![]() |
| Tranh “Thiền” của họa sĩ Văn Ngọc |
ĐẠO THIỀN
LÃO -Tử nói: "Đạo khả đạo phi thường đạo ".
° ° °
Theo Áo-nghĩa-thư Upanishad, Brahman (Đại-ngã) là cái ngã vũ trụ đại-đồng; Âtman (Tiểu-ngã) là cái ngã cá nhân phức biệt, nhưng sự phức biệt đó chỉ là giả tưởng vì bản chất cả hai đồng tính với nhau. Câu định nghĩa kỳ diệu về thực tại đồng nhất Braham - Âtman như sau: "Cái ngã ở trong lòng ta nhỏ hơn hạt gạo, nhỏ hơn hạt mì, nhỏ hơn hạt cải, nhỏ hơn hạt kê. Cũng cái ngã ở trong lòng ta, lớn hơn trái đất, lớn hơn bầu khí quyển, lớn hơn cả bầu trời, lớn hơn tất cả mọi thế gian." 1 Vì vậy trong Upanishad, Brahman và Âtman thường được dùng lẫn lộn, không phân biệt...
Tóm lại Brahman là một thực tại vô hạn hằng cửu, vừa ở ngoài vừa ở trong tất cả những thân xác hữu hạn, là nguồn phát sinh ra vũ trụ, thần thánh và muôn vật trong vũ trụ.
Đạo-sĩ Varuna đáp lời con là chàng Bhrigu hỏi về Brahman: "Cái do đấy mọi vật sinh ra, cái nhờ đó mọi vật sống được, và cái ở đó mọi vật trở về sau khi chết. Con hãy tự tìm hiểu lấy, cái đó là Brahman."
Trong Taittirâya Upanishad, Tuyệt-đối Brahman được quan niệm như một cái tổ chim có ba con chim nhô đầu ra là Virâj, Hiranya-garbha và Ishvara.
Khi Tuyệt-đối được quan niệm là độc-lập tự-hữu thì gọi là Virâj; khi được coi là tinh thần của vũ-trụ thì gọi là Hiranya-garbha; khi được coi là Thượng-đế hữu-ngã thì gọi là Ishvara. Ishvara trở thành Brahmâ (thần Sáng-tao), Vishnu (thần Bảo-tồn) và Shiva (thần Hủy-diệt) là ba chức phận có liên hệ nhân quả với nhau. Thực-tại chẳng phải là tổng số của tất cả những ý niệm trên đây mà là sự đồng nhất không thể diễn tả được bao gồm tất cả những ý niệm dị biệt kia.
Tuy nhiên càng cố gắng định nghĩa và định tính Brahman bao nhiêu ta càng cảm thấy bất mãn bấy nhiêu. Càng mô tả càng thấy mọi sự mô tả đều thiếu sót. Rốt cuộc người ta luôn luôn phải tự nhắc nhủ là Brahman không thể mô tả được mà phải thực hiện. Trong Mândûkya Upanisad có nói tới bốn trạng thái thực hiện Brahman minh bạch và chân xác là: thức, mộng, ngủ-say-không-mộng và trực giác thuần túy. Trong trạng thái thức, tự ngã thể hiện qua những đối tượng bên ngoài của giác quan; trong trạng thái mộng, tự ngã thể hiện trong một thế giới ảnh tượng và có sự thực nghiệm tế nhị; trong trạng thái ngủ-say-không-mộng, tự ngã trở nên thuần nhất, không phân biệt chủ thể và khách thể, tinh thần vượt ra khỏi các ảnh tượng ý niệm và dục vọng; nhưng lại e rằng có thể bị ngộ nhận là một trạng thái vô thức tuyệt đối, nên mới nói thêm trạng thái thứ tư, trạng thái trực giác thuần túy hoàn toàn vượt ra khỏi thế giới ảnh tượng và ý niệm lưỡng nguyên, thực sự đồng nhất chủ thể với khách thể, tiểu-ngã với đại-ngã.
Trong Chândogya Upanisad có thuật lại dụ ngôn đi tìm chân-ngã Âtman giữa hai đại diện của Thần và Quỷ như sau:
Một hôm đấng Thượng-đế Prajâpati nói: "Chân-ngã Âtman không bị tội lỗi làm nhơ-nhuốc, không bị tổn hại vì tuổi già, đau khổ hay sự chết; không bao giờ đói, không bao giờ khát. Chân-ngã không ham muốn gì vì luôn luôn đầy đủ. Người nào nhận biết được Âtman sẽ là chúa tể của tất cả mọi thế gian, trở nên bất tử và đạt được hạnh phúc viên mãn."
Các thần linh và loài quỷ đều nghe rõ lời nói của đấng Thượng-đế Prajâpati, các thần linh chon Indra, còn loài quỷ chọn Virocana để gởi đến làm đệ tử Ngài.
Sau một thời gian tu tập là ba mươi hai năm, cả hai được Prajâpati gọi đến và bảo rằng: "Cái ngã mà các ngươi thấy ở trong tròng con mắt là Âtman. Đó cũng là cái ngã mà các ngươi thấy ở dưới nước hay trong tấm gương soi. Hãy đi xem cái ngã ấy rồi trở lại nói cho ta nghe."
Mấy hôm sau Indra và Virocana trở lại nói: "Thưa Ngài, chúng tôi đã thấy cái ngã của chúng tôi. Chúng tôi nhận thấy ở trong gương đầy đủ hình ảnh của thân xác suốt từ đầu tới dưới chân."
Prajâpati dạy tiếp: "Nay các ngươi hãy cạo đầu, thay đổi quần áo mới rồi lại đi soi gương nữa xem."
Hôm sau, cả hai trở lại mừng rỡ khoe rằng: "Chúng tôi thấy cái ngã ở trong gương rất tươi đẹp và sạch-sẽ". Nói xong, cả hai hoan hỉ ra đi.
Quỷ vương Virocana trở về dạy lại cho đồng loại cái nhận thức sai lầm ấy về chân ngã. Về phần Indra, khi đi được một quãng đường, bỗng suy nghĩ lại và nhận thấy mình đã vội lầm. Thật thế, nếu hình hài thay đổi mà cái ngã ở trong cũng thay đổi theo thì khi hình hài chết đi, cái ngã ấy tất cũng không còn. Như vậy, cái ngã phản chiếu ở trong gương hay dưới nước đâu phải là chân ngã bất diệt!
Indra bèn trở lại với Prajâpati, giải bày thắc mắc của mình và xin được học thêm.
Prajâpati bắt Indra tu tập thêm ba mươi hai năm nữa rồi mới dạy tiếp: "Cái ngã hạnh phúc trong giấc mộng, đấy là chân ngã". Indra sung sướng ra về, nhưng đi được nửa đường lại bỗng thấy ngờ vực ý nghĩa của lời dạy. Thực thế, cái ngã trong giấc mộng không phải bao giờ cũng hạnh phúc, mà có nhiều khi đau đớn cả về thể chất lẫn tinh thần. Như vậy cái ngã ở trong mộng không thể nào là chân ngã Âtman.
Một lần nữa, Indra trở lại giải bày thắc mắc ấy với Prajâpati. Cũng như lần trước, Indra phải tu thêm ba mươi hai năm nữa, Prajâpati mới dạy tiếp: "Cái ngã bản nhiên thanh tịnh trong giấc ngủ-say-không-mộng, đó chính là chân ngã."
Indra suy nghĩ và tin chắc lần này đã đạt được chân lý nên vui vẻ ra về. Khi gần tới nơi bỗng lại thấy lóe lên một niềm ngờ vực nữa: "Trong giấc ngủ-say-không-mộng, cái ngã không tự biết mình. Như vậy, cái ngã vô thức ấy không thể nào là Âtman hoàn toàn sáng suốt được.
Không nản chí, Indra quay trở lại tìm Prajâpati. Lần này đấng Thượng-Đế chỉ bắt Indra tu thêm năm năm nữa. Sau đó Ngài dạy rằng: "Hỡi Indra, ngươi đã hiểu biết được chân ngã nhờ sự thành tâm bền chí và lòng khao khát tìm sự thật. Thân xác này chỉ là vật chất vô thường và là nơi trú ngụ tạm thời của chân ngã vô hình, bất tử. Chừng nào chân ngã còn ở trong thân xác thì cũng có vẻ sinh hoạt theo xấu, tốt, sướng, khổ. Nhưng thật ra nó ở trên hết mọi hoàn cạnh đối nghịch. Cũng như gió mây, sấm chớp vốn vô hình nhưng cũng có khi xuất hiện thành hình tượng trên nền trời rồi lại tan biến đi, chân ngã vô hình cũng trú ngụ trong những thân xác vật chất hữu hạn. Khi thân xác chết, nó lại trở về hợp nhất với đại ngã vô cùng."
Dụ ngôn trên đây trình bày cho ta thấy các giai đoạn thực hiện chân ngã Âtman, tương tự với bốn giai đoạn thực hiện Brahman đã được mô tả trong Mândâkya Upanishad: thức, mộng, ngủ-say-không-mộng, và trực giác thực hiện chân như đồng nhất hóa Âtman-Brahman.
Dụ ngôn trên cũng giúp ta phân biệt thần với quỷ, phân biệt chẳng phải do hình thức bên ngoài mà do giá trị tâm linh nội tại. Quỷ vương Viracana không thực hiện được chân ngã chỉ vì đã tự mãn với tri thức về cái ngã hiện tượng, trong khi chúa tể các vị thần là Indra thực hiện được chân ngã vì thành tâm và bền chí trong việc học hỏi và thực nghiệm tâm linh. Ôi, con đường đi tìm chân lý quả thật chật hẹp và bén nhọn như lưỡi dao cạo rất khó vượt qua. 2
JOSHU tới thỉnh giáo-sư phụ là Thiền-sư Nansen:
"Thưa sư phụ, thế nào là Đạo, thứ đạo chân thực?"
"Thứ đạo thường hàng ngày là đạo chân thực." Thiền-sư đáp.
"Vậy con phải học thế nào để đạt đạo?"
"Ngươi càng học càng xa đạo!"
"Nếu con không học đạo làm sao con đạt đạo cho được?"
"Đạo không thuộc cái mình trông thấy hoặc cái mình không trông thấy. Đạo cũng không thuộc cái mình biết hay không biết. Đừng đi kiếm Đạo, đừng tìm hiểu Đạo, đừng khoác lên Đạo những nhãn hiệu ngôn từ. Muốn chính mình thể nhập vào Đạo hãy mở rộng mình như đất, trời."
° ° °
Một vị ẩn sĩ sống trên núi cao, có lần có một vị tăng tới xin tiên sinh chỉ giáo cho thế nào là Đạo.
Ẩn sĩ đáp: "Núi này mới đẹp làm sao!"
Nhà sư: "Thưa tiên sinh, tôi không hỏi người về núi, mà hỏi về Đạo"
Vị ẩn sĩ: "Khi thầy chưa vượt được núi thì làm sao thầy đạt được Đạo?"
° ° °
Một lần có đệ tử tới thỉnh giáo Tuệ-Trung Thượng-Sĩ 3: Đạo là gì?
Ngài đáp:
"Đạo ở chỗ không hỏi. Hỏi không phải là đạo."
Người đệ tử lại hỏi:
"Ngài Cổ-Đức bảo vô tâm là đạo, thưa như vậy có phải không?"
Ngài đáp:
"Vô tâm không phải là đạo. Vốn không có đạo, mà cũng chẳng có tâm."
° ° °
" Thưa Thiền-sư, khi đã có cái nhìn thuận thành không còn phân biệt ta với không ta nữa thì liệu có thấy Đạo hiển hiện không?"
"Khi đã không còn ta và không ta thì còn ai là kẻ muốn nhìn đạo nữa?"
° ° °
Phải đẩy vạn sự vào hư-không. Nhưng hư-không cũng còn là khái niệm. Cho nên cuối cùng chính khái niệm hư-không cũng phải được đập vỡ nốt để giải phóng cho thực tại bừng nở chan hòa. Cũng như khi hỏi: "Nếu có người đã ngồi chót-vót trên một cột cao trăm bộ, làm thế nào để có thể vượt xa hơn nữa bây giờ?" Một thiền-sư đã đáp: "Người đó phải đạt tới giác ngộ để có thể cùng một lúc đứng ở cả bốn phương trời".
Tới đây chúng ta đã chạm trán với Hư-vô rồi. Vậy xin hãy bước sang Hư-vô!
--------------------------------| 1 | Trong bài "Trả lời Pháp Dung Hỏi Về Sắc Không Phàm Thánh" của Khánh-Hỷ thiền-sư đời Lý có câu: Kiền khôn tận thị mao đầu thượng, Nhật nguyệt bao hàm giới tử trung. Ngô-Tất-Tố phiên dịch: Kiền khôn rút lại đầu lông síu, Nhật nguyệt nằm quanh hạt cải mòng. |
| 2 | Xin đọc: Lê-Xuân-Khoa, Nhập-Môn Triết-Học Ấn-Độ, Bộ Quốc-Gia Giáo-Dục xuất bản, 1965. (Chương thứ tư và thứ năm: Upanishad). |
| 3 | Ngài tên thực là Trần-Quốc-Tảng, con đức Hưng-Đạo-Vương, anh ruột Khâm-Từ hoàng-hậu đã từng có công đánh giặc Nguyên và được phong tước Hưng-Nhượng-Vương. |


Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét