Thứ Bảy, 3 tháng 2, 2024

Chương Một. VẠN LÝ HỎA THÀNH TRUNG QUỐC


CHIA RẼ

Tác giả  Tim Marshall

Chương Một.  VẠN LÝ HỎA THÀNH TRUNG QUỐC

“Cũng giống như trong thế giới thực, tự do và trật tự đều cần thiết trong không gian mạng.”

- Chủ tịch Tập Cận Bình

Các hoàng đế Trung Hoa luôn chật vật để tìm cách thống nhất những “tiểu vương quốc” chư hầu tách rời và chia rẽ của họ thành một khối thống nhất. Chủ tịch Tập Cận Bình cũng vậy. Ông có thể không được gọi là hoàng đế, nhưng các chức danh chính thức của ông khiến ta không khỏi nghi ngờ - Tổng Bí thư Đảng Cộng sản Trung Quốc, Chủ tịch nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa, Chủ tịch Ủy ban Phát triển Quân sự Dân sự Hợp nhất Trung ương - danh sách này cứ kéo dài mãi. Ông không chỉ là Lãnh tụ tối cao, ông còn là Lãnh tụ thậm tối cao.

Những thứ đặt dưới quyền lãnh đạo của ông đều mênh mông, bao gồm cả những thách thức. Đất nước Trung Quốc gồm năm múi giờ tương ứng với diện tích cỡ Hoa Kỳ. Trong không gian này có 1,4 tỉ người đa dạng về sắc tộc sinh sống, nói hàng chục thứ ngôn ngữ khác nhau, đó là một đế chế đa sắc tộc mang những đặc trưng Trung Quốc đỏ. Có thể có năm múi giờ về mặt địa lý, nhưng chỉ có một giờ chính thức. Câu trả lời cho câu hỏi “Mấy giờ rồi?” là “Bắc Kinh nói mấy giờ thì là mấy.” Quy tắc trọng tâm này từ lâu đã thế, nhưng vị hoàng đế của thế kỷ này tận hưởng sự thoải mái mà ít người tiền nhiệm nào của ông có được. Ông có thể theo dõi đế quốc của mình từ trên không trung - không chỉ là vùng lãnh thổ được dãy Himalaya bao bọc, kéo dài tới biển Nhật Bản và sa mạc Gobi, về tới biển phía nam, mà giờ còn là cả một đế chế kinh tế trải khắp toàn cầu.

Tập rất giỏi việc thị uy quyền lực của ông. Ông công cán nhiều hơn so với nhiều người tiền nhiệm. Ông bay tới các thủ đô trên thế giới, tự tin vào quyền lực kinh tế thống nhất của đất nước Trung Quốc mới, nhưng trên đường tới sân bay, ông sẽ được nhắc nhở rằng các nhà lãnh đạo Trung Quốc phải luôn cẩn trọng ra sao để đảm bảo trung ương nắm giữ quyền lực. Để làm được điều đó, họ phải trở thành những bậc thầy trong việc lặng lẽ thúc đẩy sự thống nhất thông qua chia rẽ.

Khi ta lái xe theo hướng đông-bắc dọc theo đường cao tốc sân bay rời Bắc Kinh về phía Vạn Lý Trường Thành, những chia rẽ trong dân chúng ban đầu khó xác định với một người nước ngoài, nhưng rồi trở nên ngày càng dễ thấy. Tập có thể thấy ngay điều này vì nhiều chia rẽ đó đã nổi lên trong đời ông, một số nổi lên trong thời kỳ ông lãnh đạo.

Từ trung tâm thành phố, với những chùa miếu lấp lánh ánh đèn neon của chủ nghĩa tiêu dùng và các khu chung cư cao cấp của những người khá giả, con đường đi qua hàng dặm những dãy căn hộ cao tầng của giai cấp trung lưu đang đông dần lên. Xa hơn nữa là nhà máy và các công nhân, những người hết năm này qua năm khác tiếp tục đổ về thủ đô và các thành phố lớn khác từ vùng nông thôn. Dân địa phương có thể nhận ra những khu nhà chung cư nào được xây dựng chất lượng hơn hẳn, và những khu nào được dựng lên vội vàng để kịp dòng di dân. Một khi đã vào những thị trấn nhỏ và làng mạc, không còn mấy đèn neon, và thương mại hóa cũng ít hơn. Ở vùng này của Trung Quốc, các thị trấn là những khu xám xịt, không màu sắc, kham khổ, chẳng có mấy tiện ích; trong mắt người nước ngoài, chỉ có một cảm giác u tối tràn ngập. Đây có lẽ là sự chia rẽ lớn nhất của Trung Quốc - giữa thành thị và nông thôn, người giàu và người nghèo - và như chúng ta sẽ thấy sau này, điều đó làm đảng cầm quyền lo ngại. Đảng biết rằng sự đoàn kết và ổn định của nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa phụ thuộc rất lớn vào việc bắc cầu nối gần khoảng cách đó, và bàn tay thép của đảng nắm người dân sẽ tuột mất nếu đảng không làm được thế.

Sự thống nhất luôn là tối quan trọng với thành công của Trung Quốc, và đồng thời là một trong những thách thức lớn nhất của họ. Trong quá khứ, thứ đã đóng cả vai trò vật chất và biểu tượng trong việc thống nhất quốc gia là Vạn Lý Trường Thành. Nếu Tập đi tiếp theo đường cao tốc, qua khu sân bay, ông sẽ vào một con đường tám làn xe đi xa hơn về hướng đông bắc, và từ đó sẽ tới công trình gây ngợp cho trí tưởng tượng của cả thế giới.

Khi ta tới gần đoạn Mộ Điền Dục của Vạn Lý Trường Thành, đường cao tốc giảm chỉ còn một con đường hai làn xe đơn giản, các tòa nhà ít hơn và khung cảnh trở nên xanh tươi hơn. Cách bức tường vài dặm, con đường dẫn tới một bãi đậu xe nơi bạn phải chuyển sang một chiếc xe buýt để đi tới khúc cuối con đường. Tiếp đó sẽ là một chuyến đi cáp treo lên đỉnh hoặc một đoạn cuốc bộ leo dốc dài hai dặm (khoảng 3,2 kilômét), có thể là đi cùng một bầy dê. Chuyến thăm thú do dê hướng dẫn không phải là một tùy chọn - nếu lũ dê muốn đi theo bạn, chúng sẽ đi theo; còn không thì thôi. Dù chọn lối nào, bạn rốt cuộc sẽ thấy được thứ gì đó khiến cho nỗ lực này cực kỳ đáng công đáng sức.

Khi tôi lần đầu nhìn thấy hàng dặm tường gạch ngoằn ngoèo dọc theo những đỉnh núi, tôi không quá nể sợ như khi tôi ở, lấy ví dụ, hẻm núi lớn Grand Canyon[1]. Tôi cũng không thấy ngợp, như khi tôi ở trên tòa nhà cao nhất thế giới, Burj Khalifa ở Dubai. Tôi không cảm thấy ý thức hệ chính trị phát ra từ đó như tôi cảm thấy khi tới thăm bức tường Berlin ở đỉnh điểm của Chiến tranh Lạnh. Nhưng có thứ gì đó khác. Tôi cảm thấy, dù đúng hay sai, rằng tôi hiểu Trung Quốc rõ hơn một chút so với trước kia.

Điều đó không hề biến tôi thành một chuyên gia - còn lâu mới thế - nhưng trong khoảnh khắc đó, tôi hiểu rõ hơn nhiều những cụm từ như “nền văn hóa cổ xưa” và “kỳ công vĩ đại nhất trong lịch sử loài người”, và cả ý tưởng rằng nhiều người ở nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa vẫn chia thế giới thành những ai là người Trung Quốc và những ai không phải. Rốt cuộc, bức tường được xây lên dựa trên một ý tưởng đơn giản: ở một bên là nền văn minh, còn bên kia là sự man di mọi rợ.

Đằng sau tôi, về phương nam, là vùng trung tâm của Trung Nguyên tràn ngập người Hán. Về phương bắc, ở khoảng cách xa, vượt qua những rặng núi, là nơi bắt đầu của thảo nguyên và sa mạc Mông Cổ, bên phải là Mãn Châu Lý và bên trái là vùng Tân Cương.

Trước khi bức tường tồn tại, khoảng 2.500 năm trước, vùng núi phía bắc đảm bảo một mức độ bảo vệ cho người Hán, một dân tộc đã phát triển xã hội định cư những vùng đất màu mỡ trên bình nguyên Hoa Bắc. Nhưng các nhóm cướp bóc, và đôi khi là cả những đạo quân, từ cả ba vùng nói trên sẽ tìm được đường vượt đèo vào vùng đất nông nghiệp bằng phẳng của các nhà nước phong kiến và các đô thị như Bắc Kinh, Lạc Dương và Khai Phong. Và bởi thế, trong nhiều thế kỷ, người Trung Quốc đã phát triển biểu tượng tinh hoa về “chúng ta và chúng nó” này, rồi dựng lên bằng đá.

Nhà Trung Hoa học vĩ đại người Mỹ John King Fairbank[2] đã có một mô tả vào loại hay nhất về Vạn Lý Trường Thành, ông gọi nó là “lằn ranh chia cắt thảo nguyên với đồng ruộng, du mục với nông nghiệp, và man rợ với văn minh”. Và điều này phù hợp với thái độ áp đảo “Dĩ Hoa vi trung” thời bấy giờ - lòng tin rằng Trung Quốc là trung tâm văn hóa của trái đất, và là nền văn minh tiên tiến nhất. Người Hán cũng tin rằng hoàng đế Trung Hoa là người duy nhất có chân mệnh thiên tử trên toàn thế giới, và bởi thế là hoàng đế hợp pháp của thế giới. Từ đó suy ra rằng không chỉ mọi nhà cai trị khác đều thấp kém hơn, mà mọi nền văn minh khác cũng ở đẳng cấp thấp hơn họ. Những láng giềng gần và các sắc tộc khác được đưa vào dưới sự cai trị của hoàng đế, dù họ có thể có những lãnh đạo địa phương của riêng mình.

Những nhà nước man di ở gần có thể có vua, nhưng họ phải công nhận rằng họ thấp kém hơn so với hoàng đế Trung Hoa. Và ngay cả những nơi xa xôi hơn, như Tân Cương, Java và Nhật Bản, cũng bị gọi là “thuộc quốc” và phải triều cống cho Trung Nguyên. Đây không phải là một thế giới quan được thiết kế để có thêm bạn bè, nhưng chắc chắn là nó có ảnh hưởng lên con người, và trong một thời gian dài nó đã hiệu quả.

Trong hàng thế kỷ, Vạn Lý Trường Thành đã củng cố cho an ninh của Trung Quốc, gắn kết đất nước lại như một thực thể chính trị và mang tới sự ổn định để phát triển các vùng đất nông nghiệp ở miền tây và miền bắc. Bởi bức tường trải rộng về hướng tây,nó cũng bảo vệ một phần Con đường tơ lụa, qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế. Chiều dài tối đa của nó, tính cả các bức tường song song, hệ thống phòng thủ này trải ra hơn 20.900 kilômét. Để cảm nhận được quy mô của nó, chiều dài này tương đương với bốn bức tường song song nhau, mỗi bức tường kéo dài từ bờ biển phía đông Hoa Kỳ tới tận Thái Bình Dương, mà vẫn còn thừa rất nhiều gạch.

Mặc dù vai trò vật chất của nó trong việc thống nhất đất nước giảm dần theo năm tháng, nó vẫn là một biểu tượng quan trọng trong tâm thức dân tộc. Quan trọng tới mức sau khi những người cộng sản lên nắm quyền vào năm 1949, Mao Trạch Đông đã nhắc tới bức tường trong một bài thơ về cuộc Trường Chinh tựa đề “Lục Bàn sơn”, với những dòng:

Trời cao mây nhạt,

Bóng nhạn hút về nam.

Chưa đến Trường Thành sao là hảo hán,

Bấm đốt ngón tay đã đi hai vạn dặm…[3]

 

Lời của dòng thơ áp chót ở trên sau này đã trở thành một thành ngữ nổi tiếng, “Bất đáo Trường Thành, phi hảo hán”, nghĩa là “Nếu chưa vượt qua gian khổ, thì chưa thể là người anh hùng.”

Bài thơ gây ra một số vấn đề ở chế độ mới, khi những người cộng sản có vẻ có quan điểm xung đột nhau về bức tường - nhiều người coi đó là một biểu tượng của quá khứ phong kiến của đất nước và tin rằng nó nên thuộc về lịch sử, thậm chí khuyến khích mọi người phá bỏ nó. Nhưng bởi Mao đã viết về nó, những người cộng sản khác muốn tới thăm nó để cho thấy “tinh thần của Mao Chủ tịch”. Nếu tới khu vực Mộ Điền Dục, ta có thể thấy những chữ tiếng Hoa màu trắng khổng lồ được viết trên đỉnh núi, “Trung thành với Mao Chủ tịch”. Và bức tường được nhắc trong bài quốc ca, được thông qua năm 1949, nên rõ ràng là đảng công nhận tầm quan trọng văn hóa và lịch sử của nó. Trong phần lớn thời gian, họ đồng ý với việc phớt lờ nó - ít nhất là vào giai đoạn đầu. Tuy nhiên, trong Cách mạng Văn hóa, những người quyết liệt nhất trong các Hồng vệ binh đã tích cực phá hủy một phần bức tường - với họ nó thuộc về “Tứ cựu”, những điều không có chỗ trong nước Trung Hoa mới: cựu phong tục, cựu văn hóa, cựu tập quán và cựu tư tưởng.

Mao chết năm 1976, và ra đi cùng ông là cuộc Cách mạng Văn hóa. Sau năm 1978, nhà lãnh đạo mới, Đặng Tiểu Bình, bắt đầu việc trùng tu bức tường một cách có phương pháp. Ông khởi đầu chậm chạp - những năm đầu sau thời Mao là thời kỳ cần thận trọng - nhưng tới năm 1984, ông đã đủ tự tin để tuyên bố, “Hãy yêu đất nước Trung Quốc của chúng ta và phục dựng Trường Thành.” Trong nỗ lực đặc biệt này, có khả năng là Đặng còn lưu ý tới du lịch và ngoại tệ; giới lãnh đạo Cộng sản Trung Quốc bắt đầu đón nhận những khía cạnh của chủ nghĩa tư bản, và ý thức rõ họ đã tụt hậu so với những vùng khác trên thế giới ra sao. Vì thế luật pháp được thông qua khiến việc phá hoại, di dời hay viết vẽ bậy lên bất kỳ nơi nào của bức tường là phi pháp, cùng những cố gắng tái thiết (thi thoảng thành công) và một nỗ lực hướng tới việc thu hút du khách.

Vạn Lý Trường Thành đóng một vai trò lớn trong trí tưởng tượng đại chúng của cả Trung Quốc và phần còn lại của thế giới - dù một số sử gia lập luận rằng người châu Âu thấy ám ảnh bởi nó hơn là chính người Trung Quốc, và rằng điều đó đóng góp vào nhận thức, cùng với sự bản sắc hóa, đối với công trình này ở chính Trung Quốc. Nên bức tường đã có vai trò tối quan trọng trong việc định nghĩa Trung Quốc từ bên ngoài cũng như từ bên trong.

Trên thực tế, bức tường chỉ thành công khiêm tốn về mặt quân sự. Chắc chắn là hệ thống cảnh báo sớm, các pháo đài và những thành trì chiến lược của nó mang tới chút bảo vệ, nhưng như chúng ta đã thấy, chúng không hề là bất khả xâm phạm. Tuy nhiên, vai trò của bức tường làm biểu tượng cho sự phòng ngự, cho việc chia cắt người Hán với “những kẻ bên ngoài” là vô giá; ngày nay nó vẫn tiếp tục là một biểu tượng của một nền văn hóa lớn và cổ xưa.

* * *

Nhưng với nền văn hóa lớn và hiện đại thì sao?

Tần Thủy Hoàng, người sáng lập nên nhà Tần, đã thành công trong việc thống nhất bảy nước thời chiến quốc thành một nước Trung Hoa vào năm 221 trước công nguyên, nhưng chỉ vì nó đã tồn tại hai mươi ba thế kỷ không mặc nhiên đồng nghĩa là nó sẽ tồn tại thêm một thế kỷ nữa.

Người Trung Quốc không thích nói chuyện với người ngoài về những vấn đề và sự chia rẽ trong đất nước họ. Trong khi bạn chẳng phải đi đâu xa để tìm được một ai đó ở Anh hay Pháp chẳng hạn, người sẽ thoải mái nói với bạn rằng đất nước họ đang sụp đổ đến nơi, ở Trung Quốc, việc chỉ trích đất nước bị coi là không yêu nước và mất thể diện. Tất nhiên, điều đó cũng có thể nguy hiểm nữa, bởi Trung Quốc vẫn là một chế độ độc đảng.

Dẫu vậy, có những vấn đề và sự chia rẽ ở hai mươi ba tỉnh, bốn đô thị trực thuộc, năm khu tự trị, và hai khu hành chính đặc biệt của đất nước. Một trong những chia rẽ lớn nhất là giữa vùng trung tâm người Hán và những vùng không phải người Hán xung quanh, tạo nên một hình bán nguyệt. Ở đông bắc là Mãn Châu Lý, ở phía bắc là Nội Mông, ở tây bắc là Tân Cương và phía tây là Tây Tạng. Những vùng này là tối quan trọng về an ninh, nguồn tài nguyên thiên nhiên và thương mại, nhưng tất cả đều không mặn mà với sự cai trị từ Trung Quốc. Mãn Châu Lý giờ người Hán áp đảo hoàn toàn, nhưng những vùng kia vẫn duy trì bản sắc, ngôn ngữ, phong tục của riêng họ, và trong trường hợp Tân Cương và Tây Tạng là cả tôn giáo (Hồi giáo và Phật giáo) cùng các phong trào ly khai nữa.

Trung Quốc đã cố gắng kiểm soát Tân Cương và dân tộc Uighur [Duy Ngô Nhĩ] ở đây được vài thế kỷ, nhưng dân chúng chưa bao giờ hoàn toàn chấp nhận sự thống trị của Bắc Kinh. Đã có hàng loạt những cuộc nổi dậy vào thế kỷ 18 và 19 và thậm chí cả một nước Cộng hòa Đông Turkestan chết yểu vào những năm 1930. Mao sau đó sáp nhập Tân Cương vào năm 1949 và vùng này giờ chiếm khoảng một phần sáu lãnh thổ Trung Quốc. Để hình dung ra Tân Cương hoang vu và thưa thớt dân cư tới mức nào, thật đáng chỉ ra rằng nó có diện tích bằng một nửa Ấn Độ, nhưng với dân số không bằng 2% [dân số Ấn Độ].

Những năm qua đã chứng kiến việc định cư lượng lớn người Hán tại Tân Cương, và trong khoảng thời gian vài năm, họ có thể đã chiếm gần một nửa dân số 22 triệu người hiện tại. Chuyện này diễn ra không hoàn toàn suôn sẻ. Người Uighur than phiền rằng họ bị loại trừ khỏi những công việc tốt hơn và bị lực lượng bán vũ trang trong các công ty xây dựng do nhà nước kiểm soát truy bức, và thỉnh thoảng có bạo động và xung đột sắc tộc nổ ra. Sự chống đối đôi khi được thực hiện qua hệ thống tư pháp, nhưng cũng có một chiến dịch khủng bố nhỏ, một phần là do các tay súng Hồi giáo kích động, những người này vốn trở về từ Iraq và Syria. Các tổ chức jihad ở những nước cộng hòa Trung Á được cho là đã hỗ trợ họ, cung cấp tiền bạc, và nếu cần thiết, những nơi trú ẩn an toàn. Chuông báo động bắt đầu reo khi nhóm khủng bố Nhà nước Hồi giáo (IS) công bố một đoạn video cho thấy những người Uighur được huấn luyện ở Iraq, thề sẽ cắm lá cờ của họ ở Trung Quốc và đe dọa máu sẽ “chảy thành sông”.

Vào mùa xuân năm 2017, đã có một đợt bạo lực sắc tộc bùng phát ở khu vực giữa người Uighur và người Hán. Tiếp theo là màn trình diễn của lực lượng quân đội nhà nước được vũ trang đến tận răng. Lãnh đạo đảng Cộng sản trong vùng nói các binh sĩ sẽ “chôn xác bọn khủng bố trong biển chiến tranh nhân dân”. Chủ tịch Tập hơi kiềm chế hơn, hài lòng với việc kêu gọi một “Trường Thành thép” được xây lên để bảo vệ Tân Cương và cảnh báo rằng chia rẽ sắc tộc sẽ không được chấp nhận - “Đoàn kết dân tộc quý giá như con ngươi trong mắt,” ông nói. Vào đầu năm 2018, phiên bản về sự đoàn kết này của Tập là ra sắc lệnh yêu cầu một triệu đảng viên Cộng sản được cử tới sống với các gia đình Uighur địa phương. Những người tiếp nhận các “khách trú” bắt buộc này được khuyến khích thực hiện công tác quan hệ dân tộc của họ bằng cách cung cấp cho “những vị khách” thông tin chi tiết về quan điểm chính trị của họ. Đó là một kiểu nhà trọ Trung Quốc gặp gỡ “Bộ Tình yêu” của Orwell[4], nhưng ở đấy phòng 101 chính là phòng khách nhà bạn.

Bất chấp tình trạng bất ổn, ít có khả năng Bắc Kinh sẽ giảm bớt sự kiểm soát. Vùng này đóng vai trò như vùng đệm, thuộc Con đường tơ lụa mới, và bởi thế tối quan trọng với thương mại, và nó có trữ lượng than đá rất lớn mà Trung Quốc, vốn luôn khát khao năng lượng, hết sức cần. Nhưng ngay cả như thế, nhà chức trách lo ngại sâu sắc về những sự cố ở đây. Sự chia rẽ và bất đồng ý kiến như thế làm xói mòn hình ảnh của đảng Cộng sản trong vai trò lực lượng quyền lực và bảo vệ người dân duy nhất.

Điều tương tự cũng đúng với Tây Tạng. Về mặt chiến lược, nó là vùng đệm với trung tâm, ngăn cản Ấn Độ thống trị vùng đất cao dọc biên giới - có thể coi dãy Himalaya như một rào chắn, đây có lẽ là lý do tại sao một cuộc xung đột lớn chưa bao giờ nổ ra giữa hai nước. Điều đó cũng cho phép Trung Quốc bảo vệ nguồn nước của họ - Tây Tạng đôi khi được gọi là “Tháp nước của châu Á” do quá nhiều dòng sông lớn bắt nguồn từ vùng này.

Nếu ta tính Tây Tạng là ba tỉnh thuộc vùng Tạng, thì nó có diện tích khoảng 2,5 triệu km², hay gần gấp bốn lần diện tích nước Pháp, và như thế chiếm khoảng một phần tư diện tích Trung Quốc. Tuy nhiên, khi Bắc Kinh nói tới Tây Tạng, ý họ là Khu tự trị Tây Tạng, được thành lập sau khi Trung Quốc đánh bại quân đội Tây Tạng vào năm 1950. Nó có diện tích nhỏ hơn một nửa so với ba tỉnh gốc, khi phần còn lại của vùng này bị sáp nhập vào những vùng khác của Trung Quốc, và chỉ bao gồm một phần ba số người sắc tộc Tạng của Trung Quốc.

Giống như với người Uighur Hồi giáo, người Tạng Phật giáo vẫn duy trì cảm nhận bản sắc mạnh mẽ khác biệt với người Hán Trung Hoa. Nhưng với cả hai vùng, bất kỳ hy vọng tự trị nào đã gần như biến mất. Ở Tây Tạng, người ta ước tính một nửa dân số giờ là người Hán. Khó có được những con số chính xác, nhưng người ta cho rằng hiện có khoảng sáu triệu người Tạng và sáu triệu người Hán sống ở vùng này. Ở những thành phố lớn hơn, họ sống sát nhau, dù thường ở các khu khác nhau, mặc dù ở vùng nông thôn, người Tạng vẫn chiếm đa số.

Sự chia rẽ sắc tộc là điều nhà nước Trung Quốc tin rằng họ có thể xử lý được, chừng nào sự chia rẽ trong nội bộ người Hán còn được dàn xếp ổn thỏa. Và chính những chia rẽ này mới gây ra đe dọa lớn nhất cho những triển vọng thịnh vượng và thống nhất dài hạn của Trung Quốc. Đó là một mối đe dọa Đảng Cộng sản nhìn nhận rất nghiêm túc. Họ đã học được những bài học lịch sử và hiểu chuyện gì xảy ra khi nhà nước yếu đi vì nhân dân chia rẽ.

Vào thế kỷ 19, Trung Quốc chứng kiến sự đảo lộn lớn trong cách vận hành thương mại. Những tuyến đường thương mại trên đất liền qua Trung Á đã luôn là ưu tiên kinh tế, nhưng giờ hàng hải trở thành đường chính. Sự đảo ngược này không hoàn toàn là do họ lựa chọn - Anh và các cường quốc nước ngoài khác đã sử dụng sức mạnh quân sự của họ để áp đặt những điều kiện thương mại bất bình đẳng lên Trung Quốc. Kết quả là sự tập trung thương mại chuyển sang vùng duyên hải bên bờ Thái Bình Dương, điều giúp những cộng đồng ở vùng đó phát triển, nhưng làm yếu đi những triển vọng thương mại của nội địa, điều này tới lượt nó làm giảm lượng tiền đầu tư cho cơ sở hạ tầng ở đó. Nên trong khi vùng duyên hải thịnh vượng, các nông dân nghèo rớt tiếp tục nghèo rớt - và những người nước ngoài trở nên ngày càng hùng mạnh. Điều đó làm xói mòn quyền hành của trung ương với những vùng này và chịu một phần trách nhiệm khiến nhà nước vỡ vụn. Bởi một dân chúng chia rẽ như thế, trung ương không thể đứng vững. Và một Trung Quốc giờ hoàn toàn yếu ớt đối mặt trong vô vọng với đầu tiên là những kẻ thực dân“man di”, rồi nội chiến, và cuối cùng là cuộc xâm lược của một kẻ thù cũ, Nhật Bản, bắt đầu vào năm 1931.

Sau Thế chiến II, khi những người cộng sản chiến thắng cuộc nội chiến, họ biết họ phải tìm mọi cách giúp đất nước gắn kết trở lại. Các chế độ cộng sản không nổi tiếng vì những khuynh hướng tự do hay cách tiếp cận thoải mái đối với cai trị và chia sẻ quyền lực. Những người nước ngoài ra đi và các cán bộ của đảng tới thủ phủ các vùng. Dưới thời Mao, họ mạnh tay đàn áp mọi dấu hiệu bất đồng chính kiến từ những vùng này và tập trung mọi quyền lực vào trung ương đảng ở Bắc Kinh, mà từ năm 1949 trở đi lại là thủ đô của cả nước.

Nhiều kết nối thương mại với thế giới phát triển bị cắt đứt, một phần là từ hệ quả của lý tưởng Cộng sản lớn lao: sự bình đẳng. Dần dần các vùng duyên hải cũng trở nên nghèo gần như các vùng nội địa, giải quyết được sự mất cân đối cụ thể đó giữa các vùng. Ngoại trừ phần lớn các quan chức trong đảng, hầu hết người dân tiếp tục sống trong nghèo khó trong vài thập niên khi Mao củng cố quyền lực và đưa những vùng lãnh thổ không phải người Hán vào dưới sự kiểm soát của ông.

Mao có thể đã tái thống nhất đất nước, nhưng với cái giá là sự chậm phát triển quốc gia, và chính xác ở thời điểm mà các nước khác trong vùng đang nổi lên trong nền kinh tế thế giới và nhanh chóng tiến bộ. Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore và các nước khác đều nhanh chân hơn Trung Quốc về kinh tế, một số cả về năng lực quân sự nữa. Nếu xu hướng đó tiếp diễn, nó sẽ đe dọa cả an ninh phòng thủ và sự cố kết nội bộ của Trung Quốc, khi người ta thấy rõ Trung Quốc đã tụt lại xa ra sao.

Người kế nhiệm của Mao, Đặng Tiểu Bình, đã can đảm đánh cược: nếu người tiêu dùng Trung Quốc quá nghèo không thể mua được nhiều hàng hóa mà Trung Quốc có thể sản xuất được, thì nền kinh tế phải được mở cửa với thế giới bên ngoài một lần nữa. Điều này đồng nghĩa với thương mại qua bờ Thái Bình Dương, nên các vùng duyên hải một lần nữa lại thịnh vượng nhanh chóng hơn vùng nội địa, qua đó có nguy cơ lặp lại sự chia rẽ của thế kỷ 19 và thế kỷ 20.

Đó đã, và vẫn đang, là một cuộc chạy đua với thời gian. Đó cũng là chiến lược dựa trên một chính sách kinh tế phải duy trì tốc độ tăng trưởng không ngừng nghỉ, dù cho có chuyện gì xảy ra. Trung Quốc phải tiếp tục sản xuất. Thế giới phải tiếp tục mua sản phẩm. Nếu nhu cầu giảm xuống, Trung Quốc sẽ gặp rắc rối vì không thể ngừng sản xuất, giống như một hệ thống tư bản chủ nghĩa thông thường có thể gặp rắc rối. Họ phải duy trì sản xuất, duy trì mở cửa các nhà máy, hỗ trợ cho các ngân hàng, bất chấp sự dư thừa - cố gắng bán tháo một số sản phẩm ra nước ngoài với giá rẻ như cho, bán còn nhiều hơn nữa cho bộ phận dân chúng trong nước có thể mua được các sản phẩm đó. Chỉ là không được để hệ thống ngừng lại, vì nếu nó ngưng lại, cả quốc gia cũng sẽ như vậy.

Đây là phiên bản chủ nghĩa tư bản mê hoặc của hệ thống Cộng sản Liên Xô cũ, vốn sản xuất ra số máy cày theo chỉ đạo của chính quyền, bất chấp nhu cầu ra sao. Hệ thống đó đã giúp hàng trăm triệu người Trung Quốc thoát nghèo - tuy nhiên, với cái giá là sự hủy hoại môi trường và khoảng cách lại ngày càng lớn giữa vùng duyên hải và vùng nội địa, giữa người giàu và người nghèo.

Khác biệt về lương giữa các công nhân nông thôn và thành thị đã thu hẹp một chút trong vài năm qua, nhưng ngay cả lúc này một người sống ở thành phố vẫn có thể kỳ vọng kiếm được gấp ba lần một người lao động ở nông thôn. Mức bất bình đẳng thu nhập ở Trung Quốc là vào loại cao nhất thế giới, dẫn tới cảm giác là cỗ máy tạo ra của cải của Trung Quốc đã phục vụ cho số ít, chứ không phải số đông, hay theo tiếng lóng của người Trung Quốc, cho “nhà họ Triệu”, một thành ngữ đồng nghĩa với “đại gia”. Cách diễn đạt này bắt nguồn từ cuốn tiểu thuyết năm 1921, AQ chính truyện của Lỗ Tấn, trong đó có dòng thoại “Mày là người họ Triệu thế nào được kia chứ?”, ý chỉ một dòng họ giàu có. Cụm từ đó bắt đầu xuất hiện trên internet ở Trung Quốc vào năm 2015 và giờ nói “Triệu và không Triệu” tương đương với “kẻ có và người không”.

Mọi đất nước đều gặp vấn đề về bất bình đẳng thu nhập, và mọi nước đều có những thành ngữ tương tự, nhưng sự khác biệt ở Trung Quốc là quy mô của chênh lệch, và đơn giản là quy mô số lượng người “không có”. Một báo cáo vào năm 2015 của Ủy ban Nghiên cứu Gia đình Trung Quốc ở Đại học Bắc Kinh đã tìm hiểu “phúc lợi của dân chúng Trung Quốc” kết luận rằng nhìn chung, bất bình đẳng thu nhập đang trầm trọng hơn. Ủy ban cho biết một phần ba của cải ở Trung Quốc nằm trong tay 1% hộ gia đình, trong khi 25% hộ gia đình dưới đáy chỉ nắm 1% của cải. Sự chênh lệch có thể được truy lần về hồi mở cửa nền kinh tế vào năm 1979.

Chính quyền ý thức rất rõ những trục trặc và nguy cơ mà sự chia rẽ như thế có thể gây ra, nhất là khi một cuộc điều tra trên internet năm 2015 cho thấy bất bình đẳng thu nhập, với những tác động tiếp nối lên y tế và giáo dục, là vấn đề lớn nhất mà người dân muốn chính quyền xử lý. Trong một tin tức về báo cáo nói trên, tờ Nhân dân nhật báo bình luận, “Những sự bất bình đẳng này đang gia tăng liên tục. Nếu không giải quyết chúng một cách hiệu quả, chúng rất có thể sẽ đe dọa sự ổn định xã hội và qua đó trở thành một nút tắc cổ chai trong sự phát triển xã hội tương lai.”

Còn có sự chia rẽ thậm chí là giữa các thế hệ, với một số người lớn tuổi tưởng nhớ thời Mao và “sự bình đẳng” thời đó. Họ khó chịu với thế hệ trẻ hơn, thế hệ có nhiều người là thị dân hơn, có giáo dục tốt hơn và là những kẻ theo chủ nghĩa tiêu dùng, hay ít ra là muốn trở thành những kẻ đó. Tương lai của Đảng Cộng sản phụ thuộc vào việc họ mang tới gì cho những người đó và ngược lại.

Những rạn nứt đang lớn lên trong xã hội Trung Quốc không được phép gia tăng nữa. Một trong những cách mà chính quyền định xử lý vấn đề là tạo ra một lượng dân tiêu dùng lớn hơn nhiều ở đô thị, qua đó bù đắp cho những tổn thất với nền kinh tế khi xuất khẩu ra nước ngoài gặp vấn đề. Các ước tính khác nhau, nhưng ít nhất 150 triệu người đã rời những vùng nông thôn trong thế kỷ này và con số đó dự kiến sẽ còn tăng. Chính những thế hệ trẻ hơn chuyển ra từ nông thôn, với nam giới chiếm tỷ lệ áp đảo - những đàn ông đã có vợ đôi khi ra đi để tìm việc làm ở thành phố, để lại gia đình đằng sau chăm lo cho vườn ruộng. Bất chấp điều đó, điều quan trọng là phải nhớ rằng ngay cả lúc này, khoảng 900 triệu người Trung Quốc vẫn sống ở vùng nông thôn và khoảng 500 triệu ở các môi trường đô thị.

Sự thay đổi đã rất nhanh chóng, và sẽ còn nhanh chóng hơn. Tới năm 2026, Bắc Kinh hy vọng sẽ chuyển dịch thêm 250 triệu người nữa, có nghĩa là tới lúc đó một nửa dân số sẽ là thị dân. Để đạt được điều này, đòi hỏi phải có sự di chuyển con người hàng loạt, cùng với việc phá hủy các làng mạc và xây lên những đô thị, siêu đô thị, đường sá và các tuyến xe lửa cao tốc. Phần lớn sự dịch chuyển này tiếp tục diễn ra từ tây sang đông, miền tây vẫn có xu hướng nông thôn hơn, với tỷ lệ mù chữ cao hơn; miền đông, nhất là vùng duyên hải ven biển, ngày càng đô thị hóa và hướng tới công nghệ, công nghiệp và kinh doanh.

Tuy nhiên, cuộc di cư hàng loạt tới những đô thị bộc lộ và làm trầm trọng thêm một khoảng cách khác trong nội bộ dân chúng thành thị, một lần nữa giữa người giàu và người nghèo. Điều đó là do hệ thống hộ khẩu gây ra, một hình thức đăng ký có nguồn gốc trong cấu trúc xã hội của đất nước. Đó là một trong những điều đã giúp cắm sâu ý niệm cho rằng dân chúng nông thôn là những công dân hạng hai.

Hệ thống hộ khẩu có từ trước Vạn Lý Trường Thành, tận từ thời Hạ (2070-1600 trước Công nguyên), thời đại bắt đầu đăng ký mọi thành viên của mọi gia đình. Vào năm 1953, đảng cộng sản tiếp tục sử dụng hệ thống cổ xưa này, nhưng cũng bắt đầu phân loại người dân là dân cư nông thôn hay thành thị. Đó không chỉ là một cách khác để theo dõi tất cả mọi người, đó còn là ý đồ ngăn người dân di cư đến những vùng đô thị, vốn không đủ sức tiếp nhận dòng di dân lúc bấy giờ, và để tránh lặp lại tình trạng bất bình đẳng giữa nông thôn và thành phố như trong thế kỷ trước đó.

Tới ngày nay, hệ thống này vẫn tồn tại và tên tuổi tất cả mọi người, tên tuổi của cha mẹ họ, ngày sinh, nhân thân vợ/chồng của họ… đều phải khai báo - đây điều là bình thường ở nhiều nước. Nhưng ở Trung Quốc, nơi ta đăng ký sẽ xác định nơi ta sống, và quan trọng hơn là xác định nơi ta nhận hỗ trợ từ nhà nước và nhận ở hình thức nào. Những sự chia rẽ mang tính quyết định này sinh trong sự phân biệt dân địa phương với dân tạm cư, người làm nông nghiệp với phi nông nghiệp.

Giả sử gia đình bạn đăng ký là ở thành phố Thượng Hải phi nông nghiệp. Điều đó ngay lập tức cho bạn quyền tiếp cận rất nhiều dịch vụ y tế và giáo dục trong thành phố. Lấy ví dụ, theo một bài báo trên tờ China Economic Reviews, ngân sách cho một học sinh ở Bắc Kinh vào năm 1998 cao gấp mười hai lần so với tỉnh Quý Châu, tỷ lệ này tăng lên thành mười lăm lần vào năm 2001. Mặt khác, nếu gia đình bạn đăng ký hộ khẩu nông nghiệp ở một vùng nông nghiệp cách Thượng Hải 1.000 dặm (khoảng 1.600 kilômét về phía tây, thì những trường bạn có quyền theo học kém rất xa tiêu chuẩn ở Thượng Hải, cũng như các dịch vụ xã hội rất hạn chế. Hơn nữa, công việc của bạn sẽ là lao động chân tay đến kiệt sức, mà đôi khi kết quả chỉ ở mức nông nghiệp tự cung tự cấp.

Vì thế, bạn chuyển tới Thượng Hải để tìm việc trong một nhà máy. Lương của bạn ngay lập tức cao hơn, và bạn có thể gửi ít tiền về nhà. Nhưng bạn vẫn đăng ký hộ khẩu ở vùng “nông thôn nông nghiệp”, nên bạn không được quyền hưởng các phúc lợi xã hội hay y tế ở Thượng Hải. Trong trường hợp kết hôn và có con, bạn cũng không có hộ khẩu đăng ký để con mình được đi học ở Thượng Hải. Điều này làm phát sinh một tầng lớp thấp của những công nhân nhập cư rất đông đảo ở đô thị xuất thân từ những vùng nông thôn, những người giờ không có quyền thụ hưởng một phần các dịch vụ xã hội. Họ đã là những công dân hạng hai ở vùng quê, và giờ thấy mình cũng bị xem là các công dân hạng hai ở thành phố.

Chính quyền đối mặt với một tình thế khó xử khi cố gắng xử lý vấn đề này. Một lựa chọn là khởi động một cuộc cách mạng về vốn xã hội cho vùng nông thôn và đưa những khu vực nông thôn lên tiêu chuẩn bằng thành phố. Nhưng điều đó không chỉ tốn kém quá nhiều tiền, nó còn có thể khiến người dân ở lại vùng nông thôn đúng vào lúc chính quyền biết mình vẫn cần tạo ra một dân chúng tiêu dùng đô thị nếu muốn các chính sách kinh tế hiệu quả. Tệ hơn nữa, một số người đã lên thành phố có thể lựa chọn trở về nhà. Nếu điều này xảy ra, điều thần kỳ kinh tế sẽ tan biến, thất nghiệp sẽ tăng mạnh và theo đó là bất ổn xã hội.

Bằng cách nào đó Bắc Kinh cần cân bằng thu chi. Họ phải bỏ tiền cho một hệ thống hộ khẩu ở các thành phố cho những ai đến từ nông thôn, trong khi cũng tăng tài trợ cho dịch vụ xã hội nói chung khi các thành phố tiếp tục tăng trưởng - rồi bằng cách nào đó, lý tưởng nhất là đồng thời nâng mức sống ở vùng nông thôn trong khi vẫn khuyến khích người dân di chuyển sang các khu vực đông đúc, tốt hơn hết là tạo ra những thành phố mới vùng nội địa.

Đây là một thách thức lớn, và không thể xử lý trực tiếp; không kể chi phí cực lớn, việc tạo ra quá nhiều khu vực đô thị, trải rộng khắp cả nước, là một thách thức về hậu cần. Bắc Kinh đang xem xét ý tưởng cho phép các chính quyền cấp vùng có nhiều quyền hành hơn để đánh thuế ở mức địa phương, tăng doanh thu thông qua việc bán đất và chi tiêu theo như họ thấy phù hợp. Cách đó có thể hiệu quả. Nhưng nếu thất bại, Bắc Kinh sẽ phải cứu trợ chính quyền địa phương. Và ngay cả nếu nó thành công, nó có thể tạo điều kiện cho điều mà đảng vẫn lo lắng - chủ nghĩa cục bộ địa phương.

Đặng có vẻ như biết canh bạc của ông sẽ gây ra nhiều vấn đề. Trong một cuộc phỏng vấn nổi tiếng vào năm 1986, Mike Wallacen[5] của CBS News đã hỏi nhà lãnh đạo cộng sản khi đó tám mươi hai tuổi về cụm từ gây giật mình được cho là do ông nói vào cuối thập niên 1970 rằng “làm giàu là vinh quang”. Đặng đáp lại, “Theo chủ nghĩa Marx, xã hội Cộng sản dựa trên sự dồi dào vật chất… Nên giàu có không phải là tội lỗi. Tuy nhiên, ý của chúng tôi về việc làm giàu khác với quý vị. Của cải trong một đất nước xã hội chủ nghĩa thuộc về nhân dân. Làm giàu trong một đất nước xã hội chủ nghĩa có nghĩa là sự thịnh vượng cho toàn dân. Những nguyên lý của chủ nghĩa xã hội là: một, phát triển sản xuất và hai, sự thịnh vượng chung. Chúng tôi cho phép một số người và một số khu vực trở nên thịnh vượng trước, vì mục đích đạt được sự thịnh vượng chung nhanh hơn. Đó là lý do tại sao chính sách của chúng tôi sẽ không dẫn tới phân cực, tới một tình thế mà người giàu càng giàu hơn còn người nghèo càng nghèo hơn.”

Ông đúng một nửa và sai một nửa. Sai một nửa vì người giàu càng giàu hơn, nhưng đúng một nửa vì bất chấp khoảng cách bất bình đẳng rất lớn, người nghèo đã không nghèo đi - thực ra nhiều người đã giàu hơn.

Trung Quốc đã tạo ra một giai cấp trung lưu khoảng bốn trăm triệu người và đưa hàng trăm triệu người khác thoát cảnh nghèo cùng cực. Đó là một công trình đang còn dở dang, và ta không thể loại trừ khả năng mọi thứ sẽ lại đi giật lùi, nhưng nhờ có đủ người Trung Quốc vẫn còn nhớ được hầu hết mọi người từng nghèo khổ ra sao trước kia, và rằng từng có thời gần như không có chút cơ hội nào để thoát ra khỏi cảnh nghèo khó đó - rốt cuộc, hầu hết những ai làm ông làm bà của những người trưởng thành ngày nay ở Trung Quốc đã từng là nông dân trong một xã hội phong kiến. Điều đó giúp đảng có thêm chút thời gian để xử lý vấn đề, nhưng nếu họ không thể sớm thu hẹp chênh lệch, dần dần sự căm giận của “những người không phải họ Triệu” sẽ tăng lên.

Một vấn đề khác chính quyền đang đối mặt là dân số già hóa. Tất nhiên, điều này không phải của riêng Trung Quốc. Nhưng đó là một vấn đề đặc biệt của Trung Quốc vì chính sách “một con”, điều có nghĩa là dân chúng đang già hóa nhanh hơn nhiều so với các nước khác. Trong không đầy một thập niên nữa, số người già sẽ tăng từ hai trăm triệu lên ba trăm triệu. Chính quyền có sẵn sàng cho một sự thay đổi nhân khẩu học như thế chưa? Chính sách kinh tế của họ đã dựa vào lực lượng lao động trẻ và dồi dào. Theo tỷ lệ, lực lượng lao động - và người đóng thuế - có sẵn này sẽ giảm dần cùng lúc gánh nặng tài chính để chăm sóc dân số già tăng lên, gây ra rủi ro cho tiến bộ kinh tế.

Một lần nữa giải pháp là không rõ ràng. Một lựa chọn là nâng tuổi hưu lên năm tuổi, nhưng điều đó chỉ đơn giản trì hoãn vấn đề, và đồng thời tạo ra một vấn đề khác: những sinh viên tốt nghiệp đại học mà hệ thống giáo dục đang sản xuất ra ồ ạt muốn có việc làm; thất nghiệp và không được đề bạt vốn đã là những rắc rối với họ rồi, và sẽ chỉ trầm trọng hơn nếu thế hệ lớn tuổi về hưu muộn hơn. Giải pháp thay thế là bảo đảm dịch vụ xã hội có thể cung cấp lương hưu và từ bỏ chính sách “một con”. Giải pháp sau đã được thực hiện vào năm 2015, nhưng chính quyền vẫn đang tìm cách có tiền cho giải pháp đầu.

Đang có rất nhiều sự chia rẽ âm ỉ trong nội bộ dân Hán, tất cả đều là mối đe dọa tiềm tàng với chính quyền nếu những chia rẽ đó tồi tệ hơn. Nhà cầm quyền phải duy trì sự kiểm soát ở trung tâm Trung Quốc nếu họ muốn tiếp tục định hướng các chính sách kinh tế đúng hướng và giám sát được các vùng ngoại vi. Giải pháp của họ là kiểm soát dòng chảy thông tin, ngăn chặn những ý tưởng bất đồng lan ra, ngăn chặn sự cố kết của những người đối lập. Họ phải chia rẽ để thống nhất, và bởi thế, trong thời đại internet, Vạn Lý Hỏa Thành của Trung Quốc đã xuất hiện.

Điều này tạo ra những chính sách xung đột nhau: đàn áp thông tin trong khi đồng thời tạo ra một nền kinh tế sôi động ngày càng dựa vào trao đổi dữ liệu trên cả nước và với thế giới bên ngoài. Trong những ngày đầu của internet, chuyện này không phải là vấn đề với một chính quyền cương quyết bảo vệ vị thế nguồn gốc quyền lực và là nguồn thông tin duy nhất ở Trung Quốc. Sự truy cập bị hạn chế, nên tất cả liên lạc viễn thông nội địa ở quy mô lớn đều do nhà nước kiểm soát, và số ít các quán cà phê internet hay trường đại học kết nối với mạng toàn cầu có thể bị giám sát dễ dàng, cả ngoài đời thực và trên không gian ảo. Tới tận năm 2005, chỉ 10% dân số được truy cập internet. Tuy nhiên, giờ con số đó là 50% - và đang tăng lên. Tức là vào khoảng 700 triệu người dùng, chiếm khoảng một phần tư dân số trên mạng của thế giới. Và điều đó khiến mọi chuyện khó kiểm soát hơn.

Ngăn cách người Trung Quốc về kỹ thuật số với thế giới bên ngoài vốn dễ dàng hơn chia rẽ họ với nhau. Cái mà thế giới bên ngoài gọi là Vạn Lý Hỏa Thành (Bức tường lửa lớn) thì ở Trung Quốc được gọi là “Kim Thuẫn”, tức tấm khiên vàng. Bức tường lửa quay mặt ra ngoài này được cho là để bảo vệ người dân Trung Quốc khỏi những ý tưởng nguy hại như dân chủ, tự do ngôn luận và văn hóa đồi trụy. Dù có một số cách thức “vượt tường lửa” như qua mạng riêng ảo (VPN), vốn được thiết kế để đào hầm ngầm đi qua bức tường, hầu hết người Trung Quốc không được tiếp cận những trang rất phong phú như Time, Dropbox, The Economist, Facebook, YouTube, Ân xá Quốc tế, The Tibet Post, Đài Truyền hình Na Uy, Le Monde hay Pornhub.

Trong khi đó, những bức tường bên trong là để ngăn chặn các mạng lưới ảo có thể mang tính chính trị mọc lên và để ngăn những gì đang diễn ra ở một vùng của đất nước - Tân Hương chẳng hạn - không đến được với các vùng khác. Đảng đặc biệt sợ việc mạng xã hội được dùng để tổ chức các nhóm có suy nghĩ giống nhau, những nhóm này sau đó có thể tụ tập ở những nơi công cộng để biểu tình, điều tới lượt nó có thể dẫn tới bạo động.

Rogier Creemers, nhà nghiên cứu luật và quản trị nhà nước Trung Quốc tại Đại học Leiden ở Hà Lan, là một trong những chuyên gia hàng đầu thế giới về internet của Trung Quốc. Ông lập luận rằng thế giới bên ngoài không hiểu đầy đủ thái độ của chính quyền Trung Quốc với cuộc cách mạng kỹ thuật số: “Tôi sẽ nói rằng nếu phải so ra, chúng ta nói chung nhìn nhận về internet qua một lăng kính màu hồng, rằng mọi người đều tự do, rằng có tự do thông tin, dân chủ, vân vân. Trung Quốc ngay từ đầu đã nghi ngờ hơn nhiều. Họ nghĩ rằng công nghệ mới này sẽ có những hậu quả mới và chúng ta cần đối phó với những hậu quả đó. Khi người Trung Quốc nói về wangluo anquan[6] - an ninh mạng - họ không chỉ có ý là sự toàn vẹn về công nghệ (bảo vệ hệ thống ngoài đời thực, chẳng hạn như các đường dây điện, không để bị phá hoại) hay tội phạm mạng. Ý họ là toàn bộ vai trò mà công nghệ internet có thể có trong việc gây bất ổn cho kinh tế và xã hội. Vì thế, những thứ chúng ta có thể không coi là an ninh mạng, chẳng hạn như các tin đồn trên mạng, thì họ lại coi là thế.”

Người Trung Quốc là những người dẫn đầu thế giới trong việc kiểm soát không gian mạng. Tất nhiên, điều này dễ triển khai ở Trung Quốc hơn là ở phương Tây, bởi Trung Quốc là một nhà nước chuyên chính. Các xã hội mở khó thực thi cùng mức độ kiểm soát hơn, và trong khi đây là điểm mạnh của các nền dân chủ, đây cũng là một điểm yếu - một điểm yếu mà Nga đã tìm cách khai thác.

Dưới quyền Tổng thống Putin, Nga đã bỏ ra nhiều năm nỗ lực làm suy yếu các đối thủ của họ từ bên trong. Một ví dụ kinh điển là đài truyền hình RT, trước kia là Russia Today, vốn phát sóng bằng tiếng Anh, Pháp, Tây Ban Nha và Ả Rập. Khán giả truyền hình của nó ít ỏi, nhưng nó đã đưa các đoạn băng ghi hình từ đài lên mạng xã hội bằng sáu ngôn ngữ, nơi chúng thu hút lượng người xem lớn hơn. Một số sản phẩm của RT sòng phẳng, nhưng có một luận điệu từ Kremlin thể hiện rõ ràng trong phần lớn các sản phẩm khác. Những câu chuyện tham nhũng vặt hay biểu tình quy mô nhỏ ở nước ngoài được bơm thổi lên thành những sự kiện lớn, tạo ra một ấn tượng chung về các quốc gia đang suy thoái, băng hoại và bất ổn. Ngoài RT, chúng ta còn có thể thêm vào các hãng tin khác như Sputnik. Gần đây hơn, chúng ta đã chứng kiến sự nổi lên của những con bot Twitter và những tài khoản mạng xã hội có vẻ ngẫu nhiên, vốn lan truyền thông tin sai lạc và gây đảo lộn những tiến trình trên mạng, cố ý lôi kéo định kiến của nhiều người. Tổng hợp lại, chúng giúp Kremlin chia rẽ các nước phương tây và tìm cách làm suy yếu lòng tin của dân chúng vào nhà nước.

Trung Quốc cũng tham gia vào “truyền thông dựa theo thông điệp”, nhưng họ tỏ ra ít hung hăng hơn trong việc thúc đẩy những thông điệp đó về phía các địch thủ. Tuy nhiên, những gì họ làm là bảo vệ mình khỏi thông điệp từ bên ngoài. Trung Quốc có những phiên bản riêng của mình các công ty giống như Google, Facebook và Twitter - đó là Renren, Baidu và Weibo, nhưng những công ty này bị giám sát chặt chẽ. Mức độ kiểm duyệt thay đổi tùy vùng, lấy ví dụ, ở Tây Tạng và Tân Cương, các bức tường lửa cao hơn và sâu hơn. Một sinh viên đại học Thượng Hải có thể lách bức tường lửa, sử dụng VPN để tiếp cận một nguồn tin nước ngoài bị cấm, nhưng một người ở thủ phủ Urumqi của người Uighur có lẽ sẽ nhận được giấy mời lên làm việc với sở cảnh sát thành phố về việc sử dụng công nghệ vượt tường lửa. Luôn có cách để theo dõi những ai đang sử dụng VPN, sử dụng vì lý do gì, và nhà nước muốn biết tất cả những chuyện đó. Nhà nước biết là một số công ty trong nước và nước ngoài, và thực ra là cả một số cá nhân, đang sử dụng công nghệ đó cho mục đích kinh doanh, điều mà nhà nước cơ bản sẽ bỏ qua. Nhưng vào năm 2009, các nhà hoạt động người Uighur đã tiếp cận được với Facebook, và những rắc rối pháp lý tiếp diễn của công ty này ở Trung Quốc có thể bắt nguồn từ sự cố đó.

Cho tới năm 2013, hàng loạt các nền tảng truyền thông khởi nghiệp đã nhìn thấy các cơ hội kinh doanh mà internet mang lại và một số trở nên khá phổ biến, nhưng rồi gặp rắc rối và bị cấm. Vào tháng Tám năm 2015 chẳng hạn, trang tin tức khởi nghiệp[7] Initium Media ra mắt ở Hong Kong. Chỉ một tuần sau, xảy ra vụ nổ ở một nhà máy hóa chất tại thành phố miền bắc Thiên Tân. Các phóng viên của Initium đã xoay xở vượt qua được hàng rào an ninh, phát hiện ra rằng 173 người đã thiệt mạng, và sau đó tiếp tục việc đưa tin về những mối quan hệ ở cấp cao của chủ nhà máy. Vài ngày sau, không hề có tuyên bố chính thức, trang này bị chặn ở Trung Quốc đại lục, buộc công ty phải thay đổi mô hình kinh doanh và tập trung vào người Trung Quốc ở bên ngoài Trung Quốc - một thị trường có hơi nhỏ hơn.

Nhà chức trách đặc biệt cảnh giác vào năm 2010 khi điện thoại thông minh trở nên sẵn có và giá rẻ hơn, và mọi người có khả năng lan truyền thông tin dễ dàng và nhanh chóng, suốt 24 giờ của 7 ngày. Vì thế, như tiến sĩ Creemers giải thích, giới lãnh đạo sử dụng một số chính sách và quy định để đẩy mạng xã hội vào không gian riêng tư: “Lấy ví dụ, họ đã cố gắng đảm bảo rằng nền tảng [tiểu blog] Weibo trở nên kém phổ biến hơn, nhưng WeChat lại được thúc đẩy rộng rãi. Vì sao? Vì WeChat không công khai: nếu bạn chia sẻ điều gì đó trong nhóm trò chuyện của bạn, nó sẽ không được một số lượng người lớn chia sẻ, và những gì được chia sẻ thì chia sẻ chậm hơn. Điều đó khiến nó dễ kiểm soát hơn - chia để trị.”

Luật an ninh mạng mới của Trung Quốc, có hiệu lực từ năm 2017, đã xây lên những bức tường cao hơn bao giờ hết, nói một cách ẩn dụ. Luật này, được viết ra để bảo đảm “chủ quyền kỹ thuật số”, bao gồm các điều khoản kinh điển “phòng ngừa mọi trường hợp” được thiết kế với ý đồ cần diễn dịch sẽ được diễn dịch theo ý đảng. Lấy ví dụ, nếu một công ty nước ngoài tham gia vào bất kỳ phần nào trong cấu trúc thông tin quan trọng của Trung Quốc, họ phải lưu trữ mọi thông tin của họ ở những cơ sở dữ liệu vật lý hiện diện ngoài đời thực bên trong Trung Quốc. Không có định nghĩa cho điều gì được coi là “quan trọng”. Chính quyền có quyền tiếp cận thông tin, và thông tin không được đưa ra khỏi Trung Quốc khi chưa được các cơ quan tình báo kiểm tra. Các công ty mạng xã hội nước ngoài và nội địa phải giữ mọi chi tiết đăng ký của người dùng, rồi theo dõi và ghi lại hoạt động trên mạng của họ trong ít nhất sáu tháng, và sẵn sàng giao lại dữ liệu đó nếu chính quyền yêu cầu. Ngôn ngữ pháp luật lỏng lẻo tới mức trên lý thuyết, bất cứ công ty nước ngoài nào có văn phòng đặt ở Trung Quốc cũng có thể bị yêu cầu lưu trữ bất kỳ dữ liệu nào mà họ có về một công dân Trung Quốc ở [máy chủ] bên trong Trung Quốc. Một công ty cũng phải đồng ý hỗ trợ tích cực bất kỳ cuộc điều tra nào từ chính quyền với kho lưu trữ dữ liệu của họ.

Tất cả những điều này đều tiêu tốn tiền bạc, điều mà các công ty trong nước muốn chi cho những thứ khác và các công ty nước ngoài có thể chùn bước không muốn đầu tư. Thêm vào nỗi lo về rủi ro với “sở hữu trí tuệ” của họ, các công ty công nghệ thông tin và công nghệ mới đặc biệt có thể quyết định đầu tư vào một môi trường kinh doanh dễ chịu hơn. Trong khi điều này trên lý thuyết có thể giúp tạo ra không gian cho một số công ty trong nước phát triển, các công ty này tới lượt chúng bị cản trở bởi những hạn chế với dòng chảy tự do thông tin và ý tưởng. Ngay cả trước đạo luật đó, vào năm 2016, Washington Post đã cho biết, theo Phòng Thương mại Mỹ tại Trung Quốc, bốn trong năm công ty thành viên của họ đã bị ảnh hưởng tiêu cực đến việc làm ăn vì các quy định và sự kiểm duyệt internet.

Tiến sĩ Creemers mô tả đảng là “công ty quản trị rủi ro tối thượng”, liên tục nhìn về phía đường chân trời tìm kiếm những dấu hiệu bất ổn chính trị. Ông tin rằng khi internet lần đầu tới Trung Quốc, nhà chức trách mất vài năm để tìm ra cách đối phó với nó, nhưng giờ họ rất rõ ràng về việc cần tập trung những nỗ lực vào đâu: “Chiến thuật quan trọng nhất mà chính quyền đã phát triển là ngăn chặn các nhóm đối lập tổ chức lại. Họ sẽ không cho phép các lợi ích nào xen ngang. Họ tin rằng họ phải chia rẽ người dân để họ không thể tổ chức lại theo giai cấp, vùng địa lý hay bất cứ thứ gì. Truyền thông truyền thống vốn được tổ chức sao cho chúng bị hạn chế; lấy ví dụ, các tờ báo chuyên môn về ngành thép, sẽ chỉ viết về thép, các tờ báo tỉnh chỉ có thể đưa tin về địa phương của họ. Nên ngay cả nếu một hãng tin nổi loạn, thiệt hại vẫn là hạn chế. Internet đã phá hỏng mô hình đó. Lần đầu tiên trong lịch sử hiện đại, mỗi cá nhân người Trung Quốc được tiếp cận các công cụ viễn thông ở quy mô lớn, và đã có vài năm internet trở nên mất kiểm soát. Một số người nghĩ chính quyền hoang tưởng, tôi thì không chắc, tôi nghĩ họ ý thức rất tỉnh táo về mọi chuyện.”

Ý thức được việc rủi ro đang tăng lên đối với độc quyền quyền lực của mình, Chủ tịch Tập đã đích thân lãnh đạo cuộc cách tân chiến lược mạng của Trung Quốc bằng cách ra lệnh cho những nhóm soạn thảo ra chiến lược đó báo cáo trực tiếp với ông. Với ông, sự lan truyền của viễn thông là một mối đe dọa tiềm tàng và vì thế sự kiểm duyệt phải bắt đầu ở trên cao nhất.

Tập là nhà lãnh đạo Trung Quốc đầu tiên lên nắm quyền có ý thức đầy đủ về triển vọng của internet. Từ khi nhậm chức vào năm 2013, ông đã đích thân giám sát toàn bộ chiến lược mạng của Trung Quốc, cả trong nước và với bên ngoài. Tất cả các đơn vị lớn của chính phủ về mạng báo cáo trực tiếp cho một ủy ban mà ông là chủ tịch. Ông đã sử dụng quyền lực này không chỉ để hoạch định chính sách, mà còn để tạo ra sự “tôn thờ cá nhân” xung quanh hình ảnh ông. Đảng thậm chí đã “ban cho” ông danh hiệu “lãnh đạo hạt nhân”, điều đặt ông vào điện thờ chỉ có Mao và Đặng, cho thấy điều rất gần với quyền lực tuyệt đối. Khuôn mặt nhà lãnh đạo hạt nhân giờ xuất hiện khắp nơi ở Trung Quốc, nhìn xuống bạn từ những bảng hiệu khổng lồ, trong các văn phòng và trên hàng triệu sản phẩm bán ở các cửa hàng du lịch khắp đất nước, từ Bắc Kinh và Thượng Hải tới Vạn Lý Trường Thành.

Ở Đại hội toàn quốc lần thứ 19 của đảng cộng sản vào cuối năm 2017 vị Chủ tịch lại củng cố quyền lực của ông thêm một bước. Ông đảm bảo việc những người ủng hộ ông được bầu vào bộ chính trị và tới lượt mình, họ thúc đẩy ý tưởng về “Tư tưởng Tập Cận Bình về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc trong thời đại mới”. Đấy là lần đầu tiên kể từ thời Mao, những ý tưởng của một nhà lãnh đạo được nâng tầm lên thành “tư tưởng”, mà trong thuật ngữ chính trị Trung Quốc có nghĩa là cao nhất. Nối tiếp, vào tháng Ba năm 2018 ông đã cho phép việc dỡ bỏ giới hạn hai nhiệm kỳ với vị trí chủ tịch nước, điều trên lý thuyết có thể cho phép ông làm chủ tịch cả đời.

* * *

Nhưng một sự chia rẽ về kỹ thuật số khác là giữa thiểu số người Trung Quốc nói tiếng Anh và những người không nói tiếng Anh. Gõ những chữ “quảng trường Thiên An Môn, nổi loạn, xe tăng” trong hộp tìm kiếm của Baidu bằng tiếng Đức và bạn có thể nhận được một đường dẫn, bằng tiếng Đức, về các sự kiện năm 1989. Gõ những chữ tương tự bằng tiếng Hoa và bạn có lẽ sẽ thấy: “Theo luật pháp, quy định và chính sách hiện hành, một số kết quả không được hiển thị”, hoặc nếu may mắn, bạn sẽ nhận được một bức ảnh ghép một trong những địa điểm du lịch hấp dẫn nhất thế giới đó.

David Bandurski, đồng giám đốc Dự án truyền thông Trung Quốc, đã lưu ý một cụm từ mới được Cục Quản lý Không gian mạng Trung Quốc sử dụng - “năng lượng tích cực”. Ông cho rằng đây là một uyển ngữ cho nội dung chấp nhận được với nhà chức trách, nhưng một số học giả Trung Quốc “quan ngại về khả năng một cuộc đàn áp nhắm vào những người phái hữu nhân danh thúc đẩy năng lượng tích cực”. Cho tới năm 2016, cục trưởng cục này là Lỗ Vĩ[8], một người hiểu quyền lực của thông tin. Lỗ đã leo cao từng bước ở Tân Hoa Xã trước khi đảm nhận cương vị quản lý mạng. Ông sau đó được thăng làm phó Ban Tuyên truyền trung ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, mà trên thực tế là người phó quản lý truyền thông trong cả nước. Lỗ là người đã nói đất nước ông “quản lý mạng với những đặc sắc Trung Quốc”, nhắc lại lời Đặng “chủ nghĩa xã hội với những đặc sắc Trung Quốc”. Lỗ nói thêm rằng đất nước ông “rất hiếu khách với thế giới bên ngoài, nhưng tôi được quyền chọn mời vị khách nào vào nhà mình”.

Kiểm duyệt internet ở Trung Quốc quả thật đã hạn chế tiềm năng kinh tế của nước này. Quốc gia này vẫn dẫn đầu thế giới về thương mại điện tử, với doanh số bán lẻ trên mạng chiếm 40% tổng doanh số toàn cầu, nhưng doanh số và đổi mới sáng tạo trong lĩnh vực bán lẻ internet là hai chuyện khác nhau. Trung Quốc muốn không chỉ tạo ra một thị trường nội địa lớn hơn, mà còn sản xuất ra những sản phẩm cao cấp và phát triển các công nghệ tiên phong. Họ ý thức rõ rằng dù điện thoại iPhone được sản xuất ở Trung Quốc, thiết kế và công nghệ của nó lại đến từ Thung lũng Silicon xa xôi.

Đó là cái giá mà chính quyền tin rằng đáng trả ở thời điểm này, như là đánh đổi lấy một phần của sự cân bằng và đánh cược với thời gian. Đảng cộng sản cần bảo đảm rằng họ có thể nuôi sống 1,4 tỉ người, tìm công ăn việc làm cho họ, tìm sản phẩm cho họ sản xuất, và tìm thị trường mà họ có thể bán những thứ đó. Cùng lúc, họ tin rằng họ phải phá tan khả năng đối lập có tổ chức, dù đó là các sinh viên ủng hộ dân chủ, những người Tây Tạng có tư duy độc lập, hay các nhóm tôn giáo kiểu Pháp Luân Công, hay thậm chí là những biểu hiện mang tính nghệ thuật về tự do. Nếu điều đó có nghĩa là phải ngăn lại dòng chảy tự do thông tin gây tổn hại cho kỳ tích kinh tế - thì cũng cứ làm như thế.

Tần Thủy Hoàng đã phá vỡ bức tường nội địa của các nước thời chiến quốc chỉ khi ông đã tự tin vào năng lực cố kết được các nước đó với nhau. Hơn 2.000 năm sau, quyền lực của giới lãnh đạo, và sự thống nhất của người Hán và quốc gia, vẫn là ưu tiên số một. Ngay cả nếu sự thống nhất đó có đạt được qua một bức tường kỹ thuật số ngăn cách Trung Quốc với phần còn lại của thế giới và chia rẽ chính bản thân đất nước này.

Chú thích.

[1] Tức Đại Vực hay Hẻm Núi Lớn, một thắng cảnh thiên nhiên hùng vĩ ở vườn quốc gia cùng tên thuộc bang Arizona, Hoa Kỳ. Hẻm núi do sông Colorado tạo ra, kéo dài suốt gần 450 kilômét, cao khoảng 800 mét và nhiều chỗ rộng hẹp khác nhau. (ND)

[2] John King Fairbank (1907-1991), sử gia lớn người Mỹ chuyên về Trung Quốc. Ông là giáo sư Đại học Harvard. Tên ông được đặt cho trung tâm nghiên cứu Trung Quốc của trường này. Fairbank cũng có một cái tên Trung Quốc: Phí Chính Thanh. (ND)

[3] Núi Lục Bàn ở Cố Nguyên, Ninh Hạ, nhìn xuống Trường Thành. Đây là bài từ “Lục Bàn sơn” theo điệu Thanh bình nhạc được Mao Trạch Đông làm năm 1935, sau khi kết thúc cuộc Trường Chinh. Phiên âm Hán Việt của đoạn thơ trên: “Thiên cao vân đạm, vọng đoạn nam phi nhạn. Bất đảo Trường Thành phi hảo hán, quật chỉ hành trình nhị vạn.”

(Chủ blog bổ xung bài "Lục Bàn sơn")

盤山  







西


Thanh bình nhạc - Lục Bàn sơn

Thiên cao vân đạm,

Vọng đoạn nam phi nhạn.

Bất đáo Trường Thành phi hảo hán,

Quật chỉ hành trình nhị vạn.


Lục Bàn sơn thượng cao phong,

Hồng kỳ mạn quyển tây phong.

Kim nhật trường anh tại thủ,

Hà thì phược trú Thương Long?

 

Dịch nghĩa

Trời cao mây nhạt

Chim nhạn bay hút về phương nam

Không đến Trường Thành không phải là con người dũng cảm

Tính đốt ngón tay đường đi dài hai vạn dặm


Trên đỉnh chót vót núi Lục Bàn

Lá cờ đỏ cuốn theo gió tây

Ngày nay đã nắm cái dây dài trong tay

Lúc nào sẽ trói được Thương Long?

Tháng 10-1935.

[4] George Orwell (1903-1950), văn hào người Anh. “Bộ Tình yêu” là một bộ thuộc chính quyền độc tài - nhà nước cảnh sát trong tiểu thuyết phản địa đàng giả tưởng của Orwell, 1984. (ND)

[5] Mike Wallace (1918-2012), nhà báo lớn người Mỹ, người dẫn đầu tiên của chương trình chính luận nổi tiếng của đài CBS 60 Minutes (tạm dịch: “60 phút”). (ND)

[6] – Võng lộ an toàn

[7] Khởi nghiệp ở đây là start-up, tức là một start-up làm về tin. (BT)

[8] (Lu Wei)

 


Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét