Lý Hoàn của Hồng Lâu Mộng (phần 2): tiếng
hão đành vui phúc về già
Anh Nguyễn
(Tiếp theo phần1)
Sau khi các chị em được phân về Đại Quan Viên, Lý Hoàn trở
thành người phụ nữ duy nhất đã có chồng được vào ở đó. Nàng lãnh nhiệm vụ cai
quản, giáo huấn các cô gái ngây thơ ấy. Đại Quan viên muôn hồng ngàn tía,
có Đại Ngọc là bông phù dung
kiều diễm, Thám Xuân là hoa hạnh cao sang, Tương Vân là đoá hải đường tươi tắn,
Bảo Thoa là mẫu đơn quý phái. Lý Hoàn chẳng được làm hoa. Ở hồi sáu mươi ba,
khi rút thẻ hoa, Lý Hoàn rút được thẻ có hình cây mai già.
Mọi
người cầm thẻ xem, thấy vẽ một cành mai già, viết bốn chữ “Vóc đựng sương mai”.
Mặt sau đề một câu thơ cổ: “Nhà tranh giậu trúc nhưng lòng vẫn vui”.
.
Thế nhưng thay vì đè nén, nghiêm khắc với những cô tiểu
thư trẻ trung kia, Lý Hoàn lại một lòng bảo vệ, thương yêu, chiều chuộng bọn họ.
Như Chu Chiêu Linh nhận xét, dù sống trong cảnh lòng lạnh tro tàn nhưng Lý Hoàn
không mảy may oán thán, chấp nhận tuyết sương để chở che cho những cánh hoa
xuân sắc, để những đóa hoa ấy tận hưởng mùa xuân tươi đẹp (dù ngắn ngủi) nơi Đại
Quan Viên. Sự cao thượng của Lý Hoàn khiến tất cả người trên kẻ dưới đều phải
kính phục.
Nhưng điều đáng ngạc nhiên hơn cả là chỉ sau khi Lý Hoàn
vào Đại Quan Viên, Tào Tuyết Cần mới hé lộ cho ta thấy nàng có một tâm hồn thi
vị, tao nhã chẳng kém gì cô Lâm, cô Tiết. Lý Hoàn không tự mình làm thơ bởi nó
không phù hợp với vị trí trang nghiêm của người quả phụ, viện cớ tài mọn, nàng
chỉ xin nhiệm vụ giám khảo. Nhưng mỗi cuộc thi thơ lại làm ta khám phá thêm những
nét mới của Lý Hoàn. Nàng vui vẻ, cười đùa, trêu chọc các em nhỏ, lại có những
phẩm bình về thơ rất súc tích, xác đáng.
Các chị em mở Hải Đường thi xã
Bỗng
Lý Hoàn đến, cười nói:
–
Nhã quá nhỉ! Định mở thi xã à! Tôi xin nhận chức Chưởng đàn. Mùa xuân vừa rồi,
tôi vẫn có ý ấy, nhưng nghĩ mình không biết làm thơ, thì bày trò làm gì. Vì thế
tôi quên đi, không nhắc đến nữa. Bây giờ cô Ba đã cao hứng, thì tôi cũng xin
giúp để góp phần vui chung.
Đại
Ngọc nói:
–
Đã định mở thi xã thì chúng ta sẽ là thi nhân cả, trước hết nên bỏ những tiếng
xưng hô “chị, em, chú, mợ” đi, mới không tục.
Lý
Hoàn nói:
–
Phải lắm. Đặt những biệt hiệu để gọi nhau mới nhã hơn. Tôi xin tự đặt cho tôi
là “Đạo Hương lão nông”, không ai được giành cái tên ấy.
[…]
Lý Hoàn cười nói:
–
Tôi đã đặt hộ cô Tiết một biệt hiệu rất hay, chỉ có ba chữ thôi.
Mọi
người vội vã hỏi:
–
Chữ gì?
Lý
Hoàn nói:
–
Tôi phong cho cô ấy là Hành Vu Quân, các người nghĩ thế nào?
[…]
Lý
Hoàn nói:
–
Về tình tứ phong lưu thì bài này hay hơn, nhưng về hàm súc hồn hậu thì vẫn phải
nhường cho Hành Vu Quân.
Thám
Xuân nói:
–
Lời phê rất đúng. Tiêu Tương phi tử phải đứng thứ hai.
Lý
Hoàn nói:
–
Di Hồng công tử phải đội bảng, có chịu hay không?
Bảo
Ngọc nói:
–
Bài của tôi thực không hay, lời bình ấy rất công bằng – Lại cười nói – Nhưng cần
phải châm chước lại hai bài của Hành Vu Quân và Tiêu Tương.
Lý
Hoàn nói:
–
Đây là theo bình luận của tôi, không can đến các vị, nếu ai nói nữa sẽ bị phạt.
[…]
Lý Hoàn bình thơ
Trong Hồng Lâu Mộng thường nhắc đến cảnh
Lý Hoàn dạy con học. Sự tham dự của Lý Hoàn vào Hải Đường thi xã và phong cách
của nàng chứng tỏ nàng có đủ khả năng làm việc đó. Vậy nên đâu thể phán xét con
người qua vẻ bề ngoài. Nếu không có những cuộc thi thơ kia, ai có thể ngờ trong
Lý Hoàn vẫn chất chứa lòng yêu đời, yêu người như vậy. Thế mới biết những thứ
tiếng tăm hão huyền, “Tiết hạnh khả phong” ấy làm hại người phụ nữ biết nhường
nào! Trong lá số tiền định của Lý Hoàn đã nói rõ: “Nước sạch, băng
trong, ghen ghét hão. Tiếng tăm còn lại ở nhân gian.” Mặc dù nàng đã
có chậu lan làm niềm vui – đứa con trai Giả Lan (đáo đầu thùy tự nhất bồn lan)
thì số phận của nàng cũng là điều không ai mong muốn, chẳng đáng ghen tị hay khen
chê.
Nếu nhìn Lý Hoàn từ khía cạnh người vợ, người mẹ, ta lại
thấy có nhiều điều khác đáng bàn.
.
Trước hết phải khẳng định rõ ràng một điều: Tào Tuyết Cần
chia những người phụ nữ trong Hồng Lâu Mộng ra thành hai nhóm
rõ rệt: những người đàn bà đã có chồng và những cô gái trinh nguyên. Cũng như Bảo
Ngọc, ông nâng niu dành những tình cảm trong sáng nhất cho những người con gái
ngây thơ, dù họ là tiểu thư hay con ở. Ai có thể quên được Tương Vân hào sảng,
Đại Ngọc thướt tha, Tình Văn cao quý, Phương Quan tinh nghịch … Họ cũng là những
cô gái tài năng: hoặc biết làm thơ, hoặc giỏi vẽ tranh, hoặc ca hát, kết hoa,
thêu thùa, …
Ngược lại, những người đàn bà có chồng trong truyện, dù
là bà lớn hay người hầu cũng đều có những khía cạnh thô tục và tàn nhẫn: Hình phu
nhân nỡ lòng bán cháu nội, Vương phu nhân khiến Kim Xuyến, Tình Văn phải chết,
Phượng Thư cay nghiệt làm hại bao người, Hạ Kim Quế ác độc, Tần Khả Khanh dâm
ô, thậm chí Giả mẫu cũng vô tình lạnh lẽo. Những người đàn bà theo hầu như dì
Triệu, vợ Vương Thiện Bảo, mụ Liễu, mẹ nuôi Phương Quan,… lại càng xấu xa. Những
người đàn bà này cũng đầy tục khí, đa phần họ không biết làm thơ hay treo tranh
gì cả (xem đoạn mô tả nơi ở của hai bậc quyền quý Hình phu nhân, Vương phu
nhân.) Về điều này, Bảo Ngọc đã có nhận xét rất xác đáng:
Khi
con gái chưa đi lấy chồng, khác nào một hạt chân châu rất quý; lấy chồng rồi,
không hiểu sao lại sinh ra rất nhiều tật xấu. Dù vẫn là hạt chân châu đấy,
nhưng đã trở thành hạt châu chết, phai mờ ánh sáng; đến già đi thì không phải hạt
châu, mà là mắt cá đấy! Cũng là một người, sao lại hóa ra ba dạng như thế?
Tại sao lại có sự phân biệt như vậy? Phải chăng Tào Tuyết
Cần kỳ thị các phụ nữ có chồng, cố tình khắc hoạ họ như những… phù thủy cưỡi chổi?
Không phải thế. Một trong những ý tưởng xuyên suốt của Hồng Lâu Mộng là
sự khác biệt giữa hai giới nam và nữ, hay nói đúng hơn là tính nam và tính nữ.
Lại phải mượn lời Bảo Ngọc “Xương thịt của con gái là nước kết thành,
xương thịt của con trai là bùn kết thành. Tôi trông thấy con gái thì người tôi
nhẹ nhàng, khoan khoái, trông thấy con trai thì như bị phải hơi dơ bẩn vậy.” Trong Hồng
Lâu Mộng, không chỉ những cô gái bẩm sinh mà những người đàn ông mang tính
nữ như Tần Chung, Tưởng Ngọc Hàm, Bắc Tĩnh Vương,… cũng cao quý và thanh nhã.
Còn tính nam không chỉ đục dơ từ bản chất mà còn có khả năng làm “ô nhiễm” tính
nữ, chính vì thế những người phụ nữ sau khi lấy chồng đều trở nên cứng rắn và
“trần tục” hơn. Tào Tuyết Cần đã làm một cuộc cách mạng lật đổ tư tưởng trọng
nam khinh nữ bằng ngòi bút.
Trong cái thế lưỡng cực đó, Lý Hoàn là một trường hợp đặc
biệt nhưng vẫn phản ánh đúng tinh thần trọng nữ khinh nam của
tác giả. Nàng đã có chồng, nên không khỏi bị xếp hạng thấp trong Kim Lăng thập
nhị thoa chính sách, nhưng vì xa rời ảnh hưởng ô trọc của đàn ông đã lâu, nên vẫn
giữ được tính tình hiền lành và cốt cách trong sáng. Sự nhân từ của Lý Hoàn xuất
phát từ trong tâm nên nàng được gia nhân trong nhà tôn là Phật sống, chỉ có
nàng đến bầu bạn cùng Đại Ngọc khi nàng sắp lìa đời. Nàng vẫn giữ được tâm hồn
lãng mạn và yêu nghệ thuật nên được cùng các chị em bầu bạn nơi Đại Quan Viên,
dù chẳng thể sống lại tuổi trẻ để bay nhảy cùng bọn họ. Vì thế Lý Hoàn là một
trong những số ít người phụ nữ có số mệnh tươi sáng hơn ở thì tương lai:
Mũ
châu áo phượng thướt tha
Chống
làm sao nổi vận nhà bấp bênh
Già,
nghèo khó chịu đã đành
Cũng
nên tích đức để dành về sau
Ngông
nghênh trâm ngọc trên đầu
Ấn
vàng trước ngực muôn màu sáng tươi
Uy
quyền lộc vị lẫy lừng
Suối
vàng buồn thảm đường chừng gần thôi
Xưa
nay khanh tướng còn ai
Hoạ
còn tiếng hão cho đời ngợi khen
.
Trong lá số tiền định Lý Hoàn chính là mỹ nhân đội mũ phượng,
mặc áo màu ráng trời, ý nói Giả Lan sẽ thi đậu thành công được làm quan, mang lại
phúc phận tuổi già cho mẹ. Người viết ưu ái Lý Hoàn, không để nàng chết trong tủi
nhục như Phượng Thư, Nghênh Xuân, Đại Ngọc, lại không phải chịu
cảnh dơ bẩn như Diệu Ngọc, Tần Khả Khanh. Sự tưởng thưởng này liệu
có xứng đáng với cái tiếng hão kia chăng? Xin để cho bạn đọc tự xét.
*
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét