Thứ Năm, 23 tháng 10, 2025

AI HAY KHÔNG CÓ CÓ KHÔNG LÀ GÌ?

 

AI HAY KHÔNG CÓ CÓ KHÔNG LÀ GÌ?

Có phải Thiền hay đề cập đến hư vô, đến trống rỗng, đến cái không?

Thiền-sư Kokushi gọi môn đệ: "Oshin!"

Oshin thưa: "Dạ"

Kokushi gọi: "Oshin"

Oshin thưa: "Dạ"

Kokushi gọi nữa: "Oshin"

Oshin thưa nữa: "Dạ"

Kokushi tiên sinh nói: "Ta xin lỗi đã gọi đi gọi lại tên ngươi như vậy. Nhưng thực ra chính ngươi phải xin lỗi ta mới phải."

Phải chăng Oshin phải xin lỗi thầy vì ngã chấp?

° ° °

DỮ CHƯ KỲ TÚC GIẢNG CỨU THIỀN CHỈ

Bát nhã chân vô tông, 

Nhân không, ngã diệc không,

Quá, hiện, vị lai Phật,

Pháp tính bản tương đồng.

Lý-Thái-Tôn

CÙNG CÁC GIÀ LÃO BÀN VỀ Ý NGHĨA ĐẠO THIỀN

Đạo Phật vốn không giòng,

Người không, mình cũng không,  

Trước, rầy, sau các Phật,  

Pháp tính vẫn cùng chung.  

Ngô-Tất-Tố dịch

° ° °

Đức Bodhidharma lựa chọn trong đám đệ tử kẻ xứng đáng nhất trao y bát cho. Từ đấy các vị trưởng môn đều theo tập tục trao y bát đó. Gunin là vị trưởng môn thứ năm, tuyên bố sẽ trao y bát cho môn đệ nào viết được bài kệ hàm ngụ đầy đủ ý nghĩa của Thiền phái.

Thiền-sinh trưởng-tràng bèn ghi lên giấy bài kệ như sau:

Thân ta, cây bồ-đề,  

Hồn ta như gương kia,  

Tu học giữ gương sáng,  

Kẻo bụi phủ còn chi.  

Không môn đệ nào dám hạ bút thi đấu với Thiền-sinh trưởng-tràng đó. Mãi tới hoàng-hôn, Yeno, một thiền-sinh đàn em khác, mới làm hết công việc và từ bếp lên. Qua hành lang, Yeno dừng lại đọc bài kệ treo bên tường, rồi nguệch ngoạc viết một bài ngay bên dưới:

Bồ-Đề vốn chẳng có,  

Gương sáng cũng hư vô,

Vạn pháp đều như rứa,  

Hỏi bụi phủ nơi mô?  

Tới khuya, sư phụ gọi Yeno tới phòng, nói:

"Ta đã đọc bài kệ của ngươi, nay ta chọn ngươi làm kẻ kế vị. Hãy nhận tấm áo và chiếc bát này. Nhưng các sư huynh ngươi tất nổi lòng ghen tị, vậy ngươi hãy dời Thiền viện ngay đêm nay trong khi họ còn ngủ để tránh mọi phiền muộn."

Hôm sau, vị sư huynh trưởng-tràng hay tin bèn tức khắc đuổi theo. Tới trưa thì bắt gặp Yeno, vì sự huynh xông vào định giằng lấy y bát. Yeno đặt những thứ đó xuống đường, nói:

"Những thứ này chẳng qua chỉ có giá trị tượng trưng; nếu quả sư huynh quá chấp vào những thứ đó, xin cứ tự tiện cầm lấy."

Vị sư huynh hăm hở cúi xuống nhặc liền, nhưng cả áo lẫn bát đều nặng tựa núi, không sao nhúc nhích nói. Sau cùng vị sư huynh đành nói:

"Xin đạo hữu thứ lỗi cho, giờ đây tôi chỉ muốn lĩnh lời chỉ giáo vàng ngọc của đạo hữu, chứ không còn chấp vào những vật như thế nữa."

Yeno nói:

"Vậy hãy xin ngừng nghĩ vật này của ta, vật kia không phải của ta. Xin cho hay hiện sư huynh ở đâu? Và cho biết thêm khuôn mặt sư huynh ra sao khi chính các vị phụ mẫu của sư huynh cũng chưa cất tiếng chào đời?"

° ° °

ĐỐI THÁI TÔN THAM VẤN THIỀN CHỈ

Tịch tịch Lăng già nguyệt,  

Không không độ hải chu,

Tri không, không giác hữu,  

Tam muội nhiệm thông chu.  

Huệ-Minh Thiền-sư

ĐÁP LỜI THÁI-TÔN HỎI VỀ Ý NGHĨA ĐẠO THIỀN

Non Già vừng nguyệt tĩnh,

Biển Thẳm chiếc thuyền không,  

Hiểu thấu không và có,  

Rừng Thiền mặc ruổi rong.  

Ngô-Tất-Tố dịch

° ° °

Ni-cô Chiyono tu thiền đã bao năm rồi mà vẫn chưa đạt được giác ngộ. Vào một đêm trăng kia, ni-cô xách một thùng nước đầy, lặng nhìn bóng trăng in hình trong đó. Chợt đai tre phựt đứt, thùng bung ra từng mảnh, nước ào thoát hết, bóng trăng phản chiếu cũng mất theo. Ni-cô Chiyono chợt giác ngộ lẽ không có có không bèn viết nên bài kệ rằng:

Xách nước qua đây,

Đai tre ải đứt,

Thùng vỡ đáy tung,

Nước ào ra hết.

° ° °

Ý thức rằng mình trống rỗng, mình đâu còn trống rỗng nữa! Trống rỗng khi đó đã biến thành một khái niệm ngự trị trong tâm trí mình rồi!

Joshu tiên sinh mãi tới năm sáu mươi tuổi mới học Thiền. Người chứng ngộ vào năm tám mươi tuổi. Người ta kể rằng người còn dạy các môn đệ tiếp tục bốn mươi năm sau đó.

Một lần có môn đệ tới hỏi: "Sư phụ dạy phải phủi rũ cho tâm trí thật sạch rỗng, giờ đây tâm đệ tử đã trống rỗng rồi, xin sư phụ chỉ giáo đệ tử phải làm gì tiếp?"

Tiên sinh đáp: "Hãy quẳng hết ra ngoài!"

"Thưa sư phụ, trong tâm trí đệ tử có còn gì nữa đâu mà sư phụ truyền phải quẳng hết ra ngoài?"

"Nếu ngươi không quẳng được thì khuân nó ra, đẩy nó ra. Chứ đừng đứng trước ta với không có gì trong tâm trí."

° ° °

Subhuti, một đệ tử của đức Phật đã đạt được giác ngộ về hư vô, nói chân như và vô thường hòa hợp thành cái Một-bất-khả-phân. Ngồi tham thiền dưới gốc cây trong trạng thái giác ngộ đó, Subhuti thấy hoa từ trên cây lả tả rơi xuống quanh mình cùng với tiếng nói vang vọng đâu đây: "Chúng ta ngợi khen thái độ hùng biện của ngươi và hư vô."

Subhuti đáp thầm: "Nhưng nào con có nói gì về hư vô đâu?"

Tiếng nói vang vọng: "Ngươi không nói về hư vô, chúng ta cũng không nghe thấy nói về hư vô. Đó mới thật là hư vô!"

° ° °

THỊ TỊCH

Diệu tính hư vô bất khả phan,  

Hư vô tâm ngộ đắc hà nan,  

Ngọc phần sơn thượng sắc thường nhuận,  

Liên phát lô trung thấp vị can

Ngộ-Ấn Thiền-sư

THỊ TỊCH

Hư vô tính ấy khó vịn noi,  

Riêng bụng hư vô hiểu được thôi,  

Trên núi ngọc thiêu, màu vẫn nhuận,  

Trong lò sen nở, sắc thường tươi.  

Ngô-Tất-Tố dịch

° ° °


Hakuin Ekaku (1686-1769), Vỗ tay bằng một bàn tay

Toyo mới mười hai tuổi. Nhưng đã là Thiền sinh tại danh tự Kennin. Toyo cũng muốn như các đạo hữu khác được sư phụ ban cho một công án để ngày đêm suy ngẫm. Vào một buổi chiều kia, đợi đúng lúc thuận tiện nhất, chú tới phòng sư phụ khéo gõ tiếng cồng báo hiệu sự hiện diện của mình, cúi đầu chào sư phụ, rồi khoanh tay yên lặng kính cẩn đợi.

Giây lâu sư phụ từ từ ngẩng đầu, cất giọng:

"Toyo, hãy cho ta nghe tiếng vỗ của hai bàn tay."

Toyo vỗ hai tay.

Thiền sư gật đầu:

"Được lắm, giờ đây ngươi hãy cho ta nghe tiếng vỗ của một bàn tay."

Toyo yên lặng. Sau cùng chú cúi chào thầy, xin lui về phòng suy nghĩ.

Tối hôm sau, chú tới, dùng lòng một bàn tay khéo gõ lên tiếng cồng. Vị sư phụ nói: "Không phải vậy. Tối hôm sau nữa, Toyo mới bắt chước tiếng con dế gãi chân. Vị sư phụ nói: "Vẫn không phải".

Mười đêm liền, Toyo tìm ra mười thứ tiếng khác nhau đều bị phủ nhận. Chú thôi không tới trình diện sư phụ nữa. Suốt một năm ròng chú nghĩ về đủ các thứ tiếng và loại tất cả những thứ tiếng đó. Sau cùng chú bừng giác ngộ.

Chú kính cẩn tới trình diện thầy. Lần này chú không gõ cồng báo hiệu, chú lẳng lặng tới ngồi và cúi đầu:

"Thưa sư phụ, đệ tử đã nghe được ba-động vô-thanh!"

° ° °

Lấy vồ đập chuông. Tiếng kêu tự vồ hay tiếng kêu tự chuông?

Tiếng kêu thoát ra ngoài cả vồ lẫn chuông!

Thiền-sinh Doko tới gặp một Thiền-sư, nói:

"Đệ tử đương đi tìm chân lý. Xin sư phụ chỉ cho đệ tử cách rèn luyện tâm trí như thế nào để đạt được chân lý."

Thiền-sư đáp:

"Làm gì có tâm trí, vì vậy ngươi không thể tính chuyện rèn luyện nó. Làm gì có chân lý, vì vậy ngươi không thể đạt được nó."

"Nếu không có tâm trí để rèn, không có chân lý để noi, thì làm sao quanh sư phụ hàng ngày vẫn có đám thiền-sinh quây quần kia để nghe, và học hỏi, và rèn luyện về Thiền?"

"Nhưng ta làm gì có một tấc đất ở đây mà bảo có chỗ cho các Thiền-sinh tu tập? Ta làm gì có lưỡi mà bảo hàng ngày chỉ dạy cho lũ Thiền-sinh?"

"Trời ơi, sao sư phụ lại có thể nói sai đến như thế được?"

"Ta đã không có lưỡi để nói thì làm sao ta có thể nói sai với ngươi được?"

Tới đây, Doko xá lạy Thiền-sư và nói:

"Đệ tử không theo nổi sư phu. Đệ tử không hiểu nổi sư phụ."

Thiền-sư đáp:

"Chính ta cũng còn không hiểu nổi ta cơ mà."

° ° °

Một nụ cười ghi nhận cho ý thức bất hạnh nào ngưng đọng về hư vô:

Yamaoka, thuở còn là một Thiền-sinh trẻ tuổi huênh hoang, lần đầu tới thăm Thiền-sư Dokuon, Yamaoka nói thao thao:

"Làm gì có tâm trí, làm gì có thân xác, làm gì có thiện, làm gì có ác. Thầy chẳng có, trò cũng không. Chẳng có cái cho đi, cũng chẳng có cái nhận về. Có cái gì trên đời này mà là thật đâu. Cái Chính thật là Hư Vô."

Dokuon miệng ngậm ống điếu, bình thản ngồi nghe, không thốt nửa lời. Chợt tiên sinh vớ lấy chiếc gậy và bất thần giáng một cái thật mạnh lên người Yamaoka. Yamaoka giật nảy mình, vùng đứng dậy, giận dữ.

Dokuon tiên sinh điềm tĩnh cất lời:

"Nếu quả thực chẳng có gì trên đời này là thực và tất cả là hư vô, thì sự giận dữ của ngươi từ đâu đến? Hãy suy nghĩ về điều đó!"

Một dụ ngôn xưa kể chuyện một Thiền-sinh khi thấy thầy giơ ngón tay trỏ lên thì cũng bắt chước giơ theo như vậy. Lâu dần thành thói quen. Một hôm thầy nắm lấy ngón tay trỏ đó chặt nghiến, vứt đi. Thiền-sinh la hét vang trời. Thầy quát "Im". Rồi giơ ngón trỏ lên. Thiền-sinh bất giác tuân theo thói quen cũng giơ ngón trỏ của mình lên. Nhưng đến khi nhìn xuống thì...

Thiền-sinh bỗng cúi đầu trước sư phụ, giác ngộ.

Đến đây thực chẳng còn gì êm đẹp hơn, trọn vẹn hơn, tròn trịa hơn là nhắc tới bốn câu lục bát (thơ của ngài Từ Đạo Hạnh? Phan Kế Bính dịch?).

Có thì có tự mảy may

Không thì cả thế gian này cũng không 

Thử xem bóng nguyệt dòng sông

Ai hay không có, có không là gì?

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét