Nhà báo Phạm Yên, thời
trước học cùng lớp A15 khoa Toán với hai vợ chồng tôi. Sau khi chúng tôi đi
lính về, ông làm phóng viên nhiếp ảnh ở báo Tiền Phong.
Ngày 11 tháng 11 các bạn
về chơi, Yên tặng tôi một loạt ảnh do ông chụp.
Những bức ảnh sau được
ông chụp tại triển lãm Hà Nội năm 2012, Tràng Tiền, máy NIKON D300. Những bức ảnh chụp từ gốc, Hà Nội xưa đẹp lung linh.
*****
Kiến trúc sư Đinh Việt
Phương cùng hai người sáng lập ra nhóm 3D Hà Nội từ năm 2004 với mục đích dùng
công nghệ 3D phục dựng lại những khung cảnh của phố cổ Hà Nội nhằm quảng bá các
giá trị về lịch sử, văn hóa. Nhóm tiếp tục được mở rộng với hàng loạt thành
viên mới. Năm 2007, nhóm cho ra triển lãm “Hà Nội những góc nhìn thời gian” và
được trao giải thưởng Bùi Xuân Phái cho ý tưởng xuất sắc.
Dù việc triển lãm 2012
của nhóm Số hóa Hanoi mà dư luận cho là vi phạm bản quyền của nhóm 3D trước ...
Nhưng Hà Nội xưa vẫn đẹp
mê hồn ...
Chợ Đồng Xuân nằm
trong khu phố cổ, phía tây là phố Đồng Xuân, phía bắc là phố Hàng
Khoai, phía nam là phố Cầu Đông, phía đông là ngõ chợ Đồng Xuân.
Cổng chợ nhìn sang
phía tây, phía trước là một khoảng trống nhỏ. Phía Bắc có quán Huyền Thiên-
sau đổi thành chùa Huyền Thiên. Ngay sát sau chợ là chợ Bắc Qua. Vì vậy
nhiều người gọi cả hai là chợ Đồng Xuân - Bắc Qua.
Ở góc tây bắc của chợ
có đài Cảm tử, kỷ niệm ngày Toàn quốc kháng chiến.
Trong thời gian xây dựng
lại Thành Thăng Long vào mùa hạ năm Giáp Tí, 1804, Tổng Trấn Nguyễn
Văn Thành dưới triều đại Nguyễn đã cho đặt ngôi chợ lớn ở cửa chính đông,
hay còn gọi là chợ Đồng Xuân ngày nay.
Chợ Đồng Xuân tuy nằm
trong khu phố cổ nhưng có tuổi đời trẻ hơn rất nhiều so với các phố xung quanh.
Trước kia đây là khu đất trống thuộc phường Đồng Xuân, huyện Thọ Xương nằm trước quán
Huyền Thiên (sau đổi thành chùa Huyền Thiên). Người dân họp chợ trên
hai khu đất ở cạnh chùa Cầu Đông ở phố Hàng Đường và cạnh đền
Bạch Mã ở phố Hàng Buồm vì hai khu đất đó gần bến sông, tiện cho
thuyền đi lại.
Năm 1889, khi những
dấu tích cuối của sông Tô Lịch và hồ Thái Cực bị lấp hoàn
toàn, người Pháp quy hoạch lại đã giải tỏa hai chợ trên và dồn tất cả các hàng
quán vào khu đất trống của phường Đồng Xuân, tạo thành chợ Đồng Xuân. Trong năm
đầu tiên chợ họp ngoài trời, hoặc có che mái lá giống như hai chợ cũ.
Năm 1890 chính quyền
Pháp mới bắt đầu xây dựng chợ Đồng Xuân, tạo thành năm vòm cửa và năm nhà cầu
dài 52m, cao 19m. Mặt tiền theo kiến trúc Pháp, gồm năm phần hình tam giác có
trổ lỗ như tổ ong, lợp mái tôn.
Tại đây đã diễn ra các
trận chiến ác liệt giữa Vệ quốc quân chống lại lính Lê dương của
Pháp, rất nhiều Vệ quốc quân đã hi sinh tại đây trước khi rút khỏi Hà
Nội.
Sau ngày giải phóng thủ
đô, chợ Đồng Xuân là chợ lớn nhất Hà Nội.
Vào khoảng năm 1990,
chợ được xây dựng lại, phá bỏ hai dãy hai bên, ba dãy giữa xây lên ba tầng. Hai
tấm cửa hai bên cũng bị dỡ, nhưng vẫn còn giữ hai cột ngoài cùng.
Ngày 14, tháng Bẩy, năm
1994, chợ Đồng Xuân đã bị hỏa hoạn, lửa thiêu trụi gần như toàn bộ các gian
hàng trong chợ. Đây là vụ cháy chợ lớn nhất tại Hà Nội cho đến nay.
*****
Cầu Long Biên là cây cầu thép đầu tiên bắc qua sông Hồng tại Hà Nội, do Pháp xây dựng (1899-1902), đặt tên là cầu Doumer, theo tên của Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer. Dân gian còn gọi là cầu sông Cái hay cầu Bồ Đề (vì nó được bắt qua bến Bồ Đề thuộc huyện Gia Lâm). Hiện trên đầu cầu vẫn còn tấm biển kim loại có khắc chữ 1899-1902 - Daydé & Pillé- Paris.
Cây cầu được thiết kế với kiểu dáng độc đáo do hãng Eiffel thiết kế, giống với kiểu dáng của cầu Tolbiac ở quận 13, Pari trên tuyến đường sắt Paris- Orléans, Pháp. Nha công chính Đông Dương xây dựng phần cầu dẫn. Ngày 12.9.1898 diễn ra lễ khởi công xây dựng và sau hơn 3 năm thì hoàn thành, dù kế hoạch dự trù phải mất 5 năm. Tổng số tiền thực chi lên tới 6.200.000 franc Pháp, không vượt quá dự trù là bao.
Cầu dài 1.682m qua sông và 896m cầu dẫn, gồm 19 nhịp dầm thép đặt trên 20 trụ cao hơn 40m (kể cả móng) và đường dẫn xây bằng đá. Cầu dành cho đường sắt đơn chạy ở giữa. Hai bên là đường dành cho xe cơ giới và đường đi bộ. Đường cho các loại xe là 2,6m và luồng đi bộ là 0,4m. Luồng giao thông của cầu theo hướng đi xuôi ở phía trái cầu chứ không phải ở bên phải như các cầu thông thường khác.
*****
Ga Hàng Cỏ (nay là ga
Hà Nội) năm 1902 đưa vào hoạt động, được coi là đầu mối giao thông quan trọng với
5 nhánh đường sắt đến các vùng trong nước. Khu ga kéo dài gần hết đường Nam Bộ
(nay là đường Lê Duẩn), từ đầu phố Sinh Từ (nay là Nguyễn Khuyến) đến Khâm
Thiên.
Ga Hàng Cỏ ngày mới xây dựng |
Thời Pháp phố Lê Duẩn
gọi là Hàng Lọng, sau năm 1954 đổi thành đường Nam Bộ, sau này mang tên như bây
giờ. Khi mới xây khu vực ga, Hàng Lọng qua các thôn Vĩnh Xương, Nam Môn, Hoa
Ngư và Tứ Mỹ, tiếp nối các đường từ thành Hà Nội ra Cửa Nam - Cửa đông nam gọi là Đại Hưng. Qua Hàng Cỏ có lối rẽ qua Làng Lương Sử để đến Văn Miếu, mà đi thẳng
thì ra hồ Bảy Mẫu xuống Lý Nhân, Nam Định để vào đàng trong, tức Quan Lộ. Sau
năm 1946, người Pháp đổi đây thành đường Đờ Lát, nhưng người dân vẫn quen gọi
Hàng Lọng.
tàu điện Hà Nội |
Các tuyến
tàu điện ở Hà Nội có khoảng thời gian tồn tại gần một thế kỷ, từ khi chạy thử
nghiệm vào tháng 9/1900 cho đến khi ngừng hoạt động vào đầu thập niên 1990.
Đóng vai trò
quan trọng trong đời sống thế kỷ trước, hình ảnh chiếc tàu điện đã đi vào tâm thức
của nhiều người dân Hà Nội như biểu tượng rất đặc trưng của cả một thời kỳ.
Phố cổ ngày Tết |
*****
Nhà hát lớn Hà Nội là
một công trình lớn do người Pháp xây dựng trong những năm đầu thế kỷ XX. Nó được
bắt đầu khởi công xây dựng vào ngày 7 tháng 6 năm 1901 và hoàn thành vào năm 1911.
Xưa kia là một vùng đầm
lầy thuộc đất của hai làng Thạch Tần và Tây Luông thuộc Tổng Phúc Lân Huyện Thọ
Xương. Vào năm 1899 hội đồng thành phố nhóm họp dưới quyền chủ tọa của Richard
– là Công sứ Hà Nội đề nghị lên tòan quyền Fourer cho xây Nhà Hát.
Tác giả đồ án thiết kế
là hai kiến trúc sư Harlay và Broyer. Người phụ trách thi công là hai ông
Travary và Savelon. Công trình chiếm diện tích 2600m2, chiều dài 87m, chiều rộng
30m, điểm cao nhất so với mặt đường là 34m. Những người thiết kế công trình đã
tìm tòi tham khảo kiểu kiến trúc cổ Hy Lạp Coranhtơ kết hợp với kiểu lâu đài
Tuylory và nhà hát Opera Paris để tạo nên một khối kiến trúc riêng biệt.
Bên trong nhà hát trước
đây có sân khấu rộng và một phòng khán giả chính có diện tích 24x24m, ngày đó
chứa được 870 chỗ ngồi, ghế ngồi bọc da, một số chỗ bọc bằng nhung. Tầng giữa
có nhiều phòng nhỏ dành cho khán giả có vé riêng. Cầu thang giữa lên tầng hai
là một sảnh chính rộng. Cầu thang phụ và hành lang ở hai bên. Phía sau nhà hát
là một phòng quản trị, có 18 buồng cho diễn viên hoá trang, 2 phòng tập hát, 1
thư viện và phòng họp. Phía mặt trước trên tầng II là phòng gương rất lộng lẫy.
Kinh phí xây dựng Nhà hát được duyệt vào lúc đó là 2.000.000 Frăng Pháp.
Nhà hát lúc đó được sử
dụng là nơi biểu diễn các loại hình nghệ thuật cố điển như Opera, nhạc thính phòng,
kịch nói... phục vụ cho tầng lớp quan lại thượng lưu người Pháp và một số ít
người Việt giàu có. Lịch biểu diễn thời đó một tuần có 4 lần vào thứ ba, thứ
năm, thứ bảy và chủ nhật.
Nhà hát Lớn hà Nội có
một giá trị rất lớn về mặt lịc sử, kiến trúc và giá trị dử dụng. Nó là bằng chứng
lịch sử của sự phát triển văn hóa và xã hội của Hà Nội và Việt nam thời kỳ
Pháp thuộc, là một di tích của một giai đoạn phát triển kiến trúc ở Việt Nam cuối
thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Nhà hát Lớn Hà Nội và Quảng trường Nhà hát là nơi diễn
ra những sự kiện lịch sử trọng đại gắn liền với cuộc Cách mạng tháng 8 và những
năm đầu của nước Việt Nam dân chủ cộng hòa.
*****
Rạp Công Nhân (Rạp chớp
bóng PALACE)
Chớp bóng đến nước ta vào
thời điểm thế chiến I đang diến ra ở châu Âu, nhằm tuyên truyền cho nước Pháp ở
thuộc địa. Ban đầu các buổi chiếu ở ngoài trời. Buổi chiếu trong nhà đầu tiên ở Grand Café của khách sạn Metropole, sau chuyển sang bên đường, nay là phố
Nguyễn Xí, ở đó có cái cổng nhỏ đi vào rạp lấy tên là Palace.
Sau đó xây dựng khá lớn và có mặt tiền tuyệt đẹp
tựa cái vỏ sò cách điệu ngay trên đường Paul Bert sầm uất. Thời tạm chiếm Hà Nội
(1947-1954), rạp đổi tên Eden (Thiên đường), sau này là rạp Công Nhân.*****
Nhà hàng Godard |
Nhà hàng Godard do
Liên hiệp Thương mại Đông Dương và châu Phi (viết tắt là LUCIA) xây dựng vào những
năm đầu thế kỷ XX. Năm 1958, 49 quầy hàng trong Godard được dọn hết, dù trước
đó, đầu thập niên 50 họ mua lại của chủ Godard. Tháng 9-1959, Godard được đổi
tên thành Bách hóa Tổng hợp. Cũng có người gọi là Bách hóa Tràng Tiền vì nó nằm
trên phố Tràng Tiền.
Godard là tòa nhà hai
tầng, tầng dưới cao 6m. Tầng trên 5m. Diện tích mặt bằng xấp xỉ 4.500 mét
vuông. Sàn tầng một lát đá thấm thủy khổ lớn để hạn chế nước vào ngày nồm. Trần
trát vôi rơm, sàn tầng hai bằng gỗ lim. Mái bằng khung thép uốn thành vòm, dưới
vòm cũng trát vôi rơm, trên lợp bằng miếng tôn nhỏ hình chữ nhật. Xung quanh là
cửa kính để lấy ánh sáng. Từ tầng một lên tầng hai có bốn cầu thang bậc gỗ, lan
can bằng thép có hoa văn và trụ cầu thang bằng đồng đúc.
Godard có ba mặt phố,
phía bắc là Tràng Tiền, phía nam là Hai Bà Trưng và phía tây là Hàng Bài. Ba cửa
chính ra vào Bách hóa có dòng chữ tiếng Pháp “Không dựng xe ở đây” bằng đá trắng
gắn chìm trên vỉa hè. Vỉa hè rất cao so với mặt đường để phòng ôtô có lao lên sẽ
bị chặn lại, đảm bảo an toàn tính mạng cho người đi lại. Vỉa hè bo bằng đá đen
chôn sâu dưới đất hơn một mét để nếu ôtô đâm vào sẽ không đổ gẫy. Vì sao Godard
không xây cao? Giản đơn vì chính quyền thời đó không cho phép các công trình
quanh hồ Gươm xây quá cao, họ sợ hồ Gươm sẽ lọt thỏm trong các khối nhà như thế
làm mất vẻ đẹp thơ mộng của khu vực này. Nhưng tại sao dân số Hà Nội đầu thế kỷ
XX chỉ hơn 10 vạn người ta lại xây Godard lớn như vậy?
Việc xây dựng nhà
Godard là bước ngoặt cho thương mại Hà Nội vốn trước đó chỉ có các chợ truyền
thống. Nếu trước kia chợ họp theo phiên và chỉ bán nông sản, đồ thủ công, lương
thực... sản xuất tại Hà Nội hay các vùng lân cận hoặc bán một số mặt hàng từ
các tỉnh phía nam Trung Quốc mang qua thì Godard bán đủ thứ nhập từ Pháp, Ấn Độ,
Hồng Kông hay các nước thuộc địa của Pháp.
Chùa thường được gọi là chùa Một Cột. Chùa được
Vua Lý Thái Tông (1028-1054) cho xây dựng vào năm 1049. Ngôi chùa được xây lại
vào thời Trần (năm 1249) và đã trùng tu nhiều lần. Đây là ngôi chùa có kiến
trúc độc đáo nhất Việt Nam.
Khuê văn các có nghĩa "gác vẻ đẹp của sao Khuê" là một lầu vuông tám mái, bao gồm bốn
mái thượng và bốn mái hạ, cao gần chín thước, do Tổng trấn Nguyễn Văn
Thành triều Nguyễn đương thời cho xây dựng vào năm 1805. Gác dựng trên
một nền vuông cao cân xứng có lát gạch Bát Tràng mỗi bề có chiều dài
là 6,8m. Để bước lên được nền vuông này phài đi qua ba bậc thang đá. Kiểu
dáng kiến trúc Khuê Văn Các rất hài hòa và độc đáo. Tầng dưới là 4 trụ gạch
vuông, mỗi cạnh của trụ có chiều dài một mét và trên các mặt trụ đều có chạm trổ
các hoa văn rất tinh vi và sắc sảo. Tầng trên là kiến trúc gỗ sơn son thếp vàng
trừ mái lợp và những phần trang trí góc mái hoặc trên bờ nóc là bằng chất liệu
đất nung hoặc vôi cát có độ bền cao.
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng.
Chùa Một Cột (Chùa Diên Hựu) |
Khuê Văn Các và mùa thu giả tưởng |
Sàn gỗ có chừa 2 khoảng trống để bắc thang lên gác. Bốn cạnh sàn có diềm gỗ chạm trổ tinh vi. Bốn góc sàn làm lan can con tiện cũng bằng gỗ. Bốn mặt tường bịt ván gỗ, mỗi mặt đều làm một cửa tròn có những thanh gỗ chống tỏa ra bốn phía. Cửa và những thanh gỗ chống tượng trưng cho sao Khuê và những tia sáng của sao. Mé trên sát mái phía cửa ngoài vào treo một biển sơn son thiếp vàng 3 chữ 奎文閣 (Khuê văn các). Mỗi mặt tường gỗ đều chạm một đôi câu đối chữ Hán thiếp vàng.
Tháp Hòa Phong |
Tháp Hòa Phong nằm
ở bờ Đông Nam Hồ Hoàn Kiếm, đường Đinh Tiên Hoàng, quận Hoàn Kiếm, Hà
Nội. là một di tích cổ còn sót lại của Chùa Báo Ân, một ngôi chùa lớn từng
tồn tại ở Hà Nội
Năm 1888, Pháp đã
phá hủy Chùa Báo Ân để xây bưu điện Hà Nội. Chỉ còn Tháp Hòa
Phong phía sau chùa còn giữ lại, là dấu tích duy nhất của Chùa Báo Ân còn
sót lại tới nay.
Tháp cao 3 tầng, tầng
1 có 4 cửa nên còn gọi là tứ môn tháp, một kiến trúc thường thấy trong các công
trình của Phật giáo. Tầng một có 4 cửa vòm, tầng 2 có hình bát quái, dưới bát
quái trên 4 vòm là tên từng cửa: Báo Ân môn, Báo Nghĩa môn, Báo Đức môn và Báo
Phúc môn. Tầng 3, trên mặt đông- tây có ghi tên tháp là Hòa Phong nhưng 2 mặt bắc-
nam lại ghi Báo Thiên tháp.
Phở gánh, một món ăn nổi tiếng của người Hà Nội. |
Cửa Đại Hưng - cửa Nam thời Lý Trần. |
Thời nhà Lê, cửa Đại
Hưng được dùng làm lối ra vào chính của vua chúa, quan lại, các vị tân khoa,
nho sĩ, sứ giả và tất cả những ai có việc phải đến Hoàng thành.
Hiện nay còn những tên phố để lại dấu tích xưa: Đình Ngang, mơi dừng lại để xét giấy tờ, thẻ bài trước khi vào Hoàng Thành; Cấm Chỉ: dừng nơi khu cấm và một góc vườn hoa thời Pháp dựng tượng "Bà Đầm Xòe".
Vào năm 1782, Hải Thượng
Lãn Ông nhận xét: Người qua kẻ lại như mắc cửi, xe ngựa ồn ào.
“Áo mũ hào hoa phường phố đẹp
Đình đài lầu quán nối trời xa…”
Phố Hàng Tre |
Phố Hàng Tre nguyên đất
bờ sông khi chưa có con đê ngoài, đó là chỗ chứa gỗ cây và nơi dựng xưởng xẻ gỗ,
nơi nhốt bò và ngựa kéo xe gỗ. Đến đầu thế kỷ 20, thành phố mở mang và xây dựng
thêm thì tre gỗ cũng không còn bán ở đây nữa. Hàng Tre không phải là một phố
buôn bán, không có cửa hàng, nhà xây chủ yếu để ở nên không có nhà dãy nhiều
gian cốt để cho thuê.
Cảnh chơi đu ngày tết, trước Văn Miếu |
Đền Quán Thánh |
Cầu Thê Húc |
Cầu Thê Húc là
cây cầu ở hồ Hoàn Kiếm, Hà Nội, thủ đô của Việt Nam.
Nối từ Bờ Hồ ra hòn đảo nhỏ nơi có đền
Ngọc Sơn, cây cầu này màu đỏ son, làm bằng gỗ, có nhiều trụ liên tiếp. Cầu
được Thần Siêu Nguyễn Văn Siêu xây dựng vào năm 1865. Tên của cầu
có nghĩa là "nơi đậu ánh sáng Mặt Trời buổi sáng sớm" (棲旭).
Ngày xưa người ta gọi Hà Nội là Kẻ Chợ.
Trả lờiXóaHôm qua trong chuyến đi dã ngoại, cậu bạn của em - TS Hán Nôm Nguyễn Xuân Diện có diễn giải tường tận: Vì sao Kẻ Chợ là tên gọi dân gian kinh thành Thăng Long ngày xưa.
Hôm nay lại được đọc bài viết này. Tuyệt quá!
Cảm ơn anh!
“kẻ” là từ chỉ nơi chốn.
XóaLầm than như vậy Em à!
Kẻ là hàm ý không được coi trọng, vì dân thương gia, buôn bán không hẳn là những người có thứ bậc cao.
Bạn đã cho tôi những hình ảnh tuyệt vời nơi ấy.
Chúc Hà vui!
Hà Nội nguyên thủy đã đẹp, nhưng qua phục hồi lại thì nhìn càng đẹp hơn.
Trả lờiXóaNhìn xưa để nhớ, trưa nay các Bạn lại ở 1 Láng Hạ.
XóaMến yêu những xưa!
Trưa 2/1 M sẽ ở HN với các bạn đó VP ơi!
XóaCác cháu về HD với ông bà, cả nhà sẽ đi Côn Sơn và QN.
XóaChúc bạn năm mới an khang, thành đạt!
Hanoi xưa nhìn mến yêu quá !!nơi tôi sinh ra đó !hồi đó hanoi thanh lịch lắm lắm .Không như bây giờ đâu .Cám ơn bạn đã đăng những bức ảnh tuyệt vời ,làm tôi nhớ hanoi xưa thanh lịch quá đi thôi !
Trả lờiXóaVâng. Hanoi xưa của chúng mình.
XóaXưa, trong tôi, Hà Nội nhỏ bé, khiêm nhường, giản đơn. Mỗi lần nhớ, lòng cứ như có làn gió nhẹ thoảng qua lúc chuyển mùa khiến giật mình se lạnh.
Một bài viết rất hay về Hà Nội.xin cảm ơn tác giả rất nhiều!!!
Trả lờiXóa