Trên là Đoái (chằm), dưới là Khảm (nước)
Lên cao mãi thì có lúc sẽ té mà khốn, cho nên sau quẻ Thăng
tới quẻ Khốn.
Thoán Từ
困:亨,貞,大人吉,無咎。有言不信。
Khốn: Hanh, Trinh, đại nhân cát, vô cữu. Hữu ngôn bất thân
(chữ 信 ở đây dùng như chữ 伸)[82].
Dịch: Khốn:
Hanh thông. Chính đính như bậc đại nhân (có đức) thì tốt, không lỗi. Dù nói gì
cũng không bày tỏ được lòng mình (không ai nghe mình).
Giảng: Quẻ Khảm
là dương ở cuối, quẻ Đoái là âm[83] ở trên, dương
cương (quân tử) bị âm nhu (tiểu nhân) che lấp, cho nên gọi là Khốn.
Lại thêm: nội quái một hào dương bị kẹt giữa hai hào âm;
ngoại quái hai hào dương ở dưới một hào âm, cùng là cái tượng quân tử bị tiểu
nhân làm khốn.
Một cách giảng nữa: Chằm (Đoái) ở trên mà Khảm (nước) ở
dưới, nước trong chằm chảy xuống dưới, tiết mất hết[84], chằm sẽ khô, thành ra cái tượng Khốn.
Tuy nhiên, Khảm là hiểm, Đoái là hòa duyệt, vậy tuy gặp hiểm
mà vẫn vui vẻ hanh thông. Hanh thông chỉ là đối với bậc đại nhân, có đức cương,
trung, giữ đạo chính thôi; vì hạng người đó càng gặp cảnh khốn, tài càng được
luyện; đức càng được trau, chí càng vững dù có phải hi sinh tính mệnh để thỏa
chí nguyện cũng không ngại, thân tuy khốn mà vẫn vui vẻ, đạo của họ vẫn hanh
thông, cho nên Hào Từ cho là tốt,
không có lỗi.
vào thời Khốn, chỉ có cường quyền,
không có công lí, nên đừng nói gì cả, càng nói chỉ càng thêm vạ miệng, không
biện bạch được gì đâu. Đây là lời khuyên chung, còn bậc quân tử có thể “sát
thân dĩ thành nhân” thì lại khác.
Hào Từ
1
初六:臀困于株木,入于幽谷,三歲不覿。
Sơ lục: Đồn khốn vu châu mộc, nhập vu u cốc, tam tuế bất
dịch.
Dịch: Hào 1,
âm: Bàn tọa bị khốn ở gốc cây, lại sụp vào trong hang tối, ba năm không thấy
ai.
Giảng: Hào này
ở đầu quẻ Khốn, âm nhu, mê muội; hào 3, dương ứng với nó, bất trung bất chính
không giúp gì được nó; như một người ngồi trên cây trụi trồi gốc ra (ý nói ở
hào đầu, thấp nhất), rồi lại sụp vào hang tối (hào này âm, nhu mê muội) mà
không thấy ai lại cứu (ai đây trỏ hào 4).
2
九二:困于酒食,朱紱方來。利用享祀,征凶,無咎。
Cửu nhị: Khốn vu tửu thực, chu phất phương[85] lai.
Lợi dụng hưởng tự, chinh hung, vô cữu.
Dịch: Hào 2,
dương: Khốn về rượu, thịt (ăn uống no nê), cát “phất” đỏ tốt, nên đem lòng tín
thành mà cúng tế; tiến hành thì xấu, giữ đạo thì không lỗi.
Giảng: Hào này
dương cương, đắc trung, đáng lẽ tốt, nhưng ở thời Khốn thì cũng vẫn bị khốn vì
ăn uống, do ơn vua lộc nước; được ở trên ứng hợp lại nhờ giúp (ở đây tượng
trưng bằng việc đem cái “phất” đỏ, một bộ phận lễ phục để che đầu gối); nên đem
lòng tinh thành để tế thần linh mà xử sự trong thời khốn này; nếu cứ tiến hành
thì không gặp thời xấu; giữ đạo thì không có lỗi.
3
六三:困于石,據于蒺蔾,入于其宮,不見其妻,凶。
Lục tam: Khốn vu thạch, cứ vu tật lê, nhập vu kì cung, bất
kiến kì thê, hung.
Dịch: Hào 3,
âm: Như người bị khốn vì đá, mà lại dựa vào cây tật lê, vô nhà thì không thấy
vợ, xấu.
Giảng: Hào này
bất trung, bất chính, âm nhu ở vào thời khốn, ở trên cùng nội quái là Khảm, tức
ở cảnh cực hiểm, tấn thoái đều không được nên ví với người bị đá dằn ở trên
(tức hào 4) mà lại dựa vào một loại cây có gai (tật lê – tức hào 2), vô nhà lại
không thấy vợ (tức hào trên cùng cũng âm nhu, không giúp 3 được gì). Rất xấu.
Theo Hệ Từ truyện
Chương V, Khổng Tử thích nghĩa thêm như sau: “Không phải chỗ đáng bị khốn mà
mình bị khốn thì danh ắt bị nhục, không phải chỗ đáng dựa mà mình dựa vào thì
thân tất bị nguy; đã bị nhục lại bị nguy thì sắp chết tới nơi rồi, còn thấy sao
được vợ nữa?”
4
九四:來徐徐,困于金車,吝,有終。
Cửu tứ: Lai từ từ, Khốn vu kim xa, lận, hữu chung.
Dịch: Hào 4,
dương: (Bạn mình) lại chậm vì bị cỗ xe bằng kim khí chặn (khốn) có điều ân hận,
nhưng được trọn vẹn về sau.
Giảng: Hào này
dương cương, nhưng bất trung, bất chính, ở vào Khốn, trong vào hào 1 (ứng với
nó) tới giúp; nhưng 1 không tới mau được vì bị hào 2 chặn ở giữa (hào 2 này ví
với cỗ xe bằng kim khí, có lẽ vì 2 dương cương, mà kim khí là chất cứng chăng?)
cho nên có điều đáng ân hận, xấu hổ; nhưng cuối cùng vẫn liên hợp được với 1 vì
hai bên đều dốc lòng ứng với nhau (4 là dương, 1 là âm).
5
九五:劓刖,困于赤紱。乃徐有說,利用祭祀。
Cửu ngũ: Tị nguyệt, khốn vu xích phất. Nãi từ hữu duyệt, lợi
dụng tế tự.
Dịch: Hào 5,
dương: Bị xẻo mũi, cắt chân, khốn vì cái “phất” đỏ; thủng thẳng sẽ vui, nên
dùng lòng chí thành lúc cúng tế (mà xử vào thời Khốn).
Giảng: Hào
dương ở vị chí tôn, có tài đức, nhưng ở vào thời Khốn, người chung quanh mình
và ở dưới mình đều bị khốn cả, lại thêm hào trên cùng là âm muốn đè ép quanh
mình, hào 4 dương cương ở dưới tính làm hại mình, ngay đến hào 2 đã đem cái
“phất” đỏ cho nó, nhờ nó giúp, nó cũng chỉ làm cho mình thêm khốn; như vậy mình
không khác gì kẻ bị thương ở mũi (xẻo mũi), ở chân (cắt chân); nhưng 5 và 2
cùng có đức cương trung thì rồi sẽ hợp với nhau, cứ chí thành thì sẽ hanh
thông, vui.
上六:困于葛藟,于臲卼;曰動悔,有悔,征吉。
Thượng lục: Khốn vu cát lũy, vu niết ngột, viết động hối,
hữu hối, chinh cát.
Dịch: Hào trên
cùng, âm: Bị khốn vì dây sắn dây leo, khập khễnh, gập ghềnh; tự hỏi rằng hoạt
động thì ân hận chăng? Biết suy nghĩ như vậy thì hành động sẽ tốt.
Giảng: Hào này
ở cuối thời Khốn, như người bị buộc chằng chịt trong đám dây sắn dây leo mà lại
đi đứng trong chỗ khập khễnh, gập ghềnh; nhưng khốn tới cùng cực rồi thì sẽ
thông, cho nên nếu thận trọng, biết ăn năn thì sẽ tốt.
So sánh ba quẻ
Truân, Kiển, Khốn.
Quẻ Truân là đầu thời khó khăn, còn có thể hành động chút ít
để cứu vãn thời thế được. Quẻ Kiển là giữa thời có khó khăn, nên chờ thời,
không làm gì hết, hoặc có vì bổn phận mà làm thì cũng khó có kết quả.
Tới Quẻ Khốn, thời khó khăn lên tới tột điểm, 5 hào xấu
(Khốn, lận) chỉ có hào cuối cùng mới tốt, đành phải chờ thời, giữ đức trung,
chính, lòng chí thành mới qua được cơn khốn.
Chú thích quẻ 47
[82]. Ý nói chữ “tín” 信 ở đây dùng như chữ “thân” 伸 (nghĩa là duỗi
ra, làm cho phải lẽ). (Goldfish).
[84]. Chắc là: tất mất hết bị in sai thành “tiết mất hết”. (Goldfish).
[85]. Sách in thiếu chữ “phương” (cả chữ Hán lẫn phiên âm). Tôi theo bản Chu Dịch (Sđd, tr.853) mà thêm vào. (Goldfish).
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét