Một người Hà Nội
1.
Chúng tôi gọi là cô, cô Hiền, là chị em đôi con dì ruột với mẹ già tôi. Năm 1955, tôi từ kháng chiến trở về một Hà Nội nhỏ hơn trước, vắng hơn trước, còn họ hàng chỉ còn lại có dăm gia đình vì chồng và con đều đi theo cách mạng. Cô Hiền cũng ở lại, dầu cô chú vẫn sống ở Hà Nội suốt chín năm đánh Pháp, các con lại còn nhỏ, chả có dính líu gì với chính phủ “ngoài kia” cả. Họ ở lại chỉ vì không thể rời xa Hà Nội, không thể sinh cơ lập nghiệp ở một vùng đất khác. Lại thêm, chú tôi làm nghề giáo học, ông giáo dạy cấp tiểu học, là người cần thiết của mọi chế độ, chế độ cộng sản cũng phải khuyến khích trẻ con đi học, học văn hóa và học làm người. Còn chính trị, chính em là những lứa tuổi trên, học sinh tú tài và sinh viên đại học. Tính thế là đúng, nhưng tôi vẫn lo, thật ra không có gì đáng để phải lo nhưng tôi vẫn nghi ngại gia đình này rất khó gắn bó với chế độ mới và chế độ mới cũng không thể tin cậy được ở họ. Là vì họ ở rộng quá, một tòa nhà tọa lạc ngay tại một đường phố lớn, hướng nhà nhìn thẳng ra cây si cổ thụ và hậu cung của đền Ngọc Sơn. Với người vô sản, ở quá rộng là một cái tội, trong khi cán bộ và gia đình họ phải ở chen chúc trong những khu nhà tập thể, có khi phải ở ngay dưới gầm cầu thang của một nhà bạn bè. Cái mặc cũng sang trọng quá. Mùa đông ông mặc áo bađờxuy, đi giầy da, bà mặc áo măngtô cổ lông, đi giầy nhung đính hạt cườm. Lại cái ăn nữa cũng không giống với số đông. Bàn ăn trải khăn trắng, giữa bàn có một lọ hoa nhỏ, bát úp trên đĩa, đũa bọc trong giấy bản và từng người ngồi đúng chỗ đã quy định. Gia đình tôi thì ăn uống bình dân hơn, vợ chồng con cái ngồi xúm xít quanh cái mâm nhôm, thức ăn có khi múc ra bát ra đĩa, có khi cứ để nguyên trong nồi, nồi lớn đặt giữa mâm, nồi nhỏ đặt cạnh mâm, cứ việc sục muôi vào, sục đũa vào, vừa ăn vừa quát con mắng cái, nhồm nhoàm, hả hê, không cần phải khuôn bó theo một quy tắc nào cả. Ăn cốt để sống, để làm việc, hay hớm gì cái thứ lễ nghi rườm rà của… giai cấp tư sản. Tôi không dám thốt ra miệng nhưng vợ chồng vẫn bảo riêng nhau: “Cô Hiền đích thị là tư sản rồi. Đã là tư sản thì không thể tin cậy được. Việc mình mình biết, việc cô mặc cô, dính líu nhiều có ngày lại rắc rối”.
2.
Đã là người gốc Hà Nội thì không thể không
nghe nói tới sự giàu có lương thiện của cụ Tú Dâu Hàng Bạc, là nhà ở cuối Hàng
Bạc đầu Hàng Mắm. Xưa kia đất ấy là bến sông, mành Nghệ An chở nước mắm ra đổ
tại bến và bốc ngay lên nhà. Nước mắm đổ vào các kiệu chôn chìm trong đất, mỗi
lần thay phải dùng khăn bông trắng lau chùi sạch. Một dãy nhà chôn kiệu nước
mắm, và một gian nhà để tiền, tiền kẽm, mang một quan tiền kẽm đã phải vác vai.
Cụ Tú đậu tú tài khoa thi Hương cuối cùng khi tuổi đã lớn, sau đó là bỏ hắn bút
lông để theo bút sắt. Cụ Tú ngâm thơ vịnh nguyệt, ăn ở giao tiếp theo kiểu cách
nhà quan, dạy con cái cũng theo khuôn phép nhà quan, là cái phần hào nhoáng của
gia đình. Còn cái phần căn cốt, cái phần được người đời trọng thực, nể thực,
cái gian nhà tiền ấy đều do hai bàn tay đảm đang của bà vợ gầy dựng nên. Bà chỉ
buôn có nước mắm thôi. Thơ của cụ Tú được bạn bè khen nịnh chẳng qua là nhờ ở
cái mùi nước mắm Nghệ, nhờ ở cái mùi tiền từ các kiệu nước mắm, con cháu sau
này vẫn đùa vụng thế. Bà Tú Dâu là em ruột bà ngoại tôi và là chị ruột mẹ cô
Hiền. Hình như cả ba chị em đều lên ở Hà Nội cùng một thời, cái thời Pháp mới
sang, phố phường còn là nhà lá, nhưng chỉ có bà Tú là tiếng tăm hơn cả. Nhìn
những tấm ảnh các cụ chụp từ hồi đầu thế kỷ mà cảm động. Các cụ đều không được
đẹp, mặt vuông trán ngắn, mắt hẹp và dài lại hơi xếch một chút, gò má thì cao.
Cả ba cụ đều ăn mặc theo “mốt” của thời ấy: khăn vấn bỏ đuôi gà, áo tứ thân
bằng hàng tơ dệt thưa gọi là xuyến, mặc quần lĩnh Bưởi và đi hài. Ba bà đặc nhà
quê nhưng lại đẻ ra một loạt con gái rất tân thời. Khoảng cuối những năm 30, mẹ
già tôi vẫn còn để răng đen, nhưng đã vấn tóc trần đeo kiềng cổ và vòng tay
bằng vàng chạm vừa thô vừa nặng. Cô Hiền vào những năm ấy đã cạo răng trắng và
uốn tóc, mặc quần áo đồng màu, hoặc đen hết, hoặc trắng hết. Còn nữ trang thì
đã biết dùng đồ ngọc, bạch kim và hạt xoàn. Cũng vào những năm ấy một số gia
đình công chức cao cấp và quan lại, có cả mấy nhà buôn bán tơ lụa, thuốc bắc,
kim hoàn, cho con gái lớn mở phòng tiếp khách văn chương gọi là salon
littéraire để mời gọi mấy anh văn sĩ, thi sĩ mới nổi và các cậu sinh viên cao
đẳng. Khách văn chương là cái khung phải có, còn đám công tử một mai sẽ thành
quan đốc, quan trạng, quan huyện mới là những nhân vật chính của mọi mộng mơ
theo kiểu Tự lực văn đoàn. Ngôi nhà của gia đình cô Hiền cũng là một salon nổi
tiếng, không phải vì bố mẹ giàu hoặc sang mà vì cô con gái lớn quá đẹp, vừa đẹp
vừa thông minh, biết cách tự khoe bằng những mẩu chuyện rất duyên dáng của
mình. Tôi sở dĩ biết vô khối chuyện vặt vãnh của mấy ông Lan Khai, Đái Đức Tuấn
tức Tchya, Phùng Tất Đắc, Lê Văn Trương, Hồ Dzếnh… là do cô tôi kể lại cả. Ông
Trương còn nhờ cô đọc giùm bản thảo của nhiều cây bút chưa thành danh, một phần
vì tin ở cái tài thẩm định văn chương của cô, phần nữa cũng vì ông bận quá: bận
viết, bận hút và bận cách làm giàu. Tôi hỏi đùa: “Vậy cái ông Nam Cao là do cô
tìm được ra phải không?” Cô trả lời rất nghiêm trang: “Ông Lê Văn Trương tìm
ra. Là do ông ta nằm hút thuốc phiện ở nhà Trác Vỹ, tiện tay vớ lấy một chồng
bản thảo để kê đầu, rồi tiện tay lôi ra một tập để đọc, cái tập ấy có tên “Cái
lò gạch” do một cây bút hoàn toàn vô danh viết ra”. Nếu cô tôi cũng sính làm
thơ làm văn như người của thời bây giờ thì cũng có thể là một bà Lưu Thị Hạnh.
3.
Được sống năm đầu ở Hà Nội vừa giải phóng,
với lứa tuổi chúng tôi ngày ấy mới hăm bốn hăm nhăm cái xuân xanh, là cực kỳ
khoan khoái. Chín năm xa phố phường, xa ánh điện, không được vào rạp xem chiếu
bóng hoặc cải lương, không được vào một cái chợ đông người giữa ban ngày, bây
giờ mỗi ngày đều ở Hà Nội, mỗi đêm đều ở Hà Nội, mãi mãi còn ở Hà Nội. Chúng
tôi thì vui thế, tại sao những người vốn sống ở Hà Nội chưa thật vui nhỉ? Họ
đang tìm cách thích ứng với chế độ mới, cách sống, cách làm việc, cả cách nói
năng nữa. Một lần tôi đến thăm cô chú, thằng em trai đã 14, 15 tuổi chạy ra mở
cửa kêu ầm lên: “Mẹ ơi! Đồng chí Khải đến!”. Cô tôi cau mặt gắt: “Phải gọi là
anh Khải, hiểu chưa?” Bất đồ chú tôi cũng bước tới, nắm tay tôi rồi hỏi hồn
nhiên: “Tại sao chủ nhật trước đồng chí không ra chơi, cả nhà chờ cơm mãi”. Cô
tôi thở dài, quay người đi. Tôi nói: “Nước được độc lập vui quá cô nhỉ?” Cô trả
lời: “Vui hơi nhiều, nói cũng hơi nhiều, phải nghĩ đến làm ăn chứ?”. Theo cô,
chính phủ can thiệp vào nhiều việc của dân quá, nào phải tập thể dục mỗi sáng,
phải sinh hoạt văn nghệ mỗi tối, vợ chồng phải sống ra sao, trai gái phải yêu
nhau như thế nào, thậm chí cả tiền công xá cho kẻ ăn người ở. Về sau tổ dân phố
lại vận động nhau không nên nuôi người ở. Nhà này trước đây có hai người ở, một
anh bếp và một chị vú. Chị vú là vợ anh bếp, đẻ được đứa con nào lại đưa về quê
cho bà ngoại nuôi. Sau ngày giải phóng, cô tôi cho anh bếp về quê làm ruộng,
còn chị vú vẫn ở lại, vì chủ tớ còn cần dựa vào nhau. Mỗi ngày chị đi chợ, đều
có cán bộ bám theo, dò hỏi: “Chị có bị nhà chủ hành hạ không? Tiền công có được
trả đều đặn không? Thái độ chính trị của họ là như thế nào?” Chị vú gắt ầm lên:
“Nếu họ không tử tế thì tôi đã xéo từ lâu rồi không khiến anh phải xui”. Chị ta
kể lại chuyện đó cho cả nhà nghe, bình luận: “Cách mạng gì toàn để ý những
chuyện lặt vặt”.
Bây giờ thì chị vú đã
mất rồi, về quê được bốn năm thì mất. Chị trông con cho bà cô tôi từ năm 19
tuổi, đến năm 45 tuổi mới về quê, tình nghĩa như người trong họ. Anh chồng
không lấy vợ khác vì các con đã trưởng thành, anh làm chủ nhiệm một cửa hàng
mua bán của xã, ngày giỗ ông chú và ngày tết đều đem gạo, đậu xanh, miến và
rượu, toàn của nhà làm cả, lên biếu cô và các em.
4.
Trong lý lịch cán bộ tôi không ghi tên cô
Hiền. Họ thì xa, bắn súng đại bác chưa chắc đã tới, huống hồ còn là bà tư sản,
dính líu vào lại thêm phiền. Tôi vẫn đinh ninh cô phải thuộc giai cấp tư sản vì
cô có gương mặt đặc biệt là tư sản, càng già lại càng rõ. Tôi hỏi cô:
- Tại sao cô không phải
học tập cải tạo, cô giấu cũng tài nhỉ? Cô Hiền cười rất tươi:
- Tao chưa đủ tiêu
chuẩn.
Tôi cũng cười:
- Lại còn chưa đủ
- Tao có bộ mặt rất tư
sản, một cách sống rất tư sản, nhưng tao không bóc lột ai cả thì làm sao thành
tư sản được.
Tôi nín lặng vì đó là sự thật. Cửa hàng của
cô chỉ bán có một thứ: hoa giấy, các loại hoa giấy và các lẵng hoa đan bằng
tre, thêm ít bưu ảnh và sổ tay kỷ niệm. Hoa làm rất đẹp, bán rất đắt, nhưng
chịu thuế rất nhẹ, chỉ có một mình cô làm, các con thì chạy mua vật liệu, hoặc
làm giúp phần cuống lá vào dịp Tết ta và Tết tây. Nhiều bà bạn cũng tỏ ý ngờ
vực: “Trông bà như tư sản mà không bị học tập cũng lạ nhỉ?”. Cô tôi trả lời
thật nhẹ nhàng: “Các bà không biết nhưng nhà nước lại rất biết”. Tất nhiên là
cô khôn hơn các bà bạn của cô và cũng thức thời hơn ông chồng. Sau ngày Hà Nội
giải phóng cô vẫn có hai dinh cơ, một nhà đang ở và một nhà ở Hàng Bún cho
thuê. Ông làm nghề dạy học, con đông, đủ ăn là may, có tiền dư để tậu nhà là do
ông viết sách giáo khoa cấp tiểu học, được Nha Học chính công nhận và cho in
bán. Năm 56, cô bán ngôi nhà ở Hàng Bún cho một người bạn mới ở kháng chiến về.
Một năm sau, có một cán bộ tới hỏi về nhà cửa và có nhắc tới ngôi nhà ở Hàng
Bún. Cô trả lời tỉnh khô: “Xin mời anh tới ngôi nhà anh vừa nói, hỏi thẳng nhà
chủ xem họ trả lời ra sao. Nếu còn thắc mắc xin mời anh trở lại”. Cũng trong
năm 56, ông chú tôi muốn mua một máy in nhỏ để kinh doanh trong ngành in vì chế
độ mới không cho phép ông mở trường tư thục. Bà vợ hỏi lại: “Ông có đứng máy được
không?” Ông chồng trả lời: “Không”, “Ông có sắp chữ được không?” “Không”, “Ông
sẽ phải thuê thợ chứ gì. Đã có thợ tất có chủ, ông muốn làm một ông chủ dưới
chế độ này à?” Ông chồng tính vốn nhát, rút lui ngay. Cô kết luận với tôi: “Chế
độ này không thích cá nhân làm giàu, chỉ cần họ đủ ăn, thiếu ăn một chút càng
hay, thiếu ăn là vinh chứ không phải là nhục, nên tao cũng chỉ cần đủ ăn”. Làm
hoa giấy không thể làm giàu được nhưng rất đủ ăn, lại nhàn, lại không phải lo
sợ gì. Tôi hỏi lại: “Còn chú, còn các em?” - “Chú tuy chưa già nhưng đành để
ngồi chơi, các em sẽ đi làm cán bộ, tao sẽ phải nuôi một lũ ăn bám, dầu họ có
đủ tài để không phải sống ăn bám”.
5.
Cô Hiền bên ngoại, chị Đại bên nội là những
người đàn bà có đầu óc rất thực tế. Mọi sự mọi việc đều được các bà ấy tính
toán trước cả. Và luôn luôn tính đúng vì không có lòng tự ái, sự ganh đua, thói
thời thượng chen vô. Không có cả sự lãng mạn hay mơ mộng vớ vẩn. Đã tính là
làm, đã làm là không thèm để ý đến những đàm tiếu của thiên hạ. Cô tuyên bố thẳng
thừng với tôi: “Một đời tao chưa từng bị ai cám dỗ, kể cả chế độ”. Gần ba chục
tuổi cô mới đi lấy chồng, không lấy một ông quan nào hết, cũng chả hứa hẹn gì
với đám nghệ sĩ văn nhân, đùa vui một thời son trẻ thế là đủ, bây giờ phải làm
vợ, làm mẹ, cô chọn bạn trăm năm là một ông giáo cấp tiểu học hiền lành, chăm
chỉ, khiến cả Hà Nội phải kinh ngạc. Có gì mà kinh ngạc, cô đã tính trước cả.
Sau khi sinh đứa con gái út, người con thứ năm, cô nói với chồng: “Từ nay là
chấm dứt chuyện sinh đẻ, bốn mươi tuổi rồi, nếu ông và tôi sống đến sáu chục
thì con út đã hai mươi, có thể tự lập được khỏi phải sống bám vào các anh chị”.
Là thôi hẳn. Cô bảo tôi: “Mày bắt nạt vợ mày quá, không để nó tự quyết định bất
cứ việc gì, vậy là hỏng. Người đàn bà không là nội tướng thì cái gia đình ấy
cũng chả ra sao”. Khi các con còn nhỏ, ngồi vào bàn ăn cô thường chú ý sửa chữa
cách ngồi, cách cầm bát cầm đũa, cách múc canh, cả cách nói chuyện trong bữa
ăn. Cô vẫn răn lũ con tôi: “Chúng mày là người Hà Nội thì cách đi đứng nói năng
phải có chuẩn, không được sống tùy tiện, buông tuồng”. Có lần tôi cãi: “Chúng
tôi là người của thời loạn, các cụ lại bắt dạy con cái theo thời bình là khó
lắm”. Cô ngồi ngẩn ra một lúc, rồi bảo: “Tao chỉ dạy chúng nó biết tự trọng,
biết xấu hổ còn sau này muốn sống ra sao là tùy”.
Đầu năm 1965, Hà Nội có đợt tuyển quân vào
chiến đấu trong Nam, là đợt đầu tiên nên tuyển chọn rất kỹ càng, lứa tuổi từ 18
đến 25, diễn viên cải lương và kịch nói có, nhạc sĩ có, họa sĩ có, giáo viên
trung học rất đông, là những chàng trai ưu tú của Hà Nội. Nghe nói khoảng sáu
trăm sáu mươi người. Người con trai đầu của cô Hiền vừa tốt nghiệp trung học,
tình nguyện đăng ký xin đi đánh Mỹ. Tháng 4 năm 65, lên Thái Nguyên huấn luyện.
Tháng 7 rời Thái Nguyên vào Nam. Họ có dừng lại Hà Nội vài giờ vào lúc tối,
nhưng không một ai biết. Tôi hỏi cô: “Cô bằng lòng cho em đi chiến đấu chứ?”.
Cô trả lời: “Tao đau đớn mà bằng lòng, vì tao không muốn nó sống bám vào sự hy
sinh của bạn bè. Nó dám đi cũng là biết tự trọng”. Ba năm cô không nhận được
một tin tức gì về đứa con đã ra đi, lại đến thằng em kế làm đơn xin tòng quân,
cũng đòi vào chiến trường phía trong để gặp anh, nếu anh đã hy sinh thì nối
tiếp chí hướng của anh. Tôi lại hỏi cô: “Cô cũng đồng ý cho nó đi à?” Cô trả
lời buồn bã: “Tao không khuyến khích, cũng không ngăn cản, ngăn cản tức là bảo
nó tìm đường sống để các bạn nói phải chết, cũng là một cách giết chết nó”. Rồi
cô chép miệng: “Tao cũng muốn được sống bình đẳng với các bà mẹ khác, hoặc sống
cả hoặc chết cả, vui lẻ thì có hay hớm gì”. Cũng may chú em tôi học rất giỏi,
thi vào đại học với số điểm rất cao, nên nhà trường giữ lại. Tôi đến chúc mừng
cô và em, cô nói: “Hiện tại thì nó may hơn anh nó, nhưng nếu anh nó còn sống
rồi cũng chưa biết đứa nào may hơn đứa nào”. Cô tôi tính toán việc nhà việc
nước đại khái là như thế.
6.
Tháng 12 năm 75, cô Hiền cho con gái xuống
nhà gọi vợ chồng tôi tới ăn liên hoan mừng em Dũng đã về. Cô nói: “Nó đeo ba lô
bước vào đến giữa nhà, tao còn hỏi, anh muốn mua gì?”. Tôi cũng không thể nhận
ra nếu được gặp đồng chí thượng úy này ở đâu đó. Gầy ốm quá, da đen quá, râu
ria cũng nhiều quá, chả còn tý dấu vết gì là một chàng trai của Hà Nội. Trong
mấy chục năm sống dưới chế độ ta, mỗi tháng cô chú đều tổ chức một bữa ăn bạn
bè, gồm các cựu công dân Hà Nội, những tên tuổi đã thành danh của đất kinh kỳ.
Khoảng mươi, mười lăm người gì đó. Cửa hàng đóng từ chiều, các bà lần lượt đến
trước, xông ngay vào bếp cùng làm cơm, các ông đến sau, mũ dạ, áo bađờxuy, bỏ
áo khoác ngoài bên trong còn mặc đồ bộ, thắt càvạt, nhưng đã sờn bạc cũ kỹ.
Tiệc đã bày xong, vẫn chỉ có mấy ông ngồi tán suông chứ chưa thấy các bà. Rồi
cửa trong mở, bà chủ xuất hiện trước như diễn viên trên sân khấu, lược giắt
trâm cài hoa hột lấp lánh, rồi một loạt bảy tám bà tóc đã bạc hoặc nửa xanh nửa
bạc, áo nhung, áo dạ, đeo ngọc đeo dây đi lại uyển chuyển. Ngày thường các bà
mặc áo bông ngắn, quần thâm, đi dép đi guốc, vuông khăn len tơi tớp buộc cổ hay
bịt đầu, là các cô Lọ Lem của mỗi ngày, có phải trò chuyện mình cũng dễ ăn nói
buông tuồng, thiếu ý tứ. Tất cả là bình dân, tất cả đều có quyền ăn nói thô
tục. Còn lúc này, toàn là những người quý phái mình phải xử sự ra sao nhỉ? Cô
hỏi tôi: “Xã hội nào cũng phải có một giai tầng thượng lưu của nó để làm chuẩn
cho mọi giá trị. Theo anh, ở xã hội ta là tầng lớp nào?” Tôi cười phá lên:
“Thưa cô, là bọn lính chúng tôi, là giai cấp lính chúng tôi chứ còn ai nữa”.
Cho nên cái mùi lính tráng thâm nhiễm vào mọi nơi mọi chỗ, quan hệ kiểu lính,
vui chơi kiểu lính, ăn nói kiểu lính, văn chương cũng là một mùi lính. Là người
lính vừa chiến thắng, người lính đang được cả xã hội trọng vọng. Còn bây giờ,
sau bữa tiệc mừng đại thắng mười lăm năm, tầng lớp lính đã mất ngôi vị độc tôn
của mình rồi. Bây giờ là thời các giám đốc công ty, các tổng giám đốc công ty, các
cố vấn, chuyên viên kinh tế thật giả đủ loại lên ngôi ban phát mọi tiêu chuẩn
giá trị cho cả xã hội. Tôi xin trở lại cái bữa tiệc của buổi tối hôm ấy, bữa
tiệc của mấy người thượng lưu của Hà Nội đã mất ngôi tiếp đãi, chiều nịnh hai
anh bộ đội từ một thành phố lớn nhất nước trở về. Nói cho thật, Dũng mới là
nhân vật chính, còn tôi chỉ là một loại nhân vật phụ, ghé gẩm vào cái vinh
quang chung mà thôi. Trong bữa tiệc hình như tôi nói có hơi nhiều, nói về thành
phố Sài Gòn rộng hơn, đông hơn, đẹp hơn cái Hà Nội của mình, về người dân Sài
Gòn cũng lịch thiệp nhã nhặn hơn người dân Hà Nội. Những người ngồi nghe đều
nín lặng, không một ai hỏi lại, không một ai bình phẩm gì thêm. Tôi đã nói điều
gì thất thố? Một ông già hướng mặt về phía Dũng bảo: “Đồng chí bộ đội có chuyện
gì vui kể nghe nào?” Dũng nói: “Thưa các bác, chỉ có những chuyện không được
vui lắm”. Một bà nói: “Cứ nói, người đi xa về có quyền muốn nói gì thì nói”.
Dũng nói rằng trong nửa năm nay anh không ngớt nghĩ về những người từ Hà Nội ra
đi cách đây đúng mười năm. Sáu trăm sáu mươi người. Bây giờ còn lại khoảng
chừng trên dưới bốn chục. Anh kể về một người bạn cùng trung đoàn, cùng một cấp
thượng úy, tên là Tuất. Khi chuyến tàu từ Thái Nguyên tiến vào ga Hà Nội đã gần
nửa đêm. Vừa mưa to xong, ánh điện lòa nhòa trên lá cây, trên những mặt đường
vắng hun hút, trên sân ga Hà Nội. Tàu vừa dừng lại thì đâu đó bật lên tiếng loa
rất sâu, rất vang: “Quý khách chú ý! Quý khách chú ý! Chuyến tàu từ Thái
Nguyên…” Tuất ngồi cạnh Dũng chợt nhoài người qua mặt bạn, gần như đưa cả nửa
thân người qua khuôn cửa sổ, hất mặt lên phía có tiếng loa, kêu nho nhỏ: “Dũng
ơi, Dũng, tiếng của mẹ mình đấy! Tiếng của mẹ đấy!…” Không một ai được phép rời
khỏi toa tàu, không một người thân nào được biết trước để chờ sẵn ở sân ga, để
được nhìn nhau lần cuối, nói với nhau một lời cuối. Tất cả đều phải bí mật.
Dũng kể tiếp:
- Thằng Tuất hy sinh ở
trận đánh vào Xuân Lộc, trước ngày toàn thắng có mấy ngày. Cháu về Hà Nội là
muốn nhào ngay lại nhà ga, đến phòng phát thanh, gặp mẹ Tuất, nói với bà một
lời, vì bọn cháu vẫn ở cạnh nhau trong suốt mười năm. Vậy mà phải mấy ngày sau
cháu mới dám đến. Cháu biết nói thế nào với một bà mẹ có con hy sinh, mà bạn
của con mình lại vẫn còn sống, sống đến bây giờ, đến hôm nay. Bà bước ra giữa
một đám đông nhưng cháu vẫn nhận ngay được là mẹ của Tuất. Tuất vẫn nói là hắn
giống mẹ hơn giống cha. Cháu chỉ vừa kịp nói: Thưa cô, cháu là Dũng… nước mắt
đã đầm đìa, rồi cháu òa khóc y hệt như một đứa trẻ. Bà níu chặt lấy một cánh
tay của cháu nhưng không khóc, người bà run bần bật nhưng không khóc, và bà nói
run rẩy: “Nín đi con, nín đi Dũng. Cô đã biết cả. Cô biết từ mấy tháng nay
rồi”.
7.
Nhiều năm đã trôi qua. Tôi sống ở thành phố
Hồ Chí Minh thỉnh thoảng có việc phải ra Hà Nội đều ghé lại thăm cô Hiền. Chú
tôi đã mất rồi. Các em đã có gia đình riêng. Chúng nó cũng đã bắt đầu già. Lớp
các cụ trong họ chỉ còn vài người, cô Hiền là một. Cô đã yếu nhiều, đã già hẳn,
ngoài bảy mươi rồi còn gì, nhưng cô vẫn là người của hôm nay, một người Hà Nội
của hôm nay, thuần túy Hà Nội, không pha trộn. Nơi tiếp khách của cô sau tấm
bình phong cao hơn đầu người bằng gỗ chạm suốt mấy chục năm không hề thay đổi.
Một bộ sa lông gụ “cái khánh”, cái sập gụ chân quỳ chạm rất đẹp nhưng không
khảm, cái tủ chùa một cánh bên trong bày một cái lọ men Thúy hồng, một cái lư
hương đời Hán, một cái liễn hấp sâm Giang Tây, và mấy thứ bình lọ màu men thì
thường nhưng có dáng lạ, chả rõ từ đời nào. Cô đang lau đánh một cách bát thủy
tiên men đỏ, hai cái đầu rồng gắn nối bằng đồng, miệng chân cũng đều bịt đồng,
thật đẹp. Bên ngoài trời rét, mưa rây lả lướt chỉ đủ làm ẩm áo chứ không làm
ướt, lại nhìn một bà lão (nếu là một thiếu nữ thì phải hơn) lau đánh cái bát
bày thủy tiên thấy tết quá, Hà Nội quá, muốn ở thêm ít ngày ăn lại một cái tết
Hà Nội. Năm nay chắc chưa thể có thủy tiên. Dân Hà Nội nhảy tàu lên Lạng Sơn
buôn bán đủ thứ mà không buôn được vài ngàn củ thủy tiên nhỉ? Ví thử có thủy
tiên liệu còn có người biết gọt tỉa thủy tiên? Lại thêm cái cách sống, cái tâm
lý sống ồ ạt, xô bồ, vụ lợi của đám người vừa thoát khỏi cái chết cái khổ đã dễ
gì có được sự bình tĩnh để thưởng thức vẻ đẹp trang trọng của một rò hoa thủy
tiên. Cô Hiền hỏi:
- Anh ra Hà Nội lần này
thấy phố xá thế nào, dân tình thế nào?
Tôi vừa cười vừa nói:
- Chưa bao giờ Hà Nội
vui như bây giờ. Phố xá vui, mặt người vui.
- Nhiều người nói Hà
Nội đã sống lại.
Tôi nói:
- Có đúng một phần,
phần xác thôi, còn phần hồn thì chưa. Cứ nhìn nghe những người Hà Nội buôn bán,
ăn uống, nói năng, cư xử với nhau ở ngoài đường là đủ rõ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét