Về đời vua Đại Tông nhà Đường
(763-780) ở huyện Trường An, tỉnh Thiểm Tây có nhà nho tên Tiết Trịnh, làm quan
ở Thành Đô, Tứ Xuyên, sinh một đứa con gái tên Tiết Đào. Nàng học hành
giỏi, tư chất thông minh, vừa lên sáu đã biết làm thơ. Nhưng ý thơ rất lẳng lơ.
Tranh vẽ Tiết Đào trong Minh cừu anh hội - Liệt nữ truyện đồ, Tiết đào hí tiên (明仇英绘 "列女传图—薛涛戏笺") |
耸干入云中
Đình trừ nhất cổ đồng,
Tung cán nhập vân trung.
Nàng Tiết Đào liền ngâm tiếp.
Nàng Tiết Đào liền ngâm tiếp.
Chi nghinh nam bắc điểu
Diệp tống vãng lai phong.
Nghĩa.
Ngô đồng đứng trước sân,
Thân cây cao vút mây.
Thân cây cao vút mây.
Đàn chim cành nam bắc
Đưa lá gió sớm chiều.
Nghe con gái đọc lời thơ lả lơi, Tiết Trịnh thở dài nghĩ.
- Nghiệp chướng đã vận vào mình rồi. Cứ như lời thơ này con gái
ta về sau ắt sẽ là một đứa lãng mạn, bướm ong.
Hai năm sau, thân phụ Tiết Đào bạo bệnh qua đời. Vì làm quan
thanh liêm nên sau khi chết, đời sống họ Tiết rất chật vật. Tiết Đào
phải xin vào phường ca kỹ, ngày ngày đàn hát ngâm thơ đón kẻ tao nhân mặc
khách, lấy tiền nuôi mẹ già.
Ở chốn ca lâu, mang tấm thân ngà ngọc, tài học uyên thâm ra để mua vui cho
những kẻ có tiền, nàng Tiết Đào buồn rầu, thường sáng tác những bài ca phổ vào nhạc
điệu dạy đoàn ca nữ múa hát hay chính nàng nhịp phách ca ngâm.
Những bài ca của nàng rất tuyệt tác, được truyền tụng trong
phường, nên được nhiều người trọng vọng, thường gọi nàng là Tiết tú tài. Những
văn nhân tài tử bốn phương nghe danh đổ đến để cùng nàng đề thơ xướng họa, mong
được nàng Tiết lưu ý đến họ. Nhưng mắt xanh chẳng lọt vào ai, nàng Tiết vẫn làm
nghề ca kỹ.
Nhờ danh tiếng, Tiết Đào kiếm được chút vốn liếng bèn dựng một
ngôi nhà bên cầu Vạn Lý. Nàng lại chế ra một thứ giấy ngũ sắc có vẽ cây tùng,
cây bách, cây liễu, hoa sen rất đẹp, đặt tên là "Hoa tiên tùng
giang". Giấy này dùng để viết thơ do Tiết Đào làm, nên về sau gọi là Hoa
tiên Tiết Đào.
Tượng Tiết Đào ở Thành Đô |
Quan Tư Mã Thiểm Châu là Vương Kiến mến tài nàng Tiết nên thân đến cầu Vạn Lý thăm, và tặng nàng một bài thơ.
Vạn Lý kiều biên nữ Hiệu Thư
Tỳ bà hoa hạ bế môn cư.
Tảo mỵ tài tử tri đa thiểu,
Quản lĩnh đông phong tổng bất như.
Dịch.
Nàng Hiệu Thư Lang ở bến sông,
Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông.
Tỳ bà tươi thắm rũ bên sông.
Ngày xuân cửa đóng hoa ngăn gió.
Bao kẻ tôi mày đã uổng công.
(Bản dịch của Bùi Khánh Đản)
Giếng Tiết Đào (薛涛井) ở Thành Đô |
Nhưng rồi vì công vụ, Nguyên Chẩn phải trở lại Trường An phục
mệnh. Kẻ lên ngựa chẳng yên lòng dứt áo, người ở lại ngậm ngùi nhỏ lệ buồn
thương.
Rồi một điều chẳng may hơn nữa, tướng trấn thủ Tây Xuyên là Lưu
Tích tạo phản, đốt phá Thành Đô. Nguyên Chẩn nóng lòng sốt ruột, mướn người đi
vào đất Thục tìm nàng Tiết Đào. Nhưng lần nào cũng hoàn toàn thất vọng vì đường
bị nghẽn, làm tin tức vắng bặt.
Nguyên Chẩn buồn bã thương nhớ giai nhân. Tuy quan san cách trở,
thời gian qua mau nhưng mối tình kỳ ngộ sâu xa đối với Tiết Đào vẫn canh cánh
bên lòng.
Riêng về nàng Tiết Đào, từ ngày chia tay cùng ý trung nhân thì
vẫn mỏi mắt trông chờ tin tức nhưng vẫn bặt tin nhạn cá. Ngày tháng trôi qua,
tuổi càng chồng chất, nghĩ buồn thương cho thân phận xấu số vô duyên, nên lui
về ở đầm Bạch Hoa, mặc cà sa, ăn chay niệm Phật.
Năm Thái Hòa thứ 5 (811) đời vua Văn Tông, nàng Tiết Đào bị bạo
bịnh mất.
Trong "Đoạn trường tân thanh" của cụ Nguyễn Du, đoạn
diễn tả cảnh lầu xanh của mụ Tú Bà, có câu.
Biết bao bướm lả, ong lơi,
Cuộc say đầy tháng, trận cười suốt đêm.
Dập dìu lá gió cành chim,
Sớm đưa Tống Ngọc, tối tìm Tràng Thanh.
"Lá gió cành chim" xuất xứ ở bài thơ của nàng Tiết Đàọ
Và, bài thơ đó chính là một điềm chỉ về vận mạng của nàng vậy.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét