêu Viễn Sơn gặp lại con, Mộ Dung gặp lại con, Đoàn Chính Thuần gặp lại con, Huyền Từ nhận ra con, Đệ nhị ác Diệp Nhị Nương tìm ra con. Vậy Đệ nhất ác Đoàn Diên Khánh cũng có mặt ở cái đại hội gia đình đó, nhưng có tìm ra con không? Câu hỏi có vẻ hơi ngớ ngẩn, vì y có con đâu mà gặp! 

Nhưng y vẫn có đấy. Vì có cũng như không, không cũng như có, có không nào khác gì nhau... 

Kim Dung tiên sinh là một giáo sư triết học nên ông đưa triết lý vào tiểu thuyết quá tài tình. Ông cho cha mẹ, con cái của các gia đình họ Mộ Dung, họ Tiêu, họ Đoàn trùng phùng với nhau để làm cái nền cho sự trùng phùng đầy kịch tính của gia đình Hư Trúc. 

Sự mất - còn của Hư Trúc đã là đỉnh cao chót vót của lẽ sắc - không. Nhưng Kim Dung còn siêu hơn nữa, bởi lẽ còn vài cuộc trùng phùng cha con nữa ở ngày hội gia đình kỳ lạ ấy nhưng Kim Dung không một chữ nhắc đến. Không nhắc đến nhưng vẫn có. Có nhưng lại không. Đó là sự trùng phùng của cha con Đoàn Diên Khánh. 

Rồi một cuộc trùng phùng mà không trùng phùng nữa. Đó là cuộc trùng phùng giữa cha con Đoàn Chính Thuần và Vương Ngọc Yến (Vương Ngữ Yên). Ngộ nhưng không ngộ, không ngộ nhưng mà ngộ. Hai cha con gặp nhau nhưng không hề biết, không biết nhau nên xem như chưa trùng phùng. Kim Dung làm cho mọi người thích thú hơn khi cắc cớ cho Đoàn Dự đòi dắt Vương Ngọc Yến đến ra mắt gia gia của mình. 

Đi bên cạnh người yêu mình là Mộ Dung Phục mà cứ bị Đoàn Dự lò dò bám theo nên Vương Ngọc Yến tìm cách đuổi chàng đi chỗ khác. Nhưng bảo chàng bỏ đi thì chàng cũng không thể nào dứt tình được. Chàng ngượng ngùng nói: 

- Cái đó... à! Vương cô nương! Gia gia tại hạ cũng đã đến đây hiện ở ngoài kia. 

...Vương Ngọc Yến thấy Đoàn Dự đã mấy phen hy sinh để cứu mình, nàng cũng biết rõ chàng rất thành tâm với mình nên đem lòng cảm kích. Còn về con người chàng thì chẳng bao giờ nàng để vào lòng. Có khi bàn đến võ công thì Đoàn Dự lại chẳng hiểu gì... bây giờ nàng nghe chàng nói gia gia chàng đã tới nơi cũng hơi động tính hiếu kỳ, liền hỏi: 

- Phải chăng lệnh tôn từ Đại Lý qua đây? Cha con công tử gặp nhau rồi phải không? 

Đoàn Dự cả mừng đáp: 

- Đúng đó Vương cô nương! Tại hạ muốn dẫn cô nương đến yết kiến gia phụ được không? Gia phụ được thấy cô nương chắc người hài lòng lắm. 

Vương Ngọc Yến hai má ửng hồng, đáp: 

- Ta không đi. (Theo bản dịch của Hàn Giang Nhạn). 

Hai cuộc ngộ mà không ngộ ấy mãi đến Trà Hoa Trang mới bộc lộ ra trọn vẹn.
Trà Hoa Trang là ngôi nhà gỗ giữa đồng cỏ mênh mông do Vương phu nhân 

mẹ của Vương Ngọc Yến dựng nên để làm bẫy đón lõng người tình phong lưu Đoàn Chính Thuần. Bà không bắt được "con lợn già" Đoàn Chính Thuần nhưng lại bắt nhầm "con lợn con" Đoàn Dự với một đám em gái là con rơi của cha chàng, trong đó có cả Vương Ngọc Yến là con gái bà. Nhưng rồi nhờ sự giúp sức của Mộ Dung Phục và sự tiếp tay bất đắc dĩ của Đoàn Diên Khánh bà cũng gom được trọn ổ Đoàn Chính Thuần với đầy đủ vợ và các tình nhân: Đoàn phu nhân Thư Bạch Phụng, Chung phu nhân, Tần Hồng Miên, Nguyễn Tinh Trúc. 

Tại Trà Hoa Trang, Kim Dung cho bốn nhóm người tụ họp. Đó là nhóm Đoàn Dự với các cô em gái, nhóm Đoàn Chính Thuần với các người tình và đám cận thần, nhóm Mộ Dung Phục với các đồng sự phục quốc, nhóm Đoàn Diên Khánh với hai gã đàn em đệ tam và đệ tứ ác. Bốn nhóm người này hợp lại đây để rồi tiêu tan. Đoàn Chính Thuần với năm tình nhân sắc nước hương trời (kể cả vợ) đều bị thảm tử dưới tay họ Mộ Dung. Mộ Dung và Đoàn Diên Khánh vì ham mê ngai vàng mà lạnh lùng giết chết đàn em, đồng sự của mình để những người còn lại bỏ chạy tan tác. Chỉ còn lại Đoàn Dự với đám em gái mà cũng không phải là em gái... thế mới thích chứ. 

Tại nơi này Đoàn Dự lại mất mẹ lẫn cha nhưng lại biết ra cha thực của mình là Đoàn Diên Khánh. Biết là cha thực của mình nhưng không chịu nhận. Đoàn Diên Khánh mừng rỡ sung sướng lên tới trời khi được Thư Bạch Phụng cho biết Đoàn Dự là con y. 

Tưởng như y không có gì hết nhưng y lại có tất cả. Y có con trai, con trai y lại chắc chắn được thừa kế ngai vàng - cái mà y bỏ ra cả đời, trăm phương ngàn kế, điên cuồng giành giật nhưng chẳng bao giờ được. Y kiêu hãnh nhìn Đoàn Chính Thuần những muốn la lên: "Dù ngươi có làm hoàng đế nước Đại Lý mà ta không làm được cũng chẳng lấy chi làm vinh hạnh. Ta có con trai mà ngươi không, thế là ta hơn ngươi nhiều lắm". Nhưng rồi y lại buồn ngay vì con y không chịu nhận y là cha. Y thốt lên đau khổ: "Mình tuy có con mà con không chịu thừa nhận thì chẳng khác gì không con". 

Tưởng như Đoàn Chính Thuần có hết cả thiên hạ nhưng rồi lại chẳng còn gì. Những tình nhân xinh đẹp đều bị giết chết hết, người vợ chính thức thì coi như không có vì bà ta đã "ngoại tình" từ rất lâu và bỏ đi tu rồi, đứa con trai tưởng là của mình thì thật ra là con của kẻ tử thù. Ngai vàng chưa kịp tới tay cũng đã mất vì sinh mạng ông có còn đâu. Ông chỉ còn lại một đám con gái nhưng theo quan niệm "trọng nam khinh nữ" thời phong kiến Trung Hoa thì cũng coi như chẳng có gì vì "nhất nam viết hữu thập nữ viết vô" đấy mà. Ấy vậy nhưng họ Đoàn vẫn có, trước khi nhắm mắt ông cũng đâu biết Đoàn Dự không phải là con ông, hơn nữa Đoàn Dự vẫn cứ xem ông là cha đẻ và chỉ có ông mà thôi. 

Ông vẫn có con trai đấy thôi. Không - không, có - có ấy mà. 

Khúc vĩ thanh tại ngôi mộ bên ngoài chùa Thiên Long 

Mộc Uyển Thanh
Đoàn Dự cùng các cô em là Chung Linh, Mộc Uyển Thanh, Vương Ngọc Yến đi thẳng về phía nam. Đoàn Dự không muốn kinh động bá tánh, liền truyền cho các quan đừng thay đổi sắc phục vẫn ăn mặc theo kiểu khách thương. 

Một ngày kia sắp tới kinh thành. Đoàn Dự muốn vào chùa Thiên Long bái kiến Khô Vinh đại sư và Hoàng bá phụ là Đoàn Chính Minh. Nhưng chàng thấy trời tối rồi mà còn cách chùa Thiên Long đến 60 dặm, đang muốn tìm một nơi nghỉ lại.

Bất thình lình trong rừng có thanh âm một đứa nhỏ la lên: 
- Bệ hạ! Bệ hạ! Hài nhi đã lạy bệ hạ rồi sao không thấy bệ hạ cho kẹo? 

Mọi người thấy thế làm kỳ tự hỏi: 
- Sao lại có người nhận ra bệ hạ? 

Mấy người chạy vào rừng cây thì nghe thấy thanh âm: 
- Các ngươi phải nói: Nguyên Ngộ Hoàng đế vạn tuế, vạn vạn tuế! Thì mới được thưởng kẹo. 

Thanh âm này nghe rất quen tai. Gã chính là Mộ Dung Phục. 

Đoàn Dự và Vương Ngọc Yến giật mình kinh hãi. Hai người dắt tay nhau ẩn vào một gốc cây nhìn về phía phát ra thanh âm thì thấy Mộ Dung Phục ngồi trên một ngôi mộ. Gã đội mũ giấy vẻ mặt oai nghiêm. 

Trước ngôi mộ có bảy, tám đứa con nít trong làng ra quỳ ở đây. Chúng theo lời Mộ Dung Phục la lên: 
- Nguyên Ngộ Hoàng đế vạn tuế! Vạn vạn tuế! 

Chúng vừa la vừa lạy xuống. Có đứa thò tay ra năn nỉ: 
- Bệ hạ cho kẹo đi! Bệ hạ cho kẹo đi! 

Mộ Dung Phục nói: 
- Các khanh hãy bình thân! Trẫm đã phục hưng được cơ nghiệp nhà Đại Yên, lên ngôi đại bảo thì hết thảy đình thần đều được phong thưởng. 

Gã nói xong lấy trong bọc ra một hộp vừa kẹo vừa bánh chia cho bọn con nít.
Bầy con nít vỗ tay hoan hô vừa chạy đi vừa nói: 
- Sáng mai lại đến! 

Vương Ngọc Yến trông vẻ mặt biểu ca mình thì biết rằng cái giàu sang của y càng ngày càng thâm trọng và nay y đã thành người mất trí. Nàng thấy vậy đau lòng khôn xiết, suýt nữa ngất đi. Đoàn Dự khẽ kéo tay áo nàng dắt đi. Mọi người cũng từ từ lui ra, để mặc Mộ Dung Phục ngồi trên phần mộ mà nói lảm nhảm". 

Truyện đến đây là hết. 

Mỗi lần đọc xong đến đây, tôi thả rơi cuốn sách, rồi thẫn thờ buồn đến mấy ngày. Trong đầu tôi cứ lởn vởn hình ảnh tội nghiệp của Mộ Dung Phục. Những gì chàng thanh niên này vọng tưởng và cố sức đạt cho được bằng mọi cách nhưng bất thành, thì Hư Trúc và Đoàn Dự đều có được một cách đương nhiên hoặc ngẫu nhiên dễ dàng. 

Hư Trúc có được nền võ công cao cường, làm chủ được một Cung Linh Thứu với phạm vi ảnh hưởng ngang tầm phái Thiếu Lâm, làm thủ lĩnh cả hai phái hắc - bạch và cưới được một cô vợ là công chúa Tây Hạ xinh đẹp. Đoàn Dự thì nghiễm nhiên lên làm hoàng đế Đại Lý với một đoàn các "cô em" xinh đẹp suốt ngày tíu tít chung quanh. 

So với cái nhân mà Mộ Dung Phục đã gieo ra, thì cái quả mà anh ta nhận vào như vậy cũng là có sự nương tay của tác giả. Phải chăng ông đã quá ác với nhân vật này nên đến hồi kết cục ông cảm thấy thương hại? Làm vua ảo như Mộ Dung Phục với ngai vàng là một nấm mộ vô tri và triều thần là đám trẻ con hồn nhiên trong trắng so với ông vua thật Đoàn Dự trong một triều đình thật đầy bất trắc chắc gì ai được hơn ai. "Thật ảo cũng chỉ là mộng thôi" - nói theo kinh Phật... 

Trong các chàng trai, thì Hư Trúc là anh chàng ngớ ngẩn thật thà, Đoàn Dự là tay cà rỡn tiêu dao, Tiêu Phong là anh hùng thượng mã còn Mộ Dung Phục là một nhà hoạt động chính trị. 

Anh ta sống có mục tiêu lý tưởng. Anh ta lo học hành tu chí, rèn luyện võ công đến mức cao cường, không ham mê tửu sắc, suốt ngày đêm canh cánh bên lòng mục tiêu phục quốc. Có một người yêu tuyệt hảo, tài sắc như Vương Ngọc Yến cận kề hầu hạ nhưng anh vẫn cố nén lòng để mưu cầu việc nước. Thậm chí có lúc anh lại hy sinh từ bỏ cả con người ngọc ngà ấy để tìm cách cưới cho được nàng công chúa Tây Hạ dù "nàng ta có trái tính trái nết và xấu xí như quỷ Dạ Xoa". Anh làm như vậy là để mưu cầu việc lớn. Đó là bản lĩnh của người làm chính trị. Hy sinh tình cảm riêng tư, hy sinh gia đình, hy sinh cả bản thân để mưu đồ đại nghiệp. 

Thế nhưng dường như Kim Dung tiên sinh dị ứng với những người chính trị, do vậy bao nhiêu hành động xấu xa, ác độc; bao nhiêu suy nghĩ đen tối ông đều gán ghép vào cho ông hoàng lưu vong, con người chính trị Mộ Dung Phục. Như vậy không tội nghiệp cho nhà Mộ Dung đất Cô Tô lắm ư! Cho người làm chính trị lắm ư! 

Nhưng mà ôi thôi! Tôi đã đi lạc đề rồi.

Chuyện nhà

Cháu ngoại học bài

Một lần xuống HP thăm cháu ngoại, mẹ Én nhờ ông kèm cháu tập tô. Được một lúc, Én thủ thỉ:
- Ông ơi! đằng nào sáng mai cháu cũng đi học, bây giờ ông cháu mình chơi "trốn tìm", ông nhỉ.

Hết giờ, trống tan học...
... "bao giờ nghe hú, thì mở mắt ra. ... Tìm ra người trốn..."
Hú !... 

Cây Sơn Liễu bên thềm

Trong bữa ăn, có câu chuyện bà H hơn 70 tuổi không biết đi xe đạp, hàng ngày gánh rau mua từ chợ Kim Anh ra chợ Ga bán. Bà nhà tôi có ý trách các con để mẹ vậy...
Ông nói:
- Các con bây giờ phải chịu nhiều áp lực cuộc sống, áp lực quan hệ trên dưới, lễ tết, lo con học... Xưa bà bỏ hai con trong nhà lên lớp, các thày cô đi qua vẫn quan sát và trêu vui, bây giờ đâu có được như vậy. Các con bà H nghèo và lam lũ. Bà ấy tự làm cũng là đỡ cho con mình. 
Các cụ nói "Nước mắt chảy xuống" để chỉ trách nhiệm của làm cha mẹ mà không có ý trách móc các con.
Nói vui với bà, khi xưa, đại đội tôi toàn lính có học. Chính trị viên lên lớp khoe này nọ và diễu cợt sinh viên. Tôi nói: Xưa thủ trưởng đi bộ đội, bom chỉ bằng cái phích nước, bây giờ chúng tôi đánh nhau bom bằng cái chum. Ai dũng cảm hơn ai? ...
Bây giờ như vậy đó, con cái có điều kiện mà bà còn tất bật cho con dâu, cho con gái đó thôi...
...
Bữa cơm ra chiều yên lặng, suy tư...

Cháu nhờ ông chụp "chân rung"
Bà bảo "chân dung mặt vuông" của ông Đình Toán.
Mỗi lần cháu nội hờn đòi ông, ông lại hỏi: Ông của ai?
- Ông của chung ba chúng cháu!

Tối qua cháu nhắc qua điện thoại: Ông lên đây chơi "Rồng rắn lên mây" với cháu đi!
Mến yêu cháu, ngọng líu lo, đọc bài thơ "Đánh thức trầu" rồi "Nửa đêm em tỉnh giấc"...