Lâm Đại Ngọc là người con gái dung mạo tuyệt sắc, là một tâm hồn thi phú đích thực nhưng vô cùng nhạy cảm và mảnh mai, lại phải cảnh ăn nhờ ở đậu nên tính tình càng thêm sầu bi, cô độc. Tranh Tôn Ôn. |
Hồi
12.
Vương
Hy Phượng độc ác, bày cuộc tương tư;
Giả
Thiên Tường chết oan, soi gương phong nguyệt.
Phượng Thư đang nói chuyện với Bình Nhi thì có người vào báo:
Cậu Thụy đến.
Phượng Thư bảo: Mời vào đây!
Giả Thụy thấy mời, trong bụng mừng thầm,
vội vã vào ngay. Khi gặp Phượng Thư, hắn vui vẻ chào hỏi luôn mồm.
Phượng Thư làm ra dáng ân cần, mời hắn
ngồi uống nước. Giả Thụy thấy Phượng Thư trang điểm, càng thêm say sưa, liền
lim dim mắt hỏi:
Anh nhà sao mà chưa về?
Không biết tại làm sao?
Hay là đi đường lại có ai buộc chân,
nên không về được?
Cũng có lẽ, thế mới biết bọn đàn ông bạ
người nào yêu người ấy.
Giả Thụy cười nói: Chị lầm rồi, tôi
thì không phải hạng người ấy đâu. Phượng Thư cười nói:
Mấy người được như chú? Mười người
chưa chắc đã được một. Giả Thụy nghe nói mừng lắm, gãi mặt gãi tai, nói:
Chắc ngày nào chị cũng buồn lắm thì phải?
Đúng đấy, chỉ mong có người đến chơi
nói chuyện cho đỡ buồn.
Tôi thì ngày nào cũng rỗi, thỉnh thoảng
đến chơi với chị cho đỡ buồn, có được không?
Chú nói đùa đấy chứ, khi nào chịu đến
đây?
Trước mặt chị, nếu tôi nói dối, thì trời
đánh thánh vật! Chỉ vì thường nghe nói chị ghê gớm lắm, đối với chị, hơi sơ suất
một tí cũng không được, cho nên tôi sợ không dám đến. Nay thấy chị là người vui
vẻ, rất thương người, sao tôi lại không đến? Dù có chết cũng cam lòng.
Phượng Thư cười nói: Chú là người tinh
ranh hơn anh em cháu Dung nhiều! Mặt mũi họ sáng sủa thế, cứ tưởng bụng họ cũng
tinh ranh, hay đâu họ đều là hạng lẩn thẩn. Chẳng hiểu bụng người ta một tí
nào.
Giả Thụy nghe nói, bụng càng rộn rực,
toan sấn lại ngắm nghía cái túi của Phượng Thư. Lại hỏi Phượng Thư đeo cái nhẫn
gì?
Phượng Thư khẽ nói:
Đứng đắn một tí nào! Đừng để bọn người
nhà trông thấy.
Giả Thụy nghe, tưởng chừng như những lời
vua ban, phật dạy, vội lùi ra xa. Phượng Thư cười bảo: Thôi hãy về đi.
Tôi ngồi lại đây một lúc nữa. Chị nhẫn
tâm thế!
Ban ngày ban mặt, kẻ đi người lại
luôn, ngồi lại đây sao tiện. Hãy về đi! Đến tối, độ đầu canh một lẩn đến cái
nhà trống phía tây chờ tôi.
Giả Thụy nghe nói, như được của báu, vội
nói:
Đừng đánh lừa nhé. Nhưng chỗ ấy nhiều
người đi lại lắm, núp vào đâu được?
Cứ yên chí. Tôi cho những đứa canh đêm
nghỉ hết, hai bên đóng cửa lại, chẳng còn có ai đâu.
Giả Thụy nghe nói, mừng quá, vội cáo từ,
trong bụng chắc mẩm. Chờ đến chiều tối, hắn mò sang phủ Vinh. Đương lúc sắp
đóng cửa, hắn lẻn vào cái nhà trống, quả thấy tối om, chẳng có người nào đi lại.
Cửa sang bên nhà Giả mẫu đã khóa rồi, chỉ còn cửa phía đông chưa đóng. Giả Thụy
lắng nghe giờ lâu chẳng thấy ai đến. Chợt nghe tiếng lách cách, cửa phía đông
cũng đóng hết. Giả Thụy sốt ruột, nhưng không dám lên tiếng, khe khẽ lần đến đẩy
mấy cái, thấy cửa đóng chặt như thùng sắt. Bấy giờ hắn muốn ra cũng không được.
Phía nam, phía bắc đều là tường cao, muốn trèo cũng không có chỗ vịn. Chỗ ấy lại
là nơi gió lùa, chung quanh trống hốc. Trời tháng chạp đêm dài, gió bấc thổi
hun hút, rét buốt đến xương, ai đứng đó một đêm có thể chết cứng được. Chờ mãi
đến mờ sáng, thấy một bà già mở cửa phía đông, rồi sang gọi cửa phía tây. Lúc
bà già ngoảnh mặt đi, hắn liền cắm đầu cắm cổ chạy biến mất. May trời còn sớm,
chưa ai dậy, hắn lẻn ra cửa sau chạy một mạch về nhà.
Vì bố mẹ mất sớm, Giả Thụy ở với ông
là Giả Đại Nho. Đại Nho dạy cháu rất nghiêm, không cho ra ngoài một bước, sợ
cháu uống rượu đánh bạc, học trai gái gì chăng, hại đến việc học. Nay thấy cháu
suốt đêm không về, Đại Nho rất bực bội, cho là không rượu chè thì cờ bạc hoặc
trai gái, hát xướng chứ ngờ đâu lại là cái chuyện tội nợ ấy. Giả Thụy sợ toát mồ
hôi, phải nói dối:
Đến thăm cậu, trời tối quá, cậu giữ ngủ
lại một đêm. Đại Nho nói:
Xưa nay mày đi đâu là phải xin phép
tao, sao hôm qua lại dám tự tiện lẻn đi, như thế đã đáng đánh đòn rồi, huống
chi lại còn nói dối.
Bèn đánh Giả Thụy ba bốn chục roi thật
đau, lại không cho ăn cơm, bắt phải quỳ học bù mười buổi mới tha. Giả Thụy bị
rét một đêm, lại bị một trận đòn đau, phải nhịn đói, quỳ ở dưới đất mà học, khổ
sở muôn phần.
Nhưng lòng tà vẫn chưa chịu bỏ, Giả Thụy
vẫn chưa biết mưu chước của Phượng Thư. Qua vài ngày được lúc rỗi, hắn lại tìm
đến. Phượng Thư làm ra bộ trách móc sai hẹn. Giả Thụy vội vàng thề ngay. Phượng
Thư thấy hắn tự đâm đầu vào tròng, lại bày mẹo khác để cho hắn tỉnh ngộ. Bèn giả
cách hẹn:
Tối hôm nay đừng đến chỗ cũ nữa, cứ đến
chờ ở cái gian nhà bỏ không, có đường rẽ sang buồng tôi, đừng có lầm đấy!
Thực thế chứ?
Không tin thì đừng đến!
Thế nào cũng đến, nhất định đến, dù chết
cũng đến.
Bây giờ hãy về đi.
Giả Thụy chắc mẩm tối ấy thế nào cũng ổn
chuyện ra về ngay. Bấy giờ Phượng Thư mới điều binh khiển tướng, đặt sẵn vòng vây.
Giả Thụy chỉ mong sao chóng tối, chờ
mãi cho đến chiều, không ngờ lại có người trong họ đến chơi, ăn cơm tối xong mới
về. Đến lúc lên đèn hắn lại phải đợi cho ông đi ngủ rồi mới lẻn sang phủ Vinh,
đứng chờ ở chỗ hẹn. Hắn đi đi lại lại, loanh quanh, luống cuống như kiến bò
trên nồi nước sôi. Bên trái chẳng thấy bóng người, bên phải chẳng có tiếng động.
Hắn vừa sợ vừa ngờ: “Hay là không đến, lại làm cho ta chịu rét một đêm nữa
chăng?”
Đương lúc phân vân, thấy lù lù một
bóng đen đi đến, Giả Thụy đoán chắc là Phượng Thư. Người ấy vừa đến gần, Giả Thụy
ôm chầm lấy, như hổ đói vồ mồi, mèo đói vồ chuột, nói: “Chị ơi! Làm tôi chờ lâu
chết đi được!” Hắn ôm ngay lên giường, hôn hít, cởi dải quần, rồi cứ “cha ôi! mẹ
ôi!” kêu cuống cuồng lên. Người ấy lặng yên chẳng nói gì. Giả Thụy cũng đang cởi
dải quần định nhập cuộc. Chợt có bóng đèn lóe sáng. Giả Tường cầm nến soi, hỏi:
Ai ở trong nhà ấy?
Người nằm trên giường té ra là Giả
Dung cười nói:
Chú Thụy định hiếp tôi đấy!
Giả Thụy xấu hổ quá, không lẩn vào chỗ
nào được, quay mình toan chạy. Giả Tường giữ lại, bảo:
Không được chạy! Thím Liễn đã trình với
bà Hai là chú đến ghẹo thím ấy. Thím ấy dùng kế giữ được chú ở đây. Bà Hai nghe
nói, tức lộn ruột, bảo đến bắt chú. Chú phải theo tôi đi ngay!
Giả Thụy sợ hết hồn, nói:
Cháu ơi! Cháu cứ nói là không tìm thấy
chú, ngày mai chú sẽ hậu tạ.
Giả Thụy bị Phường thư lừa lần 2, ôm nhầm Giả Dung. |
Giả Tường nói: Tha chú cũng chẳng sao, nhưng chú định tạ bao nhiêu? Nói miệng không được, phải viết văn tự.
Giả Thụy nói: Viết thì viết thế nào?
Có khó gì, cứ nói là chú thua bạc, vay
bao nhiêu lạng là xong.
Điều ấy cũng dễ thôi, nhưng không có
giấy bút.
Giả Tường lấy giấy bút, ra vẻ làm phúc
làm đức, bắt Giả Thụy phải viết văn tự và ký tên vay 50 lạng. Xong xuôi đâu đấy,
hắn lại bắt điều đình với Giả Dung. Lúc đầu Giả Dung nhất định không nghe, chỉ
nói: “Ngày mai báo cho cả họ biết, xem họ phân xử ra sao!” Giả Thụy kêu van
mãi, sau phải sụp xuống lạy, Giả Dung mới làm ra vẻ nhân từ, bắt Giả Thụy phải
viết một bức văn tự vay 50 lạng bạc nữa mới thôi.
Giả Tường lại nói:
Bây giờ tha chú ngay, tôi phải chịu lỗi.
Cửa bên buồng cụ đóng rồi; ông tôi đang ngồi ở trên nhà khách xem những thứ ở
Nam Kinh gửi đến, lối ấy cũng khó đi lọt. Nay chỉ có thể lẻn đi ra cửa sau.
Nhưng đi lối ấy mà gặp người thì cả tôi cũng có lỗi. Chờ tôi đi trước dò xem
sao, rồi sẽ về đưa chú đi. Chú đứng nấp ở đây cũng không yên, lát nữa người ta
còn chất nhiều thứ ở đây. Để tôi đi tìm chỗ khác.
Giả Tường tắt đèn, dắt Giả Thụy ra
ngoài, lần mò đến dưới thềm nhà, bảo:
Chỗ này nấp được, chú hãy ngồi đây,
không được lên tiếng. Đợi tôi đến sẽ đi.
Giả Thụy không làm thế nào được, đành
phải ngồi chồm hỗm ở dưới thềm. Đang lúc lo nghĩ, chợt ở trên đỉnh đầu, nghe ào
một tiếng, một thùng vừa cứt vừa nước đái đổ xuống suốt từ đầu đến chân, Giả Thụy
“ối chào” một tiếng, vội bưng miệng, không dám kêu to, đầu và mặt đầy những cứt
đái, người lạnh như băng, run cầm cập. Giả Tường chạy lại bảo “Chạy mau! Chạy
mau!” Giả Thụy được lệnh, ba chân bốn cẳng, từ cửa sau chạy về. Bấy giờ đêm đã
canh ba, phải gọi cửa.
Người nhà trông thấy quang cảnh như thế,
hỏi: “Làm sao thế?” Giả Thụy phải nói dối “Trời tối nhỡ chân ngã xuống hố xí”.
Rồi vào buồng tắm rửa, thay quần áo. Bấy giờ hắn mới biết Phượng Thư lừa mình,
tức giận một hồi, nhưng lại nghĩ đến bóng dáng yểu điệu của nàng, tiếc không được
ôm ngay vào lòng. Hắn nghĩ vơ nghĩ vẩn suốt đêm, không chợp mắt. Từ đó, trong
lòng vẫn tơ tưởng Phượng Thư, nhưng không dám bén mảng đến phủ Vinh nữa.
Bọn Giả Dung thường đến đòi nợ, Giả Thụy
sợ ông biết, bệnh tương tư đã khổ lắm rồi, huống chi lại mắc thêm mấy món nợ nữa.
Việc học hàng ngày lại rất nghiêm. Với con người mới hai mươi tuổi đầu, chưa có
vợ, mơ tưởng Phượng Thư không toại nguyện, tránh sao khỏi ngón tay rầy dã rành
rơi102, gia dĩ, hai lần bị rét và đi lại đêm
hôm vất vả. Mấy mặt dồn dập tấn công, hắn đâm ra mắc bệnh: bụng đầy, miệng nhạt,
chân run, mắt cay, đêm sốt, ngày mỏi mệt, đi đái dắt, di tinh, ho ra máu… Chưa
đầy một năm, bệnh cứ nặng lên. Không gượng được nữa, hắn phải nằm liệt trên giường,
hễ nhắm mắt lại mê mẩn bàng hoàng, sợ hãi, hoảng hốt, nói nhảm luôn mồm. Thầy
thuốc xoay xở hết cách, nhục quế, phụ tử, miết giáp, mạch đông, ngọc trúc, uống
hàng mấy chục cân, vẫn không thấy chuyển. Hết đông sang xuân, bệnh hắn càng nặng.
Đại Nho lo lắng, tìm đủ thầy, đủ thuốc, cũng chẳng thấy công hiệu gì. Sau uống
đến bài “độc sâm”, nhưng nhà Đại Nho sức đâu mà kiếm ra được, phải sang xin ở
phủ Vinh.
Vương phu nhân bảo Phượng Thư cân cho
hai lạng. Phượng Thư nói:
Hôm nọ đã mang ra chế thuốc cho bà rồi;
mẹ lại bảo giữ lại một ít để biếu bà Dương đề đốc, con đã cho mang biếu hết cả
rồi.
Vương phu nhân nói:
Bên này hết thì cho hỏi bên mẹ chồng
cháu hay anh Trân cố kiếm thêm cho đủ để giúp người ta, cứu người được cũng là việc
phúc đức đấy.
Phượng Thư vâng lời, nhưng không cho
người đi hỏi, chỉ lấy mấy đồng sâm vụn cho người mang đi, bảo là bà Hai cho đấy.
Nếu xin thêm thì không còn nữa. Rồi đến thưa với Vương phu nhân: “Đã kiếm được
hai lạng và cho người mang đi rồi”.
Giả Thụy muốn chóng khỏi bệnh, thuốc
nào cũng uống, tiền mất tật mang, chả ăn thua gì. Một hôm có vị đạo sĩ khiễng
chân đi hành khất, nói là chữa được bệnh oan nghiệt. Giả Thụy nằm trong nhà
nghe thấy, kêu to: “Ra mời ngay vị phật sống ấy vào cứu tôi”. Rồi hắn cứ dập đầu
xuống gối lạy lấy lạy để. Khi người nhà đưa vị đạo sĩ vào, Giả Thụy kéo ngay lấy
tay kêu luôn:
Nhờ phật sống cứu tôi!
Đạo sĩ thở dài:
Bệnh ngươi không thể chữa bằng thuốc
được! Ta đưa cho ngươi cái “bảo bối” này, ngày ngày ngươi ngắm vào đấy mới có
thể cứu được.
Đạo sĩ lấy ở trong tay nải ra đưa cho
Giả Thụy một cái gương soi cả hai mặt. Đằng sau gương khắc bốn chữ “Phong nguyệt
bảo giám”103 và nói:
Gương này lấy ở đền Không Linh trong
cõi Thái Hư Ảo Cảnh, do vị tiên Cảnh Ảo làm ra, có công giúp người đời bảo toàn
tính mệnh. Vì thế, ta mang xuống trần chỉ để cho những bọn vương tôn công tử tuấn
tú phong lưu soi thôi. Nhưng chỉ nên soi mặt trái, không được soi mặt phải. Cẩn
thận đấy! Soi ngay đi! Ba ngày nữa ta lại lấy, chắc bệnh ngươi sẽ khỏi.
Nói xong, thong dong đi ra, ai giữ
cũng không chịu ở. Giả Thụy cầm lấy gương nghĩ thầm:
Đạo sĩ này chắc có ý gì đây! Ta hãy
soi thử xem sao?
Giả Thụy bị quỷ bắt xuống địa ngục
Bèn cầm gương mang mặt trái ra soi, thấy
trong có bộ xương người. Giả Thụy sợ quá, vội giấu gương đi, mắng: “Đồ láo! Làm
sao lại dọa ta! Ta hãy soi mặt phải xem sao?” Bèn soi mặt phải, thấy Phượng Thư
đứng ở trong, vẫy tay gọi. Giả Thụy mừng lắm, mê mẩn đi vào trong gương, cùng
Phượng Thư vui cuộc mây mưa, rồi Phượng Thư lại đưa ra nằm trên giường. Giả Thụy
kêu “ái chà” một tiếng, bừng mắt ra, cái gương tự nhiên lật lại mặt trái, vẫn
thấy một bộ xương người đứng sừng sững ở trong. Giả Thụy mồ hôi đầm đìa, dưới
quần tinh thoát ra một đống. Dục tình vẫn chưa được thỏa, hắn lại quay mặt phải
ra soi, thấy Phượng Thư lại vẫy tay gọi, hắn lại đi vào trong gương, cứ thế ba
bốn lần. Đến lần cuối cùng vừa mới ở trong gương ra, thấy hai người chạy lại
mang xích sắt khóa tay lôi đi, Giả Thụy kêu “Để cho tôi lấy cái gương đã”. Rồi
im bặt, không nói được nữa.
Những người hầu bên cạnh thấy Giả Thụy
mang gương ra soi, gương rơi xuống, mắt trợn to, lại cầm lấy gương. Cuối cùng
gương rơi ra, tay không động đậy nữa. Mọi người đến xem thì đã tắt thở rồi, dưới
quần đầm đìa một vũng tinh lạnh buốt.
Họ mới vội vàng thay quần áo cho hắn
và khiêng hắn lên giường. Vợ chồng Đại Nho khóc lóc, chết đi sống lại, mắng đạo
sĩ ầm lên: “Giống yêu đạo nào đưa lại vật này, hại đời không ít. Sao không đem
đốt nó đi?” Rồi sai người chất lửa đốt cái gương. Bỗng trong gương có tiếng
nói: “Ai bảo soi mặt phải! Các ngươi tự mình lấy giả làm thực, việc gì lại đốt
gương của ta?”
Chợt thấy đạo sĩ khiễng chân từ ngoài
vào, nói to:
Ai đốt cái gương “Phong nguyệt bảo
giám” ta lại cứu đây!
Liền chạy thẳng vào trong nhà cướp lấy
cái gương, rồi vùn vụt ra đi.
Đại Nho đành phải lo liệu việc tang,
báo tin buồn đi các nơi, ba ngày tụng kinh, bảy ngày cất đám, đưa ra quàn ở
chùa Thiết Hạm, đợi ngày đưa về nguyên quán. Người trong họ đều đến viếng. Phủ
Vinh thì Giả Xá giúp hai mươi lạng, Giả Chính giúp hai mươi lạng. Phủ Ninh, Giả
Trân cũng giúp hai mươi lạng; còn những người trong họ giàu nghèo không đều
nhau, người thì một hai lạng, người thì ba bốn lạng. Ngoài ra, các bạn hữu giúp
đỡ cũng được hai ba mươi lạng. Nhà Đại Nho tuy nghèo, nhưng được nhiều người
giúp đỡ, việc tang cũng lo liệu đầy đủ.
Cuối mùa đông năm ấy, Lâm Như Hải mắc
bệnh nặng, viết thư bảo Đại Ngọc phải về, Giả mẫu nghe tin, lại thêm lo buồn,
đành phải sắm sửa cho Đại Ngọc lên đường. Bảo Ngọc bứt rứt khó chịu. Nhưng vì
tình cha con, nên không tiện ngăn giữ.
Giả mẫu bảo Giả Liễn đưa Đại Ngọc đi,
khi xong việc sẽ lại đưa về. Các món quà địa phương và tiền lộ phí đều sắm sửa
đủ cả. Chọn ngày tốt, Giả Liễn cùng Đại Ngọc từ biệt mọi người, mang theo người
hầu xuống thuyền đi Dương Châu.
Chú
thích.
[←102]
Nghĩa
đen của chữ “thủ dâm” trong Tây Sương Ký.
[←103]
Cái
gương báu để cho những người say đắm tình duyên trăng gió tự soi mà tỉnh ngộ lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét